Luận văn: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
lượt xem 122
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn "Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ" là: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận giáo dục đại học và thực tiễn quản lý của Nhà trường, làm rõ và đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên khi áp dụng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học An Giang, góp phân nâng cao nhận thức về công tác quản lý hoạt động tự học trong môi trường đại học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
- QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ 1
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bối cảnh nhân loại đã và đang bước vào kỷ nguyên của công nghệ thông tin cùng với nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ, giáo dục và đào tạo đang diễn ra những biến đổi sâu sắ c trên quy mô toàn cầu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trước đó, tại Báo cáo chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định các nguồn lực tác động đến sự phát triển của xã hội ta trong giai đoạn hiện nay gồm: nguồn lực con người Việt Nam; nguồn tài nguyên thiên nhiên; cơ sở vật chất kỹ thuật; các nguồn lực ngoài nước. Trong các nguồn lực đó, Đảng ta khẳng định nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất và đóng vai trò then chốt. Nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy sáng tạo, có ý chí và có trí tuệ, biết sử dụng và vận dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng góp phần tác động vào quá trình đổi mới đất nước. Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó trí tuệ con người là nguồn lực vô tận. Đối với nước ta, phát triển nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đang là nhu cầu cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng xu thế chuyển dần sang nền kinh tế tri thức đang được các 2
- nước ưu tiên. Trong đó, lao động tri thức là nhân lực đóng vai trò hàng đầu của sự phát triển kinh tế. Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học là phương thức cơ bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Tự học tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua các câu thành ngữ, tục ngữ "Học một, biết mười", "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn", "Học thầy không tày học bạn",... Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học. Tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về việc "lấy tự học làm gốc" đã được nhân dân ta luôn coi trọng. Điều 5 của Luật Giáo dục 2005 quy định "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên"; "… đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh phát triển phong trào tự học, tự đào tạo..."; "… tạo ra năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh" [9]. Nghị quyết số 14/2005/NQCP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 nêu rõ: “Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài”[10]. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế, trong đó, vấn đề đổi mới phương thức 3
- đào tạo và quản lý đào tạo theo hướng hiện đại hoá đã và đang trở thành một yêu cầu cấp bách. Trường Đại học An Giang đang trong cơ chế chuyển đổi từ phương thức đào tạo theo niên chế học phần sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, điều này vừa đồng thời tạo ra vừa đòi hỏi một sự thay đổi lớn về công tác quản lý đào tạo của Nhà trường. Đối với phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi là nhân tố quan trọng, quyết định việc đẩy mạnh chất lượng đào tạo của Trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chất lượng đào tạo của Trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, điều này có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, trong đó, các biện pháp quản lý có thể là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến chất lượng đào tạo. Lý luận về khoa học quản lý cho thấy, hoạt động có ý thức của con người luôn bao hàm ý nghĩa của quản lý. Để đạt được mục đích đề ra, các biện pháp, phương thức quản lý luôn được xem là một nhân tố quan trọng. Xuất phát từ cơ sở nhận thức đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: " Quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận giáo dục đại học và thực tiễn quản lý của Nhà trường, làm rõ và đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên khi áp dụng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học An Giang, góp phân nâng cao nhận thức về công tác quản lý hoạt động tự học trong môi trường đại học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang. Đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu. Hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 5. Giả thuyết khoa học Hiện nay, kết quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang còn hạn chế. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ là điều cấp thiết. Nếu áp dụng đầy đủ, đồng bộ các biện pháp quản lý cùng với sự đảm bảo điều kiện vật chất cần thiết thì hoạt động tự học của sinh viên trong điều kiện áp dụng phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ đạt được hiệu quả mong muốn, đảm bảo chất lượng đào tạo. 6. Phạm vi nghiên cứu Căn cứ vào mục đích nghiên cứu đã đặt ra, nội dung luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động tự học của sinh viên năm thứ II, III, IV Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang (200 phiếu), nơi tác giả 5
- đã và đang trực tiếp làm việc; nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên đáp ứng đào tạo theo hệ thống tín chỉ của Nhà trường (40 giảng viên và cán bộ quản lý). Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng, tác giả đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ trong giai đoạn hiện nay. 7. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, trên cơ sở thế giới quan khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng gồm: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích tổng hợp những tư liệu như: tư liệu về giáo dục học tâm lý học, lý luận về quản lý giáo dục, các văn bản về sinh viên, về tín chỉ. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra bảng hỏi, phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia. Nhóm các phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng các công thức toán học như trung bình cộng, thống kê và phân tích số liệu,... 8. Giới hạn của đề tài Mục đích nghiên cứu đã xác định và sự chi phối của các điều kiện khách quan về nhận thức, về cơ chế đảm bảo, nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang trong giai đoạn hiện nay, với 6
- hy vọng qua việc phân tích cho Khoa Sư phạm sẽ mở rộng kết quả cho các Khoa khác trong giai đoạn tiếp theo. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương l: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang. Chương 3: Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. Chương l CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trò to lớn thức đây sự tiến bộ của xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia đều dựa trên nền tảng tri thức và muốn có tri thức thì phải phát triển giáo dục. Ý thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của tri thức, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương hướng, con đường thực hiện là kết hợp đến trường, giáo 7
- dục từ xa và tự học. Trong đó tự học để trưởng thành là vô cùng quan trọng. Một trong những đặc trưng cơ bản quan trọng nhất trong xã hội học tập là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “Việc học không bao giờ là muộn" (Ngạn ngữ) hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học" (Đác uyn). Quan niệm tự học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở cửa đi vào thế kỷ 21 thế giới của nền kinh tế tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, vấn đề học tập và rèn luyện. Có nhiều bài phát biểu, bài viết trong những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng bao giờ Bác cũng nhấn mạnh đến tác dụng và hiệu quả to lớn của việc học tập và rèn luyện. Bác cho rằng học tập giúp con người tiến bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi hiệu quả lao động. Đặc biệt, Bác rất nhấn mạnh đến tác dụng của tự học. Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc ngày 6 tháng 5 năm 1950, Bác đã khuyên học viên: “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”. Ở tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác cũng nhắc nhở về cách học tập: "Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo góp vào”[13, Tr.57]. Như vậy, theo Bác việc tự học giữ vai trò rất quan trọng, có tác dụng quyết định cho kết quả học tập. Việc tự học phải xuất phát từ động lực của chính bản thân người học, nhưng vẫn cần sự hỗ trợ, tác động từ môi trường học tập, cần sự chỉ đạo hướng dẫn của nhà trường, của người thầy. Nhằm đổi mới phương thức tổ chức đào tạo ở đại học trong điều kiện Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang 8
- nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sau Hội nghị Hiệu trưởng ở Vũng Tàu năm 1988, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) đã ban hành Quy chế tạm thời về quản lý đào tạo làm cơ sở cho việc triển khai “quy trình đào tạo mới” theo học phần và sau một vài năm áp dụng, quy chế này được chính thức hoá vào tháng 12 năm 1990. Học chế tín chỉ được khai sinh năm 1872, tại Viện Đại học Harvard (Hoa Kỳ) dưới sự điều hành của Charles Eliot, xuất phát từ yêu cầu là quá trình đào tạo được tổ chức sao cho người học lựa chọn được cách học phù hợp nhất với khả năng, điều kiện của mình và cơ sở đào tạo phải thích ứng dễ dàng trước nhu cầu biến động nhanh chóng, đa dạng của đời sống xã hội. Với ý nghĩa đó, đào tạo theo học chế tín chỉ phát triển nhanh và lan rộng ra toàn nước Mỹ. Từ đầu thế kỷ XX, học chế tín chỉ phát triển ra nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như: Nhật, Philippines, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Senegal, Mozambic, Nigieria, Uganda,… Tr ước sự lớn mạnh đó, 29 Bộ trưởng đặc cách giáo dục đại học ở các nước Liên minh Châu Âu ký “Tuyên ngôn Boglona” với mục đích hình thành “Không gian giáo dục đại học Châu Âu” (European Higher Education Area) nhằm triển khai học chế tín chỉ trong toàn bộ hệ thống giáo dục đại học. Ở Việt Nam, trước năm 1975, học chế tín chỉ được triển khai ở Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức. Sau năm 1975, tư tưởng về học phần xuất hiện năm 1987, quy chế đào tạo theo học phần tạm thời ra đời năm 1988 và hoàn chỉnh vào năm 1990 với khái niệm HỌC PHẦN và ĐƠN VỊ HỌC TRÌNH, đào tạo theo 2 khối kiến thức và 3 học phần, điểm trung bình chung. Học chế học phần được xây dựng với mục 9
- đích tạo điều kiện cho người học tích luỹ dần kiến thức theo các môđun. Như vậy, học chế học phần có điểm giống nhau cơ bản với học chế tín chỉ, nhưng nó chưa phải hoàn toàn là tín chỉ mà thực chất là sự kết hợp giữa niên chế và tín chỉ. Trường Đại học tiên phong áp dụng học chế học phần triệt để học chế tín chỉ là Trường Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, năm học 1993 – 1994. Sau đó, các Đại học khác như Đà Lạt, Cần Thơ, Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh, Thuỷ sản Nha Trang, Dân lập Thăng Long – Hà Nội, Hải Phòng, Thương Mại, Nông Nghiệp Hà Nội, Hoa Sen TP. Hồ Chí Minh, Dân lập Phương Đông,… cũng đã triển khai học chế tín chỉ. Trong "Chương trình hành động của Chính phủ” thực hiện nghị quyết số 37/2004/QH11 khoá XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ: "Mở rộng, áp dụng học chế tín chỉ trong đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,...". Năm học 2009 – 2010, có nhiều trường Đại học, Cao đẳng đang tích cực chuẩn bị đào tạo theo học chế tín chỉ theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sự phát triển này đánh dấu bước đổi mới đúng đắn của giáo dục đại học Việt Nam [5, tr.7]. Triết lý cơ bản của hệ thống tín chỉ là "Tôn trọng người học, xem người học là trung tâm của quá trình đào tạo". Nói cách khác, đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo hướng về người học, tất cả vì người học. Chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo ra sự thay đổi lớn về phương cách, thói quen dạy học của người dạy lẫn người học. Đối với hình thức đào tạo này thì khối lượng giờ giảng trên lớp sẽ giảm đi, mà sẽ tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Vì vậy, khi áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ, việc tự học, tự nghiên 10
- cứu của sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả chất lượng đào tạo. Trường Đại học An Giang cũng đang tổ chức thực hiện chuyển đổi hình thức đào tạo từ niên chế học phần sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Có thể thấy, trong nhiều tài liệu nghiên cứu về hoạt động tự học, các nhà nghiên cứu đều khẳng định tự học không phải là một đề tài mới lạ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu hoạt động tự học trong học chế tín chỉ vẫn còn là vấn đề mới. Vì vậy, trong luận văn này tác giả tập trung vào việc xây dựng các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường theo học chế tín chỉ. 1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài Để xác định rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, chúng ta sẽ tìm hiểu nội hàm của một số khái niệm có liên quan đến đề tài. 1.2.1. Hoạt động tự học 1.2.1.1. Khái niệm hoạt động học Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và những phương thức hành vi mới, do vậy, ta thấy học chính là hoạt động nhằm tạo ra sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách thức chiếm lĩnh khác nhau. Đó có thể là do được người khác truyền thụ, do tự quan sát, đúc kết từ lao động, môi trường sống,... Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và nó diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành công việc qua lao động sản xuất, hoạt động vui chơi,. .. không có chủ định dẫn đến kết quả tri thức mà người học nắm được sẽ rời rạc và không có hệ 11
- thống. Ở người học chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại. Nhưng thực tiễn để có thể tự cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người thì đòi hỏi con người phải nắm được các quy luật của tự nhiên, xã hội và quy luật về sự hình thành, phát triển con người. Nói một cách khác, ngoài việc lĩnh hội những tri thức mang tính kinh nghiệm ra, con người cần phải nắm bắt được những tri thức khoa học, những năng lực thực tiễn mới mà cách học ngẫu nhiên không tạo ra được. Để có được những năng lực đó, người ta tiến hành một hoạt động hướng vào để thực hiện mục tiêu đó là hoạt động học (học có chủ định). 1.2.1.2. Khái niệm tự học Tự học (selflearning) là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định. Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề tự học ở nhiều góc độ khác nhau. Dưới đây là một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề này: Thông thường khái niệm "Tự học" được hiểu là "Tự học lấy một mình trong sách chứ không có thầy dạy" (Theo Thanh Nghị, trong Việt Nam tân từ điển) cũng có thể hiểu là "Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học". Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Hiến Lê, trong quyển "Tự học một nhu cầu thời đại” ông lại cho rằng khái niệm "Tự học" nếu được hiểu là "… không ai bắt buộc mà mình tự tìm tòi, học hỏi để hiểu biết 12
- thêm và có thầy hay không, ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được, đó mới là điều kiện quan trọng", ông cũng trích dẫn để làm rõ hơn về khái niệm và tầm quan trọng của tự học " Mỗi người đều nhận hai thứ giáo dục: Một thứ, do người khác truyền cho, một thứ quan trọng hơn nhiều, do mình tự kiếm lấy". [26, Tr.39]. Theo tác giả Lê Khánh Bằng: "Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định" [15, Tr.3]. Quan điểm này, tác giả cho rằng tự học là việc học của chính bản thân người học, chính họ phải huy động các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh những tri thức khoa học của loài người và biến những tri thức đó thành vốn kinh nghiệm của bản thân. Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Việc tự học sẽ được tiến hành khi người học có nhu cầu muốn hiểu biết một kiến thức nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm lĩnh được kiến thức đó” [34, Tr.59]. Như vậy, tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học nhằm chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Tự học giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành động mới bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Tự học hình thành nên những con người năng động, sáng tạo. 13
- Các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ trong những năm gần đây thuộc ngành quản lý giáo dục cũng đã đề cập đến vấn đề tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trong từng hoàn cảnh nhà trường cụ thể, của từng môi trường đào tạo ngành nghề chuyên biệt. Những luận văn này đã đóng góp một phần tích cực trong các công tác quản lý của nhà trường với hoạt động tự học nói riêng và của giáo dục nói chung. 1.2.2. Sinh viên Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "Student" có nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó được dùng cùng nghĩa tương đương với từ "Student" trong tiếng Anh, "Etudiant" trong tiếng Pháp và "Cmgenm" trong tiếng Nga. "Sinh viên" là để chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh đang theo học ở bậc phổ thông. Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ "sinh viên" được diễn nghĩa ra là người bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "sinh viên" được dùng để chỉ người học ở bậc đại học [12]. Theo Quy chế công tác Học sinh Sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì: " sinh viên" là người đang theo học hệ đại học và cao đẳng. Từ đó ta có thể hiểu: khái niệm "sinh viên" là những người đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của xã hội. 1.2.3. Quản lý 1.2.3.1. Khái niệm quản lý Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo từng nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. 14
- Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học nghiên cứu quản lý từ góc độ riêng của mình và đưa ra những định nghĩa khác nhau. Chúng tôi sẽ trình bày dưới đây một số định nghĩa, quan niệm về "Quản lý" của các nhà triết học, nhà khoa học quản lý như sau: Theo Harold Koontz: "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằn hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có thể tổ chức về quản lý là một khoa học" [25, Tr.33]. Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: “Quản lý là phương thức tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống bao gồm hệ các quy tắc ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ sớm đạt tới mục tiêu” [24]. "Quản lý (cai trị) là công việc của các bậc đại nhân. Đó là biết tập hợp quanh mình những người hiền" (Mặc Tử, Trung Hoa). Theo H.Fayol (l841 1925), nhà tư tưởng Pháp: "Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra". F.W.Taylor (1856 1915), người được coi là "cha đẻ của thuyết quản lý khoa học" đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: "Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ". Theo ông: "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất". 15
- Peter Drucker quan niệm: "Quản lý là một chức năng xã hội nhằm để phát triển con người và xã hội với những hệ giá trị, nội dung, phương pháp biến đổi không ngừng". Qua các định nghĩa và quan niệm về “Quản lý” như đã trình bày ở trên, ta thấy rằng trong hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay một nhóm người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác động, chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. Quản lý có nhiều loại khác nhau, trong đó quản lý xã hội là phức tạp nhất. Bởi vì, xã hội một mặt là hệ thống trên của kinh tế, bao gồm toàn bộ các hoạt động về kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, tinh thần, … nên nó chứa đựng tất cả những sự phức tạp của các đối tượng phải quản lý; mặt khác trong quá trình quản lý xã hội còn có những quan hệ phi kết cấu như quan hệ đạo đức, quan hệ cá nhân, quan hệ xã hội nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Hơn nữa, sự tác động qua lại giữa các đối tượng, các quan hệ làm cho việc quản lý càng phức tạp và khó khăn hơn. Do vậy, quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô. 1.2.3.2. Chức năng quản lý Tiến trình quản lý là một phức hợp những kỹ năng có tính hệ thống rất sinh động và phức tạp. Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều loại công việc khác nhau. Những loại công việc quản lý này gọi là các chức năng quản lý. Như vậy, các chức năng quản lý là tập hợp những nhiệm vụ quản lý khác nhau, mang tính độc lập tương đối, được hình 16
- thành trong quá trình chuyên môn hoá hoạt động quản lý. Có 4 chức năng cơ bản nhất là: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. + Chức năng lập kế hoạch: Lập kế hoạch là việc xác định các mục tiêu và mục đích mà tổ chức phải hoàn thành trong tương lai và quyết định về cách thức để đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên và cơ bản nhất trong hệ thống chức năng quản lý theo giai đoạn, là cơ sở của các chức năng còn lại. Để lập kế hoạch bao gồm có ba giai đoạn: . Xác định các mục tiêu (phương hướng) cho tổ chức . Nhận diện các nguồn lực của tổ chức để thực hiện các mục tiêu đó . Quyết định về những hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu đã đề ra. + Chức năng tổ chức: Tổ chức là sự kết hợp hoạt động của những bộ phận sao cho chúng liên kết với nhau trong một cơ cấu chặt chẽ, hợp lý tạo thành một hệ thống thống nhất như một cơ thể sống. Đó là sự liên kết những cá nhân, những quá trình, những hoạt động trong hệ thống, thông qua đó để thực hiện các mục tiêu chung của hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc quản lý. Bằng cách thiết lập một tổ chức hoạt động hữu hiệu, các nhà quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực, nhân lực. Tiến trình tổ chức bao gồm việc thiết lập các bộ phận, phòng ban và xây dựng các bản mô tả công việc. Vấn đề nhân sự cũng xuất phát trực tiếp từ các chức năng lập kế hoạch và tổ chức. + Chức năng chỉ đạo: 17
- Chỉ đạo là quá trình chủ thể quản lý sử dụng quyền lực quản lý của mình để điều hành, tác động đến hành vi của các cá nhân, bộ phận trong hệ thống một cách có chủ đích để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu đạt được các mục tiêu chung của tổ chức. Nội dung cơ bản của chức năng chỉ đạo là chủ thể quản lý phải thực hiện nhiệm vụ ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định đó. Quá trình này bao gồm các hoạt động phân công, hướng dẫn, đôn đốc, động viên, thúc đẩy họ hoàn thành nhiệm vụ. + Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là căn cứ vào kế hoạch và mục tiêu đã định để xem xét, đo lường và đánh giá việc thực hiện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Đồng thời, kiểm tra cũng nhằm tìm kiếm các cơ hội, các nguồn lực có thể khai thác để thúc đẩy hoạt động của tổ chức. Trong hoạt động quản lý, chức năng kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng, thông qua chức năng kiểm tra một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động, nếu kết quả hoạt động không đạt được đúng với mục tiêu, người quản lý sẽ tiến hành những biện pháp điều chỉnh, sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả quản lý, người lãnh đạo cần phải thực hiện chức năng kiểm tra. Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối liên hệ ngược trong quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra: . Xây dựng chuẩn để thực hiện. . Đánh giá việc thực hiện dựa trên chính sách so với chuẩn. 18
- . Nếu kết quả hoạt động có sự chênh lệch so với chuẩn thì cần điều chỉnh hoạt động để đạt được hiệu quả mong muốn. Bốn chức năng của hoạt động quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai đoạn với sự tham gia của hai yếu tố vô cùng quan trọng đó là thông tin và quyết định. Trong đó thông tin có vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một quá trình quản lý tiếp theo. Hình 1.1. Sơ đồ chức năng của quản lý Kế hoạch Kiểm tra Thông tin Tổ chức Chỉ đạo 1.2.3.3. Vai trò quản lý Quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Từ xa xưa, vai trò của quản lý đã được thể hiện một cách giản dị qua câu nói dân gian: "Một người biết lo bằng cả kho người làm". Về sau, CácMác đã khẳng định: “Mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động chung khi thực hiện trên một quy mô tương đối lớn ở mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản lý”, và ông hình dung quản lý giống như công việc của người nhạc trưởng trong một dàn hợp xướng. Các nhà lý luận về khoa học quản lý như Taylor (l856 1915) của Mỹ, Fayol (1841 1925) của Pháp và Max Weber (1864 1920) của Đức 19
- đều khẳng định rằng quản lý là khoa học, đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trong xã hội, mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống đều có hoạt động quản lý, ví dụ như: quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản lý văn hoá, quản lý khoa học và công nghệ,... Mỗi lĩnh vực quản lý sẽ có nét đặc thù riêng, song tựu trung lại đều có những nét về bản chất và đặc trưng chung của hoạt động quản lý và nó góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả nói chung của mỗi tổ chức cũng như công việc của từng con người nói riêng trong một hệ thống nhất định. Trong chiến lược phát triển giáo dục, các nhà chuyên môn đã đưa ra giải pháp tăng cường công tác quản lý giáo dục như một biện pháp chiến lược mang tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo. Hiện nay, cùng với sự bùng nổ thông tin khoa học kỹ thuật, việc nghiên cứu và áp dụng những thành tựu khoa học mới vào hoạt động quản lý sẽ làm tăng hiệu quả quản lý. Vì thế, ở khía cạnh này có thể khẳng định rằng trong thực tại "Quản lý còn được xem là công nghệ công nghệ điều hành, phối hợp và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin của một tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra" [20]. Ngày nay, mọi người đều thừa nhận tính tất yếu của quản lý. Đây là một trong những hoạt động vừa khó khăn, phức tạp, vừa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại, diệt vong, suy thoái hay thịnh vượng của một tổ chức, một quốc gia, một châu lục hay toàn cầu. Thật vậy, năm học 2009 – 2010, ngoài các chương trình hành động do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động, còn có chủ đề tiêu biểu của năm học là: “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. 1.2.4. Học chế tín chỉ 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
99 p | 63 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động thư viện thân thiện tại trường tiểu học trên địa bàn thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương
151 p | 29 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại Trường Cao đẳng nghề Việt Nam – Singapore
183 p | 16 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng chuyên môn giáo viên mầm non trên địa bàn thị xã Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương
181 p | 57 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động thư viện ở trường trung học cơ sở trên địa bàn thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
213 p | 25 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên tại các trường THPT huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương
105 p | 25 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tích hợp giáo dục pháp luật cho học sinh các trường THPT tại thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước
187 p | 18 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động đảm bảo an toàn cho trẻ ở các trường mầm non tư thục thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương
157 p | 17 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý tại các trường mầm non công lập thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
170 p | 18 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy phụ đạo học sinh yếu kém trong trường trung học cơ sở trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương
182 p | 19 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động phụ đạo học sinh yếu kém tại các trường trung học cơ sở huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương
185 p | 10 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động câu lạc bộ Tuồng trên địa bàn huyện Nông Sơn, Tỉnh Quảng Nam
121 p | 23 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học tại các trường trung học cơ sở huyện mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre
111 p | 24 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tổ chuyên môn trong trường trung học phổ thông thuộc huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
185 p | 39 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động phòng, chống dịch bệnh cho trẻ ở các trường mầm non trong khu vực 2, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
190 p | 12 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Quản lý hoạt động dịch vụ văn hóa trên địa bàn quận hai Bà Trưng thành phố Hà Nội hiện nay
104 p | 11 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tự học của học sinh bán trú tại các trường trung học cơ sở huyện Kbang, tỉnh Gia Lai
152 p | 12 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục lao động ở trường tiểu học trên địa bàn thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương
194 p | 12 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn