Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 5
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng; Thực trạng về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ MAI THỊ THU THẢO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ MAI THỊ THU THẢO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHAN ANH TUẤN Hà Nội - 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác thi đua, khen thưởng, Người nói “Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi đua” và công việc hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi đua. Phong trào thi đua yêu nước do Người khởi xướng và lãnh đạo từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã nhanh chóng phát triển và thành phong trào sâu rộng và liên tục của nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. “Thi đua- khen thưởng” (TĐKT) là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới, thi đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng ngày. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, công tác TĐKT ngày càng giữ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống lao động xã hội. Công tác TĐKT thực sự trở thành động lực thúc đẩy mọi người, mọi thành phần trong xã hội thi đua lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, sáng tạo; góp phần quan trọng trong xây dựng cuộc sống mới, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới (con người xã hội chủ nghĩa) ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Vì vậy trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và không ngừng hoàn thiện chính sách, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng ngày càng cách thiết thực, phù hợp với từng loại hình cơ quan, địa phương, đơn vị nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thông qua phong trào thi đua, góp phần hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng và cả nước nói chung trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong từng giai đoạn, nhiệm kỳ đại hội của Đảng đã đề ra, hoàn thành mục tiêu đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2035 mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Là một trong những Quận mới được thành lập còn non trẻ của Thành phố Hồ Chí Minh (01/04/1997), trên cơ sở nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương và của Thành ủy Thành ủy, Kế hoạch phát động thi đua hằng năm của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (UBND); công tác TĐKT của Quận 12, đặc biệt trong những năm gần đây (giai đoạn 2015-2020) đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng, xây dựng động cơ đúng đắn và trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao; khắc phục nhận thức lệch lạc, sai trái; cổ vũ phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp và ngày càng thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân đăng ký thi đua trên tất cả 1
- các lĩnh vực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội tại cơ quan, địa phương và đơn vị bằng những công trình, mô hình sáng tạo, hiệu quả được nhân rộng điển hình và đưa vào sử dụng thực tiễn trên địa bàn Quận. Nhận thức được vai trò quan trọng của thi đua, khen thưởng đối với quá trình lãnh đạo hệ thống chính trị trong xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, là một trong những công cụ quan trọng trong việc tạo động lực cho các cơ quan, đơn vị. cán bộ, đảng viên, công chức không ngừng nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; hàng năm, Quận ủy thường xuyên chỉ đạo Ủy ban Nhân dân quận, trực tiếp là Hội đồng thi đua, khen thưởng quận không ngừng đổi mới, bám sát và thực hiện đúng các nội dung được quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành, các quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời có những biện pháp đặc thù, phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương để xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả công tác thi đua khen thưởng trên các lĩnh vực. Vì vậy mà trong thời gian qua, công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn quận 12 từng bước đã đi vào nề nếp, đi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ thể: Hội đồng thi đua khen thưởng quận cơ bản đã hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan công tác thi đua, khen thưởng; các nội dung thi đua đều bám sát nhiệm vụ chính trị, có chú trọng những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm; đã ban hành chính sách chi tiền thưởng phù hợp, có tác dụng động viên rất lớn đối với các hoạt động thi đua; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyên truyền, phổ biến và triển khai các quy định về thi đua, khen thưởng; … Qua đó, góp phần củng cố quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, xã hội địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tựu nêu trên, công tác TĐKT trên địa bàn Quận 12 trong thời gian qua cũng còn những hạn chế chưa được khắc phục như: ở một số cơ quan, đơn vị tổ chức phong trào thi đua còn mang tính hình thức; chưa gắn kết thi đua với những công việc thường xuyên, hàng ngày và nhiệm vụ trọng tâm tại đơn vị; nội dung, tiêu chí chưa cụ thể. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào thi đua chưa kịp thời nắm bắt những vấn đề phát sinh từ thực tiễn đặt ra; nhiều nơi còn lúng túng trong việc trong việc thực hiện đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức thi đua; kinh phí khen thưởng không tương xứng với phong trào thi đua nên chưa phát huy, tạo được động lực và duy trì các phong trào được hình thành từ cơ sở; công tác phân công, theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên; chưa đầu tư đúng mức cho từng phong trào thi đua do đó tính động lực và hiệu quả của các phong trào còn hạn chế; công tác xem xét, đánh giá khen thưởng có lúc còn mang tính cào bằng, bình quân nên thiếu tính chính xác và công bằng trong thi đua. Tổ chức bộ máy và cán bộ chuyên trách công tác TĐKT nhìn 2
- chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra do còn thụ động, thiếu tính năng động, sáng tạo của một cán bộ làm phong trào, nặng về hành chính dẫn đến công tác tham mưu hạn chế, chậm đổi mới nên hiệu quả, chất lượng phong trào có lúc chưa đạt được mục đích, yêu cầu như kế hoạch đã đặt ra ngay từ ban đầu. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đất nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra cả cơ hội và thách thức, đòi hỏi công tác thi đua, khen thưởng phải có nhiều đổi mới. Thấm nhuần tư tưởng về thi đua yêu nước và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Càng khó khăn càng phải thi đua”; đồng thời, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận 12 lần thứ VI, nhiệm kỳ 2020-2025, và chủ đề của Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X “Đoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và thành quả 05 năm qua, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác TĐKT trong thời gian tới, khắc phục triệt để những hạn chế trong thời gian qua thì công tác TĐKT cần phải được tập trung thực hiện, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, đặc biệt là người đứng đầu, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác TĐKT. Nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu và vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của cả xã hội tham gia, làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động cách mạng sâu rộng trong cả nước. Muốn đạt được kết quả trên, đòi hỏi công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác TĐKT ở Quận 12 nói riêng phải không ngừng đổi mới để nâng cao chất lượng đem lại hiệu quả thiết thực, đây là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong việc tạo ra những động lực, làm đòn bẩy phát triển kinh tế- xã hội nước ta phát triển nhanh và bền vững, góp phần thực hiện thành công con đường xây dựng đi lên xã hội Chủ nghĩa mà Đảng mà Bác Hồ đã lựa chọn. Với mục đích và yêu cầu trên, là một cán bộ, đang công tác tại một đơn vị phối hợp thực hiện công tác thi đua, khen thưởng tại Quận 12, sau khi kết thúc khóa học Cao học chuyên ngành Chính sách công của Học viện khoa học xã hội, Tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp, và mong rằng đề tài này có thể đóng góp 3
- một phần nhỏ bé của mình cùng Hội đồng thi đua, khen thưởng của Quận tham mưu cho Quận ủy lãnh đạo, chỉ đạo, xác định mục tiêu trong tâm và đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2020-2025 và những năm tiếp theo sát với thực tiễn, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương và gắn với nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội - quốc phòng, an ninh trên địa bàn Quận 12 nói riêng và Thành phố Hồ Chí Minh nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, một số cá nhân, tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng và các nhà quản lý, nghiên cứu khoa học đã có những đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này, được công bố trên sách, báo, tạp chí, các luận án, luận văn. Cụ thể: * Các sách liên quan đến đề tài có thể kể đến như: - Lê Hải Triều (2003), Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thi đua - khen thưởng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. - Trương Quốc Bảo (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Hà Trang (2010), Tìm hiểu quy định mới về thi đua khen thưởng, NXB Dân trí, Hà Nội - Bích Hạnh (2015), Hỏi - Đáp pháp luật về thi đua, khen thưởng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Linh Đan (2016), Hướng dẫn mới nhất về phòng, chống tham nhũng, xử lý sai phạm và thi đua khen thưởng trong công tác quản lý ngành giáo dục - đào tạo, NXB Lao động, Hà Nội - Nguyễn Thị Thu Vân (Chủ biên) (2017), 50 câu hỏi đáp về thi đua, khen thưởng trong các cơ quan, tổ chức, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Các sách liên quan đến đề tài chủ yếu là dưới dạng văn bản pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng, tuy nhiên các tài liệu này là cơ sở để luận văn xác định rõ chính sách thi đua khen thưởng của nhà nước ta làm cơ sở để nghiên cứu về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. * Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ có liên quan đến đề tài có thể kể đến như: - Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Bùi Đình Trưởng (2016), Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi : Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. 4
- - Phạm Thu Thủy (2016), Chính sách thi đua, khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. - Bùi Thị Tuyết Nhung (2017), Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Chính sách công, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Các luận án, luận văn nêu trên là tài liệu rất quan trọng cho tác giả tham khảo trong việc nghiên cứu kết cấu đề tài luận văn cũng như tham khảo trong việc xây dựng lý luận về thực hiện chính sách thi đua khen thưởng. * Các bài viết trên các tạp chí có liên quan đến đề tài có thể kể đến như: - Nguyễn Thị Doan (2008), “Đẩy mạnh phong trào thi đua cà công tác thi đua- khen thưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, Tháng 6/2008, tr.3-6 -Trần Hữu Nam (2010), “Một số giải pháp đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, Tạp chí Nhà nước, số 178/11/2010. - Văn Tất Thu (2010), “Những hạn chế trong quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng hiện nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 36/2010. - Nguyễn Hữu Nam (2011), “Công tác thi đua, khen thưởng từ góc nhìn cải cách hành chính nhà nước”, Tạp chí Nhà nước, số 180/2011. - Dương Nguyễn Duy Thành (2013), “Đảm bảo tính thống nhất trong quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng”, Tạp chí Thanh tra, số 66/2013. - Lê Văn Phong (2014), “Công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2009-2014)”, Tạp chí Lịch sử Đảng; Số 9 (286), tr. 52-56 - Đỗ Phương Đông (2015), “Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong Đảng”, Tuyên giáo, Số 8, tr. 37-39 - Lương Thị Tâm Uyên (2015), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước để đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, Quản lý Nhà nước, Số 232, tr. 9-13 -Trần Thị Hà (2018), “Vận dụng tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đổi mới công tác thi đua - khen thưởng hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, Số 908,tr. 14-18 Các bài viện này đề cập đến chính sách và thực hiện chính sách thi đua khen thưởng ở các khía cạnh khác nhau và ở các cơ sở khác nhau. Đây là nguồn tài liệu tham khảo cho tác giả khi nghiên cứu thực hiện chính sách thi đua khen thưởng trong các lĩnh vực, địa phương cụ thể Như vậy, qua các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn cho thấy: các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến việc thực hiện chính sách thi đua khen 5
- thưởng ở mức độ lý luận chung và hiện nay chưa có tài liệu nghiên cứu đầy đủ và chính thức về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn cụ thể là Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, trong luận văn này tác giả nghiên cứu các nội dung như: thực trạng công tác thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2020; những kinh nghiệm đúc kết qua thực tiễn trong thời gian qua; đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12 trong thời gian tới về cơ bản không trùng lặp với các công trình đã nghiên cứu trước đây và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ chính sách TĐKT của Đảng, Nhà nước ta và của Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách TĐKT trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua; từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện các mục đích nêu trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách TĐKT. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách TĐKT trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen trên địa bàn Quận 12 và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực hiện chính sách TĐKT trong trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; - Thời gian: luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách thi đua khen thưởng giai đoạn từ 2015 đến 2020 trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận 6
- - Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp nghiên cứu hệ thống hóa: tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên cứu quan điểm, chính sách, pháp luật về TĐKT thông qua việc tổ chức thực hiện chính sách thi đua (PTTĐ) trên địa bàn Quận 12; các đề án, luận văn, các báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước của các Quận trong Thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu Đại hội thi đua yêu nước của TP.Hồ Chí Minh, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học. - Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở Chương 2 của Luận văn, các số liệu thu thập được từ báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước của Quận 12, giai đoạn 2015-2020 để tổng hợp, phân tích làm cơ sở đánh giá thực trạng; qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những giải pháp thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng một cách cụ thể. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích các vấn đề lý luận về thực hiện chính sách thi đua khen thưởng để nghiên cứu để từ đó tổng hợp tạo thành hệ thống lý luận về vấn đề này và vận dụng vào địa bàn cụ thể là Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách TĐKT; đề xuất các giải pháp có luận giải khoa học nhằm nâng cao hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách TĐKT trên địa bàn Quận 12. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cơ quan quản nhà nước về TĐKT ở Quận 12 và một số địa phương khác. Các giải pháp đưa ra của luận văn có thể được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và áp dụng rộng rãi góp phần xây dựng kỹ năng, kinh nghiệm và nâng cao kiến thức cho công chức làm công tác thực hiện chính sách TĐKT tại Ban Thi đua - khen thưởng địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương, gồm: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. 7
- - Chương 2: Thực trạng về thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. - Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THI ĐUA, KHEN THƯỞNG 1.1. Khái niệm và ý nghĩa thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng 1.1.1. Các khái niệm liên quan đến thực hiện chính sách thi đua khen thưởng (1) Khái niệm thi đua: thi đua được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau: - Theo C. Mác: "Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng từng người". - Theo V.I.Lênin: “Lần đầu tiên trong xã hội chủ nghĩa đã tạo ra khả năng áp dụng thi đua một cách rộng rãi, với một quy mô thực sự to lớn, tạo ra khả năng thu hút thật sự đa số nhân dân lao động vào vũ đài hoạt động, khiến họ có thể hiểu rõ bản thân mình, dốc hết năng lực của mình, phát hiện những tài năng mà nhân dân sẵn có cả một nguồn vô tận”. - Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc diễn ra hàng ngày, trên tất cả các mặt hoạt động trong một tập thể, do những cá nhân tiến hành, nhằm đạt kết quả tốt hơn. Người viết: “Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, ở, mặc sao cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng nay ta thi đua làm cho ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua như vậy”. - Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thi đua Khen thưởng năm 2003 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, 2013) quy định: Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.. Như vậy, có thể hiểu: thi đua là hoạt động xã hội, tự nguyện có tổ chức của các cá nhân và tập thể, diễn ra ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm đạt kết quả cao nhất trong lao động sản xuất, học tập, công tác, đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người, tập thể, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ cách hiểu trên, có thể khái niệm: Thi đua là hoạt động xã hội, tự nguyện, có tổ chức của các cá nhân và tập thể, diễn ra trong các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm đạt kết quả cao nhất trong lao động sản xuất, học tập, công tác, đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người, tập thể. (2) Khái niệm khen thưởng: 9
- - Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một cá nhân, tổ chức về việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Thưởng là tặng bằng hiện vật hoặc bằng tiền… Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Khen thưởng, là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội, được hình hành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con người. Do đó, khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao trong quá trình phát hiện xét khen thưởng. Khen thưởng là khen và thưởng bằng hiện vật xứng với thành tích, công lao. - Theo khoản 2 Điều 3 Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2005, 2013): Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, khen thưởng là hoạt động mang tính pháp lý của các tổ chức có thẩm quyền và của cơ quan Nhà nước và có quyết định khen thưởng của các cơ quan, tổ chức này. Cùng với việc ban hành quyết định khen thưởng còn có sự cổ vũ, động viên bằng vật chất tương ứng với mức độ cống hiến, công lao và theo theo quy định. Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: khen thưởng là hoạt động của các cơ quan, các tổ chức có thẩm quyền để ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng, thành tích xuất sắc trong hoạt động của cá nhân, tập thể, góp phần thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng và * Khái niệm chính sách thi đua, khen thưởng Chính sách được hiểu là tập hợp các quyết định hay chương trình hành động do tập thể các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định. Chính sách công là chính sách của Nhà nước là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước với mục tiêu giải pháp cụ thể nhằm giải quyết một vấn đề kinh tế, xã hội nhất định, theo ý chí của Đảng cầm quyền. Chính sách TĐKT là một hợp phần của chính sách công. Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chính sách TĐKT. Từ khái niệm chung của chính sách công, cùng với các khái niệm về thi đua, khen thưởng có thể định nghĩa: Chính sách TĐKT là tập hợp các quy định của Chính phủ nhằm đưa ra các công cụ chính sách và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác 10
- TĐKT và hoạt động TĐKT của các tổ chức và cá nhân. Các cơ quan trong hệ thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành các quy định này và thực hiện các hoạt động TĐKT theo đúng quy định của pháp luật. * Khái niệm thực hiện chính sách thi đua khen thưởng Thực hiện chính sách TĐKT, là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực, là một khâu hợp thành chính sách TĐKT, có vị trí quan trọng là bước hiện thực hóa đưa chính sách TĐKT vào thực tiễn cuộc sống. 1.1.3. Ý nghĩa của thực hiện chính sách thi đua khen thưởng Thực hiện chính sách TĐKT tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Thực hiện chính sách TĐKT là tất yếu, khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước và cũng là để đạt được mục tiêu của chính sách. Mục tiêu của chính sách TĐKT là nhằm động viên mọi cá nhân, tổ chức tham gia các phong trào thi đua và thực hiện tốt công tác khen thưởng để từ đó phát huy tính tích cực trong công việc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; người được khen tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được của mình, có thêm những sáng kiến và đóng góp nhằm tăng cường khả năng chuyên môn và góp phần phát triển cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc; người chưa được khen cũng thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, cần phải phấn đấu để được ghi nhận và thực hiện mục tiêu, yêu cầu nhiêm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương mình đề ra. Vì vậy, cần phải thực hiện tốt chính sách TĐKT để phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân; làm cho các phong trào thi đua được phát triển sâu rộng trong toàn dân với nhiều hình thức phong phú có tác dụng thúc đẩy, động viên cán bộ, nhân dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tích cực học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh,.....từ đó tạo động lực thi đua hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp phát triển. 1.2. Nội dung thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng 1.2.1. Quy trình thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Quy trình thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng gồm 7 bước cụ thể, như sau: - Bước 1: Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng là quá trình phức tạp, lâu dài liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, vì thế mọi công việc cần được lập kế hoạch, lên chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ động, đồng 11
- bộ. Việc xây dựng kế hoạch là hướng vào mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, đồng thời đề ra các giải pháp để thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng . Kế hoạch thực hiện là những nhiệm vụ rất cụ thể đảm bảo các mục tiêu hoạt động được hoàn thành, là cơ sở tổ chức điều hành, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện chính sách. - Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách chính sách thi đua, khen thưởng Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thi đua, khen thưởng có vai trò rất quan trọng, là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi người dân. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thi đua, khen thưởng đã góp phần nâng cao nhận thức, ngăn chặn làm hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội Tại Điều 9 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng năm 2013: “đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào thi đua; chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc hướng dẫn, tổ chức các phong trào thi đua và kiểm tra việc thực hiện; tham mưu sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, nhân rộng các điển hình tiên tiến; đề xuất khen thưởng và kiến nghị đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”. Điều 13 Luật Thi đua, khen thưởng quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: -Tuyên truyền, động viên các thành viên của mình và tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; -Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua; - Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương đơn vị khi tiến hành công tác thi đua, khen thưởng phải thực hiện. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau. Song song với việc quy định cụ thể đối với cơ quan ở các cấp, Luật Thi đua, khen thưởng sửa đổi, bổ sung năm 2013 còn quy định: “Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng; phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, gương người 12
- tốt, việc tốt; phát hiện các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua; đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng” - Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Phân công phối hợp các cơ quan, đơn vị, cá nhân tổ chức thực hiện chính sách theo kế hoạch đã đề ra, thành phần tham gia thực hiện gồm các đối tượng tác động của chính sách, công dân thực hiện và bộ máy thực thi của nhà nước; phân công cơ quan chủ trì, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến mục tiêu chính sách. -Bước 4: Duy trì thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Duy trì thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng là toàn bộ hoạt động đảm bảo cho chính sách thi đua, khen thưởng phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội, là làm cho chính sách tồn tại và phát huy hết tác dụng trong môi trường thực tế. -Bước 5: Điều chỉnh thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Điều chỉnh thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng là hoạt động cần thiết, diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo hướng cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó có thẩm quyền điều chỉnh để chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước. - Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng là hoạt động hết sức cần thiết của cơ quan có thẩm quyền triển khai thực hiện chính sách và chủ thể quản lý nhằm kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách và chấn chỉnh việc triển khai thực hiện chính sách. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong triển khai thực hiện chính sách cũng như đạt được mục tiêu chính sách. -Bước 7: Sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng Việc sơ kết, tổng kết là hết sức cần thiết, để khẳng định những chủ trương đúng, đánh giá những nội dung chủ yếu của nó và cách thực hiện như thế nào để đạt mục đích, ý nghĩa của chính sách thi đua, khen thưởng. Việc sơ kết, tổng kết là một khâu cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức thực hiện. Ðể cho việc sơ kết, tổng kết, tặng thưởng có sức động viên, có ích cho mọi người, cần có sự đánh giá đúng mức. Sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng là nhằm đánh giá được kết quả của thực hiện chính sách, chỉ ra những mặt đã làm được và những mặt chưa 13
- làm được; rút ra được những bài học kinh nghiệm, các hình thức, nội dung, phương pháp để tổ chức thực hiện chính sách thi đua có hiệu quả; về kinh nghiệm xây dựng điển hình tiên tiến, rà soát các hình thức, nội dung, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi, vận dụng vào đặc điểm của từng ngành, từng địa phương cho phù hợp. Ngoài ra, việc sơ kết, tổng kết còn giúp chỉ ra được những thiết sót cần hoàn thiện trong suốt quá trình thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng của đội ngũ cán bộ tham mưu. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. Để thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng đòi hỏi các cơ quan quản lý phải thực hiện tốt, đồng bộ các nội dung quy trình tổ chức thực hiện về chính sách thi đua, khen thưởng được quy định. Trong điều kiện hiện nay, nếu buông lỏng quản lý bất kỳ nội dung nào thì mục tiêu của công tác này sẽ không đạt được trong quá trình tổ chức thực hiện. 1.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng * Chủ thể thực hiện - Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở Trung ương: Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương. - Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở địa phương. * Hệ thống tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở Trung ương Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương được thành lập theo Nghị định định 158/2004/NĐ-CP ngày 25/8/2004 của Chính phủ về việc thành lập Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương thuộc Chính phủ. Để giảm bớt cơ quan đầu mối, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007 quy định: Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương thuộc Bộ Nội vụ, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước và tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng theo qui định của pháp luật; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý của Ban theo quy định của pháp luật. Theo Nghị định định 158/2004/NĐ-CP Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương có tư cách pháp nhân, có con dấu hình quốc huy, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp, có tài khoản riêng, trụ sở đặt tại Hà Nội. Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức gồm: 14
- - Làm nhiệm vụ cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua, khen thưởng Trung ương. - Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng theo sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. -Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các chương trình, kế hoạch dài hạn, hàng năm về công tác thi đua, khen thưởng; tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch sau khi được phê duyệt; tổng hợp tình hình và báo cáo định kỳ về công tác thi đua, khen thưởng. -Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về đối tượng, thủ tục, quy trình, thời gian xét đối với các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng; hình thức, thủ tục khen thưởng đơn giản. -Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các mẫu hiện vật khen thưởng thuộc phạm vi nhà nước quản lý. -Trình Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công ký ban hành các căn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ban; -Tổ chức thực hiện các phong trào thi đua và triển khai thực hiện chính sách khen thưởng của Đảng, Nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn về thi đua, khen thưởng đối với các ngành, các cấp. -Tổng hợp và thẩm định hồ sơ đề nghị khen thưởng của các cơ quan, tổ chức để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định khen thưởng hoặc để Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước quyết định khen thưởng; -Tổ chức việc chế tạo, bảo quản, cấp phát hiện vật khen thưởng; chuẩn bị hiện vật kèm theo các hình thức khen thưởng của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tổ chức thu hồi, cấp đổi hiện vật khen thưởng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước. -Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ cho cán bộ công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp; - Chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Ban theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. - Quản lý, lưu trữ hồ sơ khen thưởng thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước. 15
- - Vận động các nguồn tài trợ và quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng Trung ương; chỉ đạo và kiểm tra việc quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp. - Thực hiện hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật. - Thanh tra, kiểm tra và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm trong việc thực hiện chính sách, chế độ, pháp luật, những quy chế, quy trình nghiệp vụ về thi đua, khen thưởng. Tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật; - Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính, tài sản của Ban theo quy định của pháp luật. Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ban. * Tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở các ở các bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập các Vụ/Cục Thi đua - Khen thưởng thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ban Thi đua - Khen thưởng ở cơ quan thuộc Chính phủ; hoặc Phòng Thi đua - Khen thưởng thuộc Văn phòng hoặc Vụ (Ban) Tổ chức cán bộ các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ không đủ tiêu chí lập Vụ (ban) Thi đua - Khen thưởng theo quy định tại Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 về quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng. Các Tổng công ty Nhà nước thành lập Ban (phòng) Thi đua - Khen thưởng hoặc bộ phận chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng. Theo đó, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp có trách nhiệm tham mưu, tư vấn cho cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về công tác thi đua, khen thưởng. * Hệ thống tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở địa phương Ban Thi đua và Khen thưởng là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, có trách nhiệm tham mưu giúp chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và Hội đồng Thi đua, khen thưởng tỉnh cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và theo quy định của pháp luật. Ban Thi đua, khen thưởng tỉnh làm nhiệm vụ Thường trực Hội đồng Thi đua, khen thưởng tỉnh. Ở cấp huyện, thị xã có cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng trực thuộc văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện. 16
- Ở cấp xã, phường không có cán bộ biên chế chuyên trách làm công tác Thi đua, khen thưởng, do cán bộ văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, phường kiêm nhiệm. Có thể nói, hệ thống cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng từ Trung ương đến cơ sở xã, phường được hình thành và phát triển cùng với bộ máy công quyền nhà nước. Mặc dù qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, tên gọi, tổ chức có những thay đổi, nhưng đến nay, trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, Đảng và Nhà nước ta vẫn quan tâm đến hệ thống cơ quan, công chức và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng từ Trung ương đến địa phương. * Chủ thể tham gia và đối tượng thụ hưởng thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng - Chủ thể tham gia thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng: là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước); - Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách thi đua, khen thưởng là: cán bộ, viên chức, công chức; cộng đồng dân cư, các nhóm dân số, người dân. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng 1.3.1.Tác động của yếu tố kinh tế Là một trong những yếu tố tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. Sự tác động, ảnh hưởng còn thể hiện ở quá trình tổ chức thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng đảm bảo bình đẳng, công khai, minh bạch hay không thực hiện hoặc thậm chí tiêu cực, tham nhũng…tức là sự tác động của kinh tế, vật chất đến đạo đức, tinh thần trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức. Sự tác động, ảnh hưởng của kinh tế đối với thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng không chỉ là tác động chung, tác động cụ thể như đã nói ở trên mà còn là sự tác động, ảnh hưởng hai chiều thể hiện ở chỗ nếu cá nhân, tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách thi đua, khen thưởng sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế. 1.3.2. Tác động của yếu tố chính trị Chính trị cũng là một trong số các yếu tố hàng đầu tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng. Khác với kinh tế, tác động, ảnh hưởng của chính trị đối với chính sách thi đua, khen thưởng là tác động, ảnh hưởng giữa chính trị với chính sách. Trong mối quan hệ đó, không phải là chính trị quyết định chính sách, hay ngược lại mà tính chất của mối quan hệ này là quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng và “giúp đỡ” lẫn nhau. Tuy nhiên cũng giống như kinh tế, tác động, ảnh hưởng của chính trị đối với thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng thể hiện trên những giác độ khác nhau, với những biểu hiện khác nhau. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 89 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 67 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 73 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông
89 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 84 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi Chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội
107 p | 84 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới tại các xã thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
119 p | 71 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam
128 p | 39 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 74 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh
121 p | 31 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách thu hút đầu tư vốn trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Vĩnh Long
127 p | 41 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 33 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách ứng phó với vấn đề giảm sinh ở Hàn Quốc
93 p | 29 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn