intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

28
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh" được hoàn thành với mục tiêu nhằm lý luận về thực thi chính sách tinh giản biên chế, qua phân tích thực trạng thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Ninh, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HỒNG HÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TINH GIẢN BIÊN CHẾ TRONG CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI - 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HỒNG HÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TINH GIẢN BIÊN CHẾ TRONG CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Thành Can HÀ NỘI - 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ Phạm Hồng Hà
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TINH GIẢN BIÊN CHẾ .......................................................................... 13 1.1 Lý luận về chính sách công và chính sách tinh giản biên chế ........ 13 1.2 Thực thi chính sách tinh giản biên chế ............................................ 25 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách tinh giản biên chế.... 37 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TINH GIẢN BIÊN CHẾ TRONG CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH ....................................... 43 2.1 Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu .......................................... 43 2.2 Phân tích thực trạng thực thi chính sách tinh giản biên chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến nay ................................................................................ 60 2.3 Kết quả thực thi chính sách tinh giản biên chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ........................ 73 2.4 Đánh giá chung về thực thi chính sách tinh giản biên chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ......... 78 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC THI CHÍNH SÁCH TINH GIẢN BIÊN CHẾ TẠI CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH ................ 88 3.1 Quan điểm thực thi chính sách tinh giản biên chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ........................ 88 3.2 Các giải pháp đảm bảo hoàn thiện thực thi chính sách tinh giản biên chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ...................................................................... 92 KẾT LUẬN ............................................................................................. 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 106
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chính sách công là chính sách của Nhà nước đối với khu vực công cộng, là công cụ hữu hiệu chủ yếu để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Dưới góc độ quản lý, quản trị quốc gia, Nhà nước sử dụng chính sách công như một công cụ quan trọng tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt mục tiêu định hướng phát triển của Nhà nước. Tổ chức bộ máy và biên chế là hai nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và sử dụng, bố trí đúng, đủ biên chế có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước 2 giai đoạn 2001 - 2010 và 2011 - 2020, Chính Phủ đã xác định cải cách tổ chức bộ máy hành chính là một trong những nội dung quan trọng cần tập trung thực hiện. Tinh giản biên chế gắn với đổi mới tổ chức, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với tình hình mới nhằm tạo ra bộ máy công quyền hoạt động hiệu quả trên cơ sở cơ cấu tổ chức tinh gọn với số lượng nhân sự phù hợp, được vận hành một cách khoa học để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đã được xác định. Ngày 14/7/2015, Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã chỉ rõ: đến năm 2021 tối thiểu giảm 10% biên chế của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2218/QĐ-TTg ngày
  6. 2 10/12/2015 về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW. Trước đó, từ năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 108/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về chính sách tinh giản biên chế. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành cũng có văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách tinh giản biên chế cụ thể trong phạm vị lĩnh vực được giao quản lý. Qua nhiều năm thực hiện, bộ máy hành chính nhà nước đã từng bước được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Cùng với cả nước, tỉnh Quảng Ninh cũng tiến hành tinh giản biên chế tính từ 2015 đến nay theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ quy định về chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP. Để triển khai nội dung trên, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành các nghị quyết về cơ chế, chính sách; Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực nội vụ, trong đó tập trung quy định về sửa đổi cơ cấu tổ chức, bổ sung chức năng, nhiệm vụ các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh của các sở, ngành. Các cơ quan, đơn vị đã sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động, quy định lại chức năng, nhiệm vụ các phòng, ban sau khi sắp xếp, sáp nhập, giải thể tổ chức bộ máy; sắp xếp lại cán bộ theo đề án vị trí việc làm của từng cơ quan, đơn vị đảm bảo đúng người, đúng việc, đúng vị trí, nâng cao hiệu quả công tác. Việc kiện toàn sắp xếp tổ chức bộ máy để tinh giản biên chế của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được kịp thời thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ và nghị định, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương; đã có những mặt đổi mới về cơ chế, về chính sách tuyển dụng, đánh giá, xếp loại, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ... Có thể nhận định rằng quản lý nhà nước về nguồn nhân lực được quan tâm hơn và chú
  7. 3 trọng vào nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Quá trình thực thi chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ được tiến hành công khai, minh bạch, dân chủ, tạo được sự đồng thuận; đã đưa ra khỏi bộ máy Nhà nước nhiều công chức không đủ điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ, sức khỏe, phẩm chất đạo đức; bước đầu đã tuyển chọn được những người có trình độ, năng lực, chuyên môn cao hơn, đáp ứng yêu cầu công việc để bổ sung vào các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Chất lượng và cơ cấu của đội ngũ công chức đã có sự chuyển biến tích cực. Mặc dù các cơ quan chuyên môn tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành giảm nhiều đầu mối tổ chức, đã không tuyển dụng mới ở một số vị trí việc làm khi có người nghỉ chế độ, nhưng tinh giản biên chế là vấn đề nhạy cảm, khó khăn, phức tạp nhất vì liên quan đến từng con người cụ thể nên khi thực hiện chính sách tinh giản biên chế vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công nhằm góp phần hoàn thiện lý luận về thực thi chính sách tinh giản biên chế và đánh giá thực trạng việc thực thi chính sách tinh giản biên chế, cải cách tổ chức bộ máy tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề xuất giải pháp đảm bảo tổ chức thực thi hiệu quả chính sách tinh giản biên chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Từ khi Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện chính sách tinh giản biên chế, nhiều nhà nghiên cứu, quản lý đã nghiên cứu, bàn luận về cải cách tổ chức bộ máy, xác định vị trí việc làm, chính sách tinh giản biên chế, tổng kết thực tiễn và việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan, tổ chức.
  8. 4 2.1 Các công trình nghiên cứu về chính sách công và thực thi chính sách công Tác giả Đặng Ngọc Lợi (2012) với bài viết “Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Kinh tế và dự báo (số tháng 1) đã làm rõ nội hàm chính sách công, từ khái niệm, các phạm trù nội dung, các đặc điểm, các yếu tố tác động, chi phối chính sách công. Tuy tác giả không đưa ra định nghĩa cụ thể về chính sách công nhưng cho rằng chính sách công là chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước. Cách tiếp cận nhận thức về chính sách công của tác giả là tính công của chính sách, tính công thể hiện trong quan niệm của tác giả Đặng Ngọc Lợi là nhà nước, chính phủ khác với quan niệm của các học giả Âu Mỹ xem tính công của chính sách là công cộng (công chúng, đối tượng chịu sự điều chỉnh, tác động của chính sách). Tác giả Văn Tất Thu (2017) có bài viết về “Bản chất, vai trò của chính sách công” tại Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng 7/2017. Bài viết cho thấy bản chất của chính sách công thể hiện ý chí chính trị của đảng cầm quyền, cũng như vai trò của chính sách công. Tác giả cho rằng, Chính sách công là chính sách của nhà nước đối với khu vực công cộng, phản ánh bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị trong đó nhà nước tồn tại; đồng thời phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của đảng chính trị phục vụ cho mục đích của đảng, lợi ích và nhu cầu của nhân dân. Chính sách công được hoạch định bởi đảng chính trị nhưng do chính phủ xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện. Bản chất của chính sách công là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, thực hiện các hoạt động liên quan đến công dân và can thiệp vào hành vi xã hội trong quá trình phát triển.
  9. 5 Tác giả Tạ Ngọc Hải (2014) với tác phẩm: Chính sách công - tiếp cận từ khoa học tổ chức Nhà nước, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước cho rằng, chính sách công có tính hệ thống, tính kế thừa lịch sử và chính sách công luôn gắn với một quốc gia cụ thể với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhất định; cụ thể, một chính sách hàm chứa trong nó những nội dung có liên quan đến nhau và có liên hệ, ảnh hưởng với các chính sách khác, theo đó tạo nên tính hệ thống của chính sách công; quy luật phát triển xã hội theo hình “xoáy trôn ốc” tức là phát triển xã hội luôn có trong nó sự kế thừa lịch sử. Tác giả Tạ Ngọc Hải đi đến kết luận: Chính sách công có các thuộc tính căn bản như: tính nhà nước, tính công cộng, tính hành động thực tiễn, tính hệ thống, tính kế thừa lịch sử và gắn với một quốc gia cụ thể với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhất định. Tác giả Đỗ Phú Hải với bài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực xây dựng và thực hiện chính sách công, đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà nước, tháng 7/2016 cho rằng, thực hiện chính sách công ở nước ta có mặt tích cực, đó là: Khi có chính sách mới ban hành đều xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, kịp thời tiến hành phổ biến, tuyên truyền chính sách; có sự phân công, phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực hiện chính sách; chủ động đề xuất với các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách; chú ý đến công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách và đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện chính sách. Tuy nhiên cũng còn những hạn chế trong thực hiện chính sách công, đó là, trình độ, năng lực xây dựng, thực thi chính sách của đội ngũ các bộ, công chức nước ta hiện nay còn yếu, việc nắm bắt và hiểu biết về chính sách còn hạn chế; tinh thần, thái độ thực thi chính sách chưa thật công tâm, khách quan làm cho chính sách bị méo mó, không đúng với mục tiêu, mục đích ban hành chính sách.
  10. 6 Tác giả Văn Tất Thu (2016), Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 01/2016 với bài: Năng lực thực hiện chính sách công - những vấn đề lý luận và thực tiễn, đã phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của thực hiện chính sách. Mỗi khi có chính sách mới ban hành đều xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; kịp thời tiến hành phổ biến, tuyên truyền chính sách công; có sự phân công, phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực hiện chính sách. Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách nếu gặp khó khăn đã chủ động đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách. Đồng thời, đã chú ý đến công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện chính sách. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra những yếu điểm trong thực hiện chính sách. Trong sách chuyên khảo, Đại cương về chính sách công (2013), Nxb Chính trị Quốc gia của tác giả Nguyễn Hữu Hải và tác giả Lê Văn Hòa (đồng chủ biên), tại chương VI chu trình chính sách công đã phân tích các bước hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách công. Các tác giả nêu lên vai trò, những điều kiện, những nhân tố ảnh hưởng và các phương pháp thực thi chính sách công. Tác giả Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công - Những vấn đề cơ bản, có chương IV: Tổ chức thực thi chính sách công, đã nêu lên những quan niệm, vị trí, ý nghĩa của tổ chức thực thi chính sách công; Các bước tổ chức thực thi chính sách công; các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực thi chính sách công; các yêu cầu đối với tổ chức thực thi chính sách công và các hình thức phương pháp tổ chức thực thi chính sách công. Những phân tích của tác giả là những kiến thức nền tảng cho lý luận về thực thi chính sách công ở Việt Nam. 2.2 Các công trình nghiên cứu về tinh giản biên chế Cuốn sách Hội thảo “Tinh giản biên chế - thách thức và giải pháp” do tác giả Nguyễn Thị Hồng Hải chủ trì (2016) đã tập hợp các bài viết về thực trạng tinh giản biên chế trong các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay,
  11. 7 những khó khăn và thách thức trong quá trình thực hiện tinh giản biên chế, đưa ra một số giải pháp khắc phục những khó khăn, thách thức trong thời gian tới. Nhiều bài viết đưa ra các giải pháp ở cả cấp độ vĩ mô và vi mô, tập trung vào những vấn đề chủ yếu như: cải cách tổ chức bộ máy; hoàn thiện Đề án vị trí việc làm; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; xây dựng tiêu chí đánh giá án bộ, công chức, viên chức; cải cách tiền lương và các chế độ phúc lợi; khoán chi phí theo kết quả; tăng cường sự tự chủ về tài chính và biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy (2015) với bài biết “Tinh giản biên chế trong bộ máy hành chính nhà nước - vấn đề và giải pháp” trên trang điện tử ngày 10/5/2017 của Tạp chí Tổ chức Nhà nước đã phân tích về sự cần thiết phải tỉnh giản biên chế trong bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam, đối tượng và chính sách tinh giản biên chế trong thời gian tới, một số vấn đề đặt ra trong tinh giản biên chế thời gian tới và giải pháp tháo gỡ. Tác giả Lê Như Thanh có bài viết về “Tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính nhà nước - Thách thức và giải pháp” tại Tạp chí Tổ chức nhà nước trang điện tử ngày 17/3/2017. Bài viết cho thấy những thách thức đặt ra từ thực tiễn tinh giản biên chế ở nước ta hiện nay và đề ra những giải pháp để thực hiện có hiệu quả trong thời gian tới. Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết phải tinh giản biên chế, những thách thức cũng như giải pháp để thực hiện tinh giản biên chế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy như: Bài viết “Tinh giản biên chế - Những điểm mấu chốt để giải quyết một vấn đề cũ theo nhận thức mới” của tác giả Trần Anh Tuấn (2015); tác giả Văn Tất Thu (2016) với bài viết “Thực trạng, nguyên nhân tăng biên chế và các giải pháp tinh giản biên chế”; Tác giả Lê Vĩnh Tân (2018) có bài viết “Tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết Hội
  12. 8 nghị Trung ương 6 khóa XII”; Bài viết “Trung ương quyết tinh giản biên chế để tăng hiệu lực bộ máy” của tác giả Quốc Phong (2018). 2.3 Các nghiên cứu về chính sách tinh giản biên chế và thực thi chính sách tinh giản biên chế Trên Tạp chí Tổ chức nhà nước số 6/2014, tác giả Văn Tất Thu đã viết vể “Kết quả thực hiện Nghị định số 132/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007 của Chính phủ và giải pháp tinh giản biên chế trong thời gian tới”. Bài viết đã phân tích kết quả đạt được trong thực hiện chính sách theo Nghị định số 132/2007/NĐ- CP ngày 08/8/2007 của Chính phủ, đưa ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong thực hiện tinh giản biên chế và đưa ra các giải pháp thực hiện tinh giản biên chế trong thời gian tới. Tác giả Vũ Thị Nhàn (2017) với nghiên cứu “Thực hiện chính sách tinh giản biên chế - từ thực tiễn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch” cho thấy thực trạng thực hiện chính sách tinh giản biên chế tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức thưc hiện chính sách tinh giản biên chế ở nước ta trong thời gian tới. Nghiên cứu “Thực hiện chính sách tinh giản biên chế - từ thực tiễn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Nguyễn Thị Giáng Hương (2018) về thực trạng thực hiện chính sách tinh giản biên chế tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đưa ra giải pháp thiết thực nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách tinh giản biên chế trong thời gian tới. Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu về cải cách tổ chức bộ máy nhà nước chỉ ra sự cần thiết của việc xác định vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính nhà nước, kinh nghiệm của một số nước trong xây dựng đội ngũ công chức lãnh đạo, vấn đề đặt ra trong cải cách bộ máy nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước như: Trịnh Xuân Thắng (2018), Những vấn đề đặt ra khi xác định vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính nhà nước; Thái
  13. 9 Văn Toàn (2014), Tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế trong bộ máy nhà nước - Những vấn đề đặt ra hiện nay; Nguyễn Minh Phương (2010), Một số giải pháp phát hiện và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay; Trần Văn Ngợi (2009), Kinh nghiệm một số nước về xây dựng đội ngũ công chức lãnh đạo theo hệ thống chức nghiệp và hệ thống việc làm. Như vậy, đã có nhiều tác giả, tác phẩm phân tích về chính sách, thực thi chính sách và thực thi chính sách tinh giản biên chế, là những tư liệu quý giúp tác giả định hướng nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá việc thực thi chính sách tinh giản biên chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. Do vậy, tác giả mong muốn hoàn thành đề tài luận văn này với kỳ vọng những đề xuất giải pháp đảm bảo thực thi có hiệu quả chính sách tinh giản biên chế tại cơ quan các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung, tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về thực thi chính sách tinh giản biên chế, qua phân tích thực trạng thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Ninh, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ sau: Thứ nhất, nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách, thực thi chính sách tinh giản biên chế.
  14. 10 Thứ hai, khảo sát, đánh giá thực trạng thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, chỉ ra được ưu điểm và hạn chế, các rào cản thực thi chính sách tinh giản biên chế. Thứ ba, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao kết quả thực thi chính sách tinh giản biên chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. 4.2 Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: luận văn nghiên cứu về nội dung, quy trình và kết quả thực hiện chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. - Về không gian: Chuyên đề tập trung nghiên cứu thực thi chính sách tinh giản biên chế công chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. - Về thời gian: Tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế công chức từ năm 2015 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Nghiên cứu sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước về tinh giản biên chế và cải cách tổ chức bộ máy. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Mục đích của phương pháp này nhằm xây dựng cơ sở lý luận về thực thi chính sách tinh giản biên
  15. 11 chế ở chương 1 và thu thập thông tin làm minh chứng cho những nhận định, đánh giá trong chương 2 của luận văn. Các tài liệu được sử dụng trong luận văn là các công trình đã được công bố của các tác giả trong và ngoài nước dưới dạng các sách, bài báo, đề tài khoa học; các văn kiện, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền về chính sách tinh giản biên chế và thực thi chính sách tinh giản biên chế. - Phương pháp thống kê số liệu: Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập số liệu, tài liệu khác nhau như đối tượng tinh giản biên chế, quy mô tinh giản biên chế. - Phương pháp phân tích tổng hợp: Sử dụng để phân tích các số liệu, tài liệu thu thập được, trên cơ sở đó tổng hợp khái quát và rút ra các kết luận, nhận định nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần bổ sung cơ sở lý luận về thực thi chính sách công nói chung và thực thi chính sách tinh giản biên chế gắn với tình hình thực tiễn tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, góp phần đảm bảo thực thi chính sách tinh giản biên chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Những đánh giá thực trạng giúp cho các nhà quản lý có cách nhìn mới về thực hiện chính sách tinh giản biên chế ở địa phương và những giải pháp luận văn đề xuất sẽ giúp cho các nhà quản lý nghiên cứu, xem xét để áp dụng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học viên các lớp học chuyên ngành chính sách công, quản lý công trong học tập và nghiên cứu về chính sách và thực thi chính sách.
  16. 12 7. Kết cấu của luận văn Bên cạnh phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Chương 2: Thực trạng thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh. Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp nâng cao chất lượng thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh.
  17. 13 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TINH GIẢN BIÊN CHẾ 1.1 Lý luận về chính sách công và chính sách tinh giản biên chế 1.1.1 Khái niệm a. Chính sách, chính sách công Chính sách công (public policy) được tiếp cận nghiên cứu từ những giác độ khoa học khác nhau, theo đó có những cách hiểu, xác định không hoàn toàn giống nhau về khái niệm chính sách công. Cách quan niệm của các tác giả trên thế giới: Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội [32]. Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ, chính quyền và những ý định, quyết định hành động này; hoặc chính sách công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì [33]. Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức cũng như các quyết định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình [35]. Hay chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành [34]. Ở Việt Nam, cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chính sách công. Theo tác giả Tạ Ngọc Hải, từ những giác độ nghiên cứu khoa học khác nhau, có những cách hiểu, xác định không hoàn toàn giống nhau về khái niệm và thuộc tính của chính sách công, cụ thể: Chính sách công là những hoạt động mà chính quyền chọn làm và không làm. Theo cách tiếp cận này thì các hoạt động mà chính quyền làm hoặc không làm phải có tác động, ảnh hưởng
  18. 14 lâu dài và sâu sắc đến nhân dân thì mới được gọi là chính sách công. Như vậy, không phải tất cả những việc mà chính quyền làm hoặc không làm đều được coi là chính sách công. Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của chính quyền trực tiếp hay gián tiếp tác động đến cuộc sống của mọi người. So với quan niệm trên, quan niệm này mở hơn, rộng hơn ở việc xem cả xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách của chính quyền đều là chính sách công, nhưng lại hẹp hơn ở chỗ không coi những việc chính quyền không làm là chính sách công [36]. Tác giả Lê Chi Mai cho rằng, cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi, tuy vậy theo tác giả, chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước, chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách), chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo tiêu xác định, chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau [37]. Như vậy, có thể thấy tuy có rất nhiều cách tiếp cận và hiểu khác nhau về chính sách công như đã nêu trên, do mỗi tác giả nhấn mạnh vào đặc trưng khác nhau, phản ánh chính sách công từ các giác độ khoa học khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công, đó là: Chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước. Chính sách công bao giờ cũng được thể chế thành hàng loạt các quyết định có hiệu lực pháp lý của cơ quan nhà nước. Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo các mục tiêu xác định của nhà nước. Từ những phân tích, luận giải ở trên, có thể thấy rằng: Chính sách công là định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn
  19. 15 nhằm đạt được mục tiêu phát triển trong mỗi thời kỳ; duy trì sự tồn tại, phát triển của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. b. Biên chế Trong các văn bản pháp luật hiện hành, chưa có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng nào về biên chế. Mặc dù cụm từ “biên chế” đã xuất hiện rất nhiều trong các văn bản về cán bộ, công chức, viên chức như Luật Cán bộ, Công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 và các Nghị định về tinh giản biên chế. Theo Thư viện pháp luật định nghĩa thì: Biên chế chính là số người làm việc trong một đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, biên chế được quyết định bởi chính đơn vị đó hoặc được phê duyệt của các cấp có thẩm quyền theo đúng sự hướng dẫn của Nhà nước [38]. Hiểu một cách đơn giản, biên chế là số người làm việc trong cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập của Nhà nước do đơn vị quyết định hoặc được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo hướng dẫn của Nhà nước. Đây là vị trí công tác phục vụ lâu dài, vô thời hạn trong cơ quan nhà nước, hưởng các chế độ về lương, phụ cấp theo quy định của Nhà nước. Như vậy có thể thấy rằng, Biên chế trong các cơ quan nhà nước là số người làm việc trong cơ quan để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và giao, làm căn cứ cấp kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm. Vào biên chế trở thành mục tiêu, niềm khao khát của nhiều người bởi vị trí này đảm bảo sự ổn định cho đến tuổi nghỉ hưu, nếu không thuộc diện bị tinh giản biên chế hoặc không tự nguyện nghỉ việc. Trong khi đó, nếu như làm việc theo chế độ hợp đồng, cá nhân chỉ làm việc theo thời hạn và có thể sẽ phải nghỉ việc tìm việc làm mới nếu đơn vị tuyển dụng không ký tiếp hợp đồng lao động.
  20. 16 c. Tinh giản biên chế Tinh giản biên chế được định nghĩa tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 108/2014/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế: “Tinh giản biên chế” là việc đánh giá, phân loại, đưa ra khỏi biên chế những người dôi dư, không đáp ứng yêu cầu công việc, không thể tiếp tục bố trí sắp xếp công tác khác và giải quyết chế độ, chính sách đối với những người thuộc diện tinh giản biên chế. Mục đích của mọi cuộc tinh giản biên chế nhằm tạo ra bộ máy công quyền hoạt động hiệu quả trên cơ sở cơ cấu tổ chức tinh gọn với số lượng nhân sự phù hợp, được vận hành một cách khoa học để thực hiện tốt nhất chức năng, nhiệm vụ đã được xác định. Như vậy, mục tiêu của tinh giản biên chế không chỉ đơn thuần là giảm cơ học số lượng nhân sự (thay đổi về lượng) mà hơn thế, đây là cách thức để các cơ quan nhà nước tinh lọc lại nhân sự (thay đổi về chất) nhằm làm cho hoạt động của cơ quan nhà nước có hiệu lực, hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Để tinh giản biên chế đúng đối tượng, cần đánh giá đúng, thực chất cán bộ, công chức, viên chức. Muốn thế, trước hết phải đổi mới cách đánh giá để tránh tình trạng đánh giá chung chung. Đánh giá cần đặt trọng tâm vào kết quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức; trình độ đào tạo, kinh nghiệm làm việc, kỹ năng và suy đến cùng là năng lực của từng cán bộ, công chức, viên chức được thể hiện ra, được đo bằng kết quả làm việc. Kết quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức phải được đánh giá hàng tháng, có các tiêu chí rõ ràng, chứ không phải theo kiểu hiện nay cuối năm mới làm một lần, hơn nữa lại rất thiếu cơ sở, bằng chứng về kết quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Cùng với đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải có bản lĩnh dám chịu trách nhiệm trong đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, có như vậy mới tránh được việc đánh giá qua loa, hình thức. Kinh nghiệm cho
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2