intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

42
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam, đồng thời thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép, luận văn chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản khiến cho khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam luôn ở tình trạng yếu hơn so với các đối thủ nước ngoài qua đó đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy ngành thép Việt Nam phát triển tăng sức cạnh tranh của sản phẩm thép tại thị trường trong nước và từng bước hướng đến việc xuất khẩu sản phẩm thép Việt Nam ra nước ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam

  1. §¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦êNG §¹I HäC KINH TÕ ----------------------- TRỊNH VŨ MINH NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ chÝnh trÞ M· sè : 60 31 01 LUËN V¡N TH¹C Sü KINH TÕ CHÝNH TRÞ NG¦êI H¦íNG DÉN KHOA HäC TS. Phạm Quang Vinh Hµ Néi - 2008 1
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH 7 TRANH CỦA NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ 1.1. Lý luận chung về cạnh tranh 7 1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh 7 1.1.2. Các loại hình cạnh tranh 16 1.1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 17 1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc trong việc nâng cao năng lực 21 cạnh tranh trong ngành sản xuất thép - Bài học đối với ngành thép Việt Nam 1.2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc – Bài học đối với Việt Nam 21 1.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc – Bài học đối với Việt Nam 24 1.2.3. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN – Bài học đối với 26 Việt Nam Kết luận chương 35 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA 37 NGÀNH THÉP VIỆT NAM 2.1. Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam 37 2.1.1. Năng lực cạnh tranh trong khâu nguyên liệu 37 2.1.2. Năng lực cạnh tranh về thiết bị và công nghệ sản xuất 45 2.1.3. Năng lực cạnh tranh về qui mô sản xuất 53 2.2. Những tồn tại trong năng lực cạnh tranh của nghành thép 55 Việt Nam 2.2.1. Về nguyên liệu đầu vào 55 2.2.2. Về cơ cấu đầu tư 57 2.3. Những nguyên nhân làm suy giảm năng lực cạnh tranh của 71 3
  3. ngành thép Việt Nam 2.3.1. Những nguyên nhân chủ quan 71 2.3.2. Những nguyên nhân khách quan 72 Kết luận chương 74 Chƣơng 3: NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG MỚI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM 76 NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH THÉP VIỆT NAM 3.1 Một số bối cảnh mới có ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh 76 của ngành thép Việt Nam 3.1.1. Những dự báo về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thép ở Việt 76 Nam giai đoạn 2008 – 2010 3.1.2. Những biến động đối với ngành thép Việt Nam sau khi gia 81 nhập WTO 3.1.3. Những biến động trên thị trường thép thế giới 85 3.1.4. Những vấn đề đặt ra cho ngành thép Việt Nam 88 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của 89 ngành thép Việt Nam 3.2.1. Đi đôi với việc đầu tư mới một số nhà máy cán thép hiện 89 đại là từng bước đầu tư các nhà máy sản xuất phôi thép 3.2.2. Thực hiện việc tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp, đổi mới 96 tổ chức và quản lý doanh nghiệp 3.2.3. Giải pháp đầu tư mạnh mẽ đổi mới thiết bị và công nghệ 104 3.2.4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 106 3.2.5. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ 108 3.2.6. Giải pháp đầu tư mở rộng và chiếm lĩnh thị trường 109 3.2.7. Các giải pháp về tài chính 110 KẾT LUẬN 112 4
  4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 5
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đã từ lâu ngành sản xuất công nghiệp nặng nói chung và ngành sản xuất thép nói riêng luôn có một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Quá trình xây dựng và phát triển đất nước luôn đòi hỏi chúng ta phải có ngành công nghiệp thép đủ mạnh để bên cạnh là một ngành kinh tế mũi nhọn còn góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một loạt các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, chế tạo máy, công nghiệp xây dựng.... Hơn hai thập kỷ đổi mới vừa qua những thành tựu mà ngành thép nước ta đạt được là không thể phủ nhận. Từ chỗ hơn 70% nhu cầu thép cho xây dựng, gần 100% thép chế tạo phải trông chờ vào viện trợ nước ngoài hoặc thông qua nhập khẩu thì đến nay chúng ta đã có thể sản xuất trên 3 triệu tấn thép xây dựng gần 1.8 triệu tấn thép hình các loại về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thép cho xây dựng trong nước. Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây đặt ngành thép Việt Nam trước một loạt những khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Các nhà máy cán thép Việt Nam liên tục thua lỗ, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm sản xuất ra không thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được nhập khẩu từ Trung Quốc và các nước trong cũng như ngoài ASEAN. Các sản phẩm thép dẹt, thép tấm, thép chế tạo ... vẫn phải nhập khẩu gần như 100% khiến cho không chỉ ngành thép mà các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, công nghiệp ô tô, công nghiệp chế tạo máy cũng yếu ớt và hầu như không có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại được sản xuất tại nước ngoài ngay trên sân nhà. Việt Nam đã là thành viên của WTO, việc phải cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập là không thể tránh khỏi. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao 6
  6. năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam, đưa ngành công nghiệp sản xuất thép lên một tầm cao mới đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với các sản phẩm cùng loại từ nước ngoài đồng thời có thể hướng ra xuất khẩu đã trở thành một yêu cầu lớn cần phải có lời giải. 2. Tình hình nghiên cứu Trước tình hình khó khăn của ngành thép cùng với yêu cầu phát triển đồng bộ của ngành làm điểm tựa cho các ngành công nghiệp khác như công nghiệp đóng tàu, công nghiệp xây dựng, công nghiệp chế tạo máy tháng 3 năm 1995 Bộ Chính Trị đã thông qua “Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010” trong đó nêu rõ những nhiệm vụ mà ngành thép Việt Nam cần đạt được trong quá trình từ năm 1995 đến 2010. “Báo cáo nghiên cứu thị trường thép xây dựng tại Việt Nam” của Công ty tư vấn thiết kế và dịch vụ đầu tư (INFISCO)-Bộ công nghiệp cũng đã chỉ ra tiềm năng phát triển của ngành đồng thời cũng đưa ra được những tồn tại, hạn chế mà ngành thép Việt Nam đang gặp phải. Trong nghiên cứu “Xây dựng chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam” tác giả Phạm Chí Cường (Chủ tịch hiệp hội thép Việt Nam) cũng đã nêu ra một số những kiến nghị với mục tiêu xây dựng một hướng đi mới cho ngành thép Việt Nam. Hai tác giả Kenichi Ohno - Nguyễn Văn Thường, (2005), “Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội cũng đặt những vấn đề nhằm xây dựng hướng đi chung cho ngành công nghiệp Việt Nam trong đó ngành công nghiệp sản xuất thép được đề cập tới như là một động lực của ngành sản xuất ô tô xe máy. Trong chừng mực nhất định, các công trình nói trên đã đề cập đến những cơ sở lý luận và thực tiễn của ngành Thép Việt Nam ở một số khía cạnh và mức độ khác nhau, giúp tác giả có thể tham khảo những quan điểm, nhận thức chung về lý luận và nhiều số liệu cần thiết trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một 7
  7. cách toàn diện và hệ thống, nhất là trên giác độ kinh tế chính trị về vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam. Từ những lý do trên em quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho mình là: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam” 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam, đồng thời thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép, luận văn chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản khiến cho khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam luôn ở tình trạng yếu hơn so với các đối thủ nước ngoài qua đó đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy ngành thép Việt Nam phát triển tăng sức cạnh tranh của sản phẩm thép tại thị trường trong nước và từng bước hướng đến việc xuất khẩu sản phẩm thép Việt Nam ra nước ngoài. Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn cố gắng xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển qui hoạch toàn ngành thép nhằm định hướng cho các đối tác trong và ngoài nước tiếp cận và phát triển ngành thép. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá những cở sở làm tiền đề cho sự phát triển của ngành thép Việt Nam. Đồng thời, phân tích thực trạng của ngành thép Việt Nam, những khó khăn đang gặp phải qua đó tìm ra nguyên nhân của những vấn đề này từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam. Luận văn còn nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu thụ thép của một số nước trong khu vực và trên thế giới qua đó đưa ra những dự báo về xu thế phát triển của ngành đồng thời đúc rút những kinh nghiệm thực tế làm bài học cho sự phát triển ngành. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
  8. Luận văn sử dụng phương pháp của kinh tế chính trị Mác-Lênin; phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, và khảo sát thực tế; đồng thời sử dụng các quan điểm đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Kết hợp giữa cái chung và cái riêng dựa trên các số liệu trong nước và thế giới đã tổng kết. 6. Đóng góp của luận văn - Làm rõ hơn thực trạng của ngành thép Việt Nam, những khó khăn đang gặp phải từ đó nêu ra được nguyên nhân của những khó khăn đó. - Đưa ra những dự báo xu hướng và kiến nghị các giải pháp thúc đẩy ngành thép Việt Nam phát triển tăng sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam tại thị trường trong nước và từng bước hướng ra xuất khẩu. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của ngành trong nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam. Chương 3: Những định hƣớng mới và các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của nghành thép Việt Nam 9
  9. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH TRONG NỀN KINH TẾ 1.1 . Lý luận chung về cạnh tranh 1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh Có thể nói cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay có lẽ không ai còn nghi ngờ về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường ở nước ta vì vậy cạnh tranh đã được nhìn nhận như là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi được pháp luật thừa nhận và bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu, khi có tự do hoá thương mại và theo đó là tự do kinh doanh và quyền tự chủ của các cá nhân được thừa nhận và bảo đảm. Cạnh tranh chỉ xuất hiện khi không có độc quyền dưới bất kỳ hình thức nào. Tất cả những tiền đề đó đã hình thành ở nước ta từ khi chuyển sang cơ chế thị trường và từ khi đảng và Nhà nước ta chủ trương thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh, nói chung là sự phấn đấu vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất. Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không có phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài. Trong kinh tế cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lý xã hội. Biện pháp kỹ thuật là áp dụng công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến, công nhân có trình độ lành nghề cao; biện pháp kinh tế như trợ cấp tài chính, bảo hộ, cho 10
  10. vay ưu đãi, bán phá giá …; biện pháp chính trị – kinh tế là dùng áp lực chính trị để buộc đối phương phải nhượng bộ hoặc một điều kiện thương mại nào đó có lợi cho mình; biện pháp quân sự như gây chiến tranh cục bộ hoặc chiến tranh thế giới để gây ảnh hưởng và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khă năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng thị trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nó, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, … Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành là khả năng doanh nghiệp đó, ngành đó tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành người ta dựa nhiều vào tiêu chí: thị phần, doanh thu, lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín của doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỉ lệ công nhân lành nghề, tỉ lệ đội ngũ quản lý giỏi, nghiên cứu và sáng tạo, … Những yếu tố đó tạo cho doanh nghiệp, ngành có lợi thế cạnh tranh, tức là tạo cho doanh nghiệp khả năng triển khai các hoạt động với hiệu suất cao hơn các đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị cho khách hàng dựa trên sự khác biệt hoá trong các yếu tố của chất lượng hoặc chi phí thấp hoặc cả hai. 11
  11. Lý thuyết cạnh tranh suất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ “tự do kinh tế” mà Adam Smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài người ngày càng phát triển về mọi mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý chí vươn lên, ham muốn làm giàu, ham muốn khám phá cái mới, nhờ đó mà thúc đẩy khoa học – kỹ thuật phát triển, làm cho mọi ngành kinh tế, mọi doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn phát triển ra phạm vi toàn cầu (mà người ta gọi là các công ty đa quốc gia). Nhiều doanh nghiệp (nói riêng) và nhiều tổ chức (nói chung) của một quốc gia có năng lực cạnh tranh thì quốc gia đó sẽ có năng lực cạnh tranh. Hiện nay chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh được mọi người công nhận. Theo M.Porter – người từng làm việc trong hội đồng cố vấn bên cạnh tổng thống Mỹ: Không có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh được thừa nhận một cách phổ biến. Đối với các lãnh đạo doanh nghiệp năng lực cạnh tranh có nghĩa là sức cạnh tranh trên thị trường thế giới nhờ áp dụng chiến lược toàn cầu mà có được. Đối với nhiều nghị sĩ quốc hội sức cạnh tranh là xuất siêu trong ngoại thương. Đối với một số nhà kinh tế học, sức cạnh tranh là giá thành thấp của đơn vị sức lao động dựa vào điều chỉnh hối suất. Cuộc tranh luận về sức cạnh tranh cho tới những năm 90 của thế kỷ XX vẫn diễn ra sôi nổi và có phần gay gắt. Trên cơ sở đó, OECD đưa ra định nghĩa sau: “Năng lực cạnh tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương, các quốc gia và khu vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Hội đồng cạnh tranh của Mỹ đề nghị định nghĩa: Sức cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hoá và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua thử thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng có thể được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài. 12
  12. Trong từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “Sức cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Nhiều học giả cho rằng mục tiêu chủ yếu của các quốc gia là tạo mức sống ngày càng cao cho nhân dân, còn làm được việc này thì không phải do năng lực cạnh tranh quyết định mà do năng suất sử dụng tài nguyên hoặc lực lượng sản xuất của quốc gia ấy quyết định. Mặc dù có sự khác nhau giữa các định nghĩa trên song hàm nghĩa cơ bản là như nhau, tức năng lực cạnh tranh quốc gia là năng suất của mỗi nước được phản ánh thông qua sản phẩm của họ được tiêu thụ trên thị trường thế giới. 1.1.1.1 Quan niệm về cạnh tranh trước nửa đầu thế kỷ XX Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tự do kinh tế phát triển ở Anh với lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo. Lý thuyết này chủ yếu đưa ra nguyên tắc thuế hợp lý và làm rõ chức năng kinh tế của nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường tự do, chỉ rõ cơ chế vận hành của thị trường tự do và hiệu quả của cơ chế đó là làm cho dân giàu nước mạnh. Các học thuyết trong giai đoạn này đề cao tự do cạnh tranh, đề cao lợi ích cá nhân. Smith cho rằng phát triển tự do trao đổi hàng hoá sẽ tăng cường sự phân công lao động mà mức độ phân công thì do thị trường quyết định. Cạnh tranh sẽ làm cân bằng cung – cầu, làm cho sự phân phối tài nguyên được hợp lý, làm cho sản phẩm ngày càng tốt và giá rẻ. Lý thuyết này khẳng định rằng muốn cạnh tranh phát triển, Nhà nước phải đề ra các chính sách thích hợp để khuyến khích kinh doanh phát triển ở cả thị trường trong và ngoài nước, nhưng Nhà nước không nên can thiệp sâu vào cạnh tranh, chỉ nên tạo điều kiện cho cạnh tranh phát triển. Tư tưởng lợi thế cạnh tranh là đóng góp quan trọng của David Ricardo. Mỗi quốc gia, mỗi ngành có những lợi thế về tài nguyên khác nhau. Mói ngành, mỗi nước tuỳ vào khả năng của mình mà sản xuất và bán những sản 13
  13. phẩm mà mình có lợi thế hơn và mua cái mà mình không sản xuất được hoặc sản xuất với giá đắt hơn. Nội dung của lý thuyết lợi thế so sánh là các nước lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hoá sản xuất theo công thức: chi phí sản xuất mặt hàng A của nước đó so với thế giới nhỏ hơn chi phí sản xuất mặt hàng B của nước đó so với thế giới. Thông qua ngoại thương các nước bù đắp cho nhau, làm cho năng suất lao động ở mỗi nước tăng lên, chi phí giảm xuống. Đó cũng là yếu tố cơ bản làm tăng cạnh tranh. Cả A. Smith và D.Ricardo cũng nêu lý thuyết về thuế khoá. Thuế cần thiết cho chi tiêu của chính phủ và xây dựng đất nước. Thuế cũng có thể thúc đẩy sản xuất, phát triển xuất nhập khẩu, nhưng cũng có thể có tác dụng ngược lại. Chính vì vậy cần phải có chính sách thuế hợp lý, khoa học. Hai ông cũng phân biệt rõ giá trị và giá trị sử dụng chứa đựng trong sản phẩm và đó cũng là yếu tố quan trọng quyết định tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đến Karl Marx, lý luận cạnh tranh của ông phát triển ở tầm cao hơn, gồm cạnh tranh về giá trị thặng dư, cạnh tranh chất lượng và cạnh tranh giữa các ngành. Ba mặt đó diễn ra xoay quanh giá trị. Karl Marx đã chỉ ra tính hai mặt của lao động là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào trong giá trị mới, lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (v+m). Từ đó Marx chỉ ra cơ cấu chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoấthnhf giá cả sản xuất trong điều kiện tự do cạnh tranh. Trong cuốn “Tóm tắt phê phán kinh tế chính trị học”, Engels cũng nghiên cứu vấn đề cạnh tranh. Ông nói, địa tô, lợi nhuận, tiền lương phụ thuộc vào cạnh tranh. Cạnh tranh sinh ra độc quyền, độc quyền lại làm cho cạnh tranh càng sâu sắc hơn. Điều đó rất đúng với tình hình kinh tế thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Lênin đã chỉ ra tính qui luật tất yếu của việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. 14
  14. Thời kỳ này, việc tích tụ và tập trung sản xuất đã đạt tới mức cao, dẫn tới sự ra đời của các tập đoàn độc quyền, và cạnh tranh độc quyền là đặc điểm cơ bản ở thời kỳ này. Từ độc quyền trong lĩnh vực sản xuất và ngân hàng tạo ra một lĩnh vực độc quyền mới là độc quyền tài chính. Các công ty độc quyền mở rộng ra ngoài phạm vi quốc gia thông qua xuất khẩu tư bản. Các công ty độc quyền luôn thu được lợi nhuận siêu ngạch, độc quyền nhờ mua với giá độc quyền rẻ và bán với giá độc quyền cao. Các nhà tư bản ngày càng can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao cho các tổ chức độc quyền. Sự bóc lột của các công ty độc quyền với các nước khác, đặc biệt là các nước châu Á, châu Phi cũng được đẩy mạnh từ đây. Họ vơ vét tài nguyên và sức lao động của các nước này để làm giàu cho họ làm cho các nước nghèo ngày càng nghèo hơn. Vào năm 1859, lý thuyết tiến hoá của Charles Robert Darwin ra đời. Theo ông, sinh vật không ngừng biến đổi để thích ứng với môi trường tự nhiên và cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Nhờ di truyền mà thế hệ sau trội hơn thế hệ trước. “Các loài phải nương tựa vào nhau để cùng tiến hoá”. Về sau, lý thuyết của Darwin được vận dụng vào kinh tế học hiện đại để giải thích cho cạnh tranh trong điều kiện mới, đó là vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Lý luận cạnh tranh của phương Tây cuối thế kỷ XIX là lý luận cạnh tranh của trường phái lý luận cổ điển mới mà đại diện là W.S.Jevons (1834- 1882), A.Mashall (1842-1910). Cạnh tranh hoàn hảo là tâm điểm của kinh tế học cổ điển mới. Theo lý thuyết của họ thì thu nhập và của cải được phân phối đều khắp nên nhà nước không cần phải nhúng tay vào. Nhưng về sau (khoảng 20 năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX), chủ nghĩa tư bản đi vào độc quyền, “bàn tay vô hình” tỏ ra bất lực, không thể hạn chế được thất nghiệp, tính không ổn định của nền kinh tế ngày càng tăng. Ba mươi năm cuối cùng của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang độc 15
  15. quyền cạnh tranh. Mâu thuẫn trong tranh giành thị trường để tiêu thụ sản phẩm và chiếm đoạt nguồn nguyên liệu giữa các nước tư bản ngày càng sâu sắc không thể dung hoà đã dẫn tới việc giải quyết cạnh tranh bằng chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai vào nửa đầu thế kỷ XX. 1.1.1.2 Quan niệm về cạnh tranh từ nửa sau thế kỷ XX đến nay Đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đi vào độc quyền, nhiều vấn đề kinh tế xã hội không giải quyết được bằng “Bàn tay vô hình” như thất nghiệp, mất cân bằng, khủng hoảng xã hội, các vấn đề môi trường, … Cho nên, đầu những năm 1920, 1930 của thế kỷ XX xuất hiện trào lưu mới trong kinh tế đòi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào cạnh tranh. “Lý thuyết chung về việc làm, lãi xuất và tiện tệ” (1936) của John Maynard Keynes ra đời và được coi là một cuộc cách mạng nhưng cũng không thể cứu vãn được tình trạng thất nghiệp, lạm phát, mất ổn định ngày càng trầm trọng của chủ nghĩa tư bản. Nước Mỹ là nơi áp dụng mạnhmẽ học thuyết của Keynes nhưng cũng là nơi thường xuyên xảy ra khủng hoảng kinh tế. Vào nửa sau thế kỷ thứ XX, các nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, các lý thuyết kinh tế của trường phái cổ điển mới và của Keynes đã kết hợp với nhau hình thành nên lý thuyết của kinh tế học hiện đại để phân tích những vấn đề của kinh tế hàng hoá phát triển. Thị trường là nơi người bán và người mua trao đổi với nhau để xác định lượng sản phẩm và giá cả sản phẩm trao đổi. Sản phẩm có nhiều loại nên thị trường cũng có nhiều loại: Thị trường hàng hoá (sản phẩm hữu hình), thị trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản. Mỗi loại thị trường có những đặc điểm riêng của nó, song đều hoạt động tuân theo quy luật của cung – cầu và quy luật cạnh tranh. Cơ chế thị trường có những khuyết tật của nó. Để khắc phục những khuyết tật đó, làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả hơn thì phải cần đến sự can thiệp của “bàn tay 16
  16. hữu hình”, tức là chính phủ. Tuy nhiên “bàn tay hữu hình” cũng có những khuyết tật của nó: có thể có những quyết định không đúng do dự báo, tính toán thiếu chính xác, thiếu khách quan, thuần tuý dựa vào kinh nghiệm. Ví dụ áp dụng chính sách bảo hộ ngành nào đó quá dài, làm thui chột những sáng tạo, làm cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp yếu dần; hoặc đánh thuế cao làm thất thu ngân sách, làm đình trệ sản xuất … Từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước phát triển, cạnh tranh độc quyền phát triển mạnh, họ cấu kết với chính phủ để giữ được vị trí lâu dài. Cạnh tranh độc quyền đã gây bất ổn trong xã hội: trao đổi bất bình đẳng, thất nghiệp tăng, kéo dãn khoẳng cách giàu nghèo, lợi nhuận chỉ tập trung vào một số nhỏ nhà tư bản và nó kìm hãm tốc độ sáng tạo. Tuy nhiên, độc quyền không thể xoá bỏ cạnh tranh. Các chính sách cạnh tranh có thay đổi. Các biện pháp cạnh tranh đã thay đổi hoặc đổi vị trí cho nhau. Trước năm 1970 của thế kỷ XX, các biện pháp cạnh tranh thường là giá cả, điều kiện mua bán, quảng cáo. Nhưng sau năm 1970, các biện pháp đó đã nhường chỗ cho cạnh tranh chất lượng, cạnh tranh của sản phẩm mới, kỹ thuật mới, phương pháp quản lý mới, tốc độ cung cấp của sản phẩm và dịch vụ đi kèm. Từ những năm 80, nhiều nhà kinh tế học phương Tây đã đưa ra nhiều lý thuyết về cạnh tranh như Michel Porter, J.B.Barney,… Năm 1985, lý luận “lợi thế cạnh tranh” của M.Porter ra đời đã phân tích tình hình doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trong thương mại quốc tế và đưa ra khái niệm về “lợi thế cạnh tranh” và “lợi thế so sánh”. Lợi thế tuyệt đối muốn nói tới điều kiện tài nguyên, môi trường tạo cho doanh nghiệp, cho quốc gia những thuận lợi gì trong sản xuất và thương mại như giàu có về nguồn lao động, về khí đốt, dầu mỏ, nước, rừng, tài nguyên biển, các quặng kim loại,… Những lợi thế này chỉ là tạm thời vì đều chịu tác động của quy luật khan hiếm. Lợi thế cạnh tranh muốn nói tới sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp, của quốc gia nhiều hơn 17
  17. như chất lượng quản lý, chất lượng sản phẩm, chất lượng đào tạo, chất lượng sánh tạo, năng suất, môi trường kinh doanh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ. Thường thì lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi thế so sánh. Một doanh nghiệp, một ngành có lợi thế so sánh thì thường có lợi thế cạnh tranh, nó góp phần thúc đẩy doanh nghiệp, ngành tăng năng lực cạnh tranh. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh hỗ trợ cho nhau. Lợi thế so sánh phát huy tác dụng nhờ lới thế cạnh tranh. Nếu một doanh nghiệp hoặc một ngành có lợi thế so sánh do nguồn nhân lực dồi dào nhưng nguồn này không có lợi thế cạnh tranh, ví dụ như chất lượng lao động thấp, thì lợi thế dồi dào về nguồn nhân lực kia khổng thể phát huy tác dụng của nó. Phân biệt sự tác động của lợi thế cạnh tranh và tác động của lợi thế so sánh đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành là rất khó. Tuy nhiên nếu không phân biệt được sự khác nhau giữa lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh và mức độ tác động của chúng tới năng lực cạnh tranh thì khó có thể giải quyết được những tồn tại trong phát triển doanh nghiệp và phát triển ngành kinh doanh. Ví dụ một ngành nào đó có tương đối đầy đủ các yếu tố đầu vào, tức là lợi thế so sánh tốt, song do thiếu một môi trường cạnh tranh thuận lợi, do thiếu thông tin… cho nên các yếu tố sản xuất đó không phát huy hiệu quả. M. Porter coi trọng vai trò của doanh nghiệp và của ngành mà trong đó doanh nghiệp tham gia trong quá trình cạnh tranh. Ông đưa ra mô hình “viên kim cương” hay còn gọi là mô hình “viên kim cương hình thoi” (Porter Diamond). Các nhà kinh trế sử dụng mô hình này để phân tích năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành, một quốc gia. Khi phân tích năng lực cạnh tranh theo mô hình Porter, người ta xem xét bốn yếu tố quan trọng là các điều kiện về cầu; chiến lược doanh nghiệp; cơ cấu và đối thủ cạnh tranh; các ngành liên quan và sự hỗ trợ. Các yếu tố này luôn tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau và thúc đẩy sự phát triển. Trong 18
  18. môi trường cạnh tranh mới, các yếu tố trên vẫn chịu sự điều tiết của nhà nước, đồng thời chịu sự ảnh hưởng bởi sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Quan hệ hợp tác và thương mại doang nghiệp của các nước đang phát triển với các công ty xuyên quốc gia gọi là liên kết quốc tế. Nhờ có mối liên kết này mà xuất khẩu của các doanh nghiệp được phát triển và nhờ đó nền kinh tế của các nước tăng trưởng nhanh. Thực tiễn phát triển của cácc nước châu Á, nhất là các “con rồng” trong 30 năm qua đã chứng tỏ điều đó. Để phát triển nền kinh tế của mình, các nước đang phát triển ngày càng tăng cường các mối liên kết quốc tế thông qua sự kết hợp các lợi thế so sánh, sức mạnh nội lực với công nghệ của các công ty xuyên quốc gia, và nhờ đó mà khả năng cạnh tranh của các quốc gia đang phát triển ngày càng được nâng cao. Nếu không tạo được khối liên kết này thì các doang nghiệp của các nước đang phát triển khó lòng mà tồn tại trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Môi trường cạnh tranh hiện nay là môi trường không hoàn hảo, tức là vừa có cạnh tranh vừa có độc quyền, vừa cạnh tranh vừa hợp tác cả ở thị trường trong nước lẫn thị trường quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế công nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là phải tạo ra một nền sản xuất có năng suất cao với việc sử dụng đầu vào ít nhất mà tạo đầu ra nhiều nhất. Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một ngành là năng suất so sánh giữa các doanh nghiệp cùng loại hoặc giữa các ngành cùng loại của các nước khác nhau. Trong điều kiện của nền kinh tế tri thức thì cơ sở của năng lực cạnh tranh là tri thức, là kỹ thuật cao, là dịch vụ hoàn hảo. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ và kỹ thuật cao là lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố hàng đầu quyết định đến việc sản xuất ra của cải, sức mạnh và sự phát triển. Lúc này, xã hội cũng như thị trường sẽ chú ý tới giá trị của của cải nhiều hơn là chỉ chú ý đến sản lượng. Với hai lượng của cải ngang nhau 19
  19. nhưng doanh nghiệp nào tạo ra được lượng giá trị cao hơn thì sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn. 1.1.2. Các loại hình cạnh tranh Tuỳ theo cách phân loại khác nhau thì có các loại hình cạnh tranh khác nhau . Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường : Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt . Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Là cuộc cạnh tranh theo quy luật cung cầu. Chẳng hạn khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua với nhau trở lên rất quyết liệt. Nó sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Đây cũng là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất để dành lấy khách hàng về phía mình. Cuộc cạnh tranh này sẽ quyết định doanh nghiệp nào tồn tại và doanh nghiệp nào sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Chính vì lẽ đó tất cả các doanh nghiệp đều muốn dành giật lợi thế cạnh tranh về phía mình. Để làm được điều này mỗi doanh nghiệp cần phải lỗ lực phấn đấu, tìm ra hướng đi riêng cho mình. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường người ta chia cạnh tranh ra các loại hình sau Cạnh tranh hoàn hảo: Là loại hình cạnh tranh trong đó có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau .Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi coi là giống nhau. Các doanh nghiệp tham gia trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí sản xuất sản phẩm để hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giá đầu vào. Cạnh tranh không hoàn hảo: Là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Người bán có thể ấn định giá linh hoạt theo khu vực bán sản phẩm, khách hàng và mức lợi nhuận mong muốn. 20
  20. Tóm lại, cạnh tranh là cuộc chạy đua quyết liệt giữa các chủ thể hoạt động trong thị trường nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất về phía mình.Cạnh tranh được coi là động lực của quá trình phát triển. Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về phía mình ngày càng nhiều khách hàng nên buộc các nhà sản xuất công nghiệp, dịch vụ ngày càng phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn và giá thành phải hạ thấp. Vì vậy, cạnh tranh là cơ hội cho doanh nghiệp cải tiến, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng những cộng nghệ mới vào trong sản xuất do vậy cạnh tranh là nguồn gốc, là động lực cho sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao 1.1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp do nhiều yếu tố hình thành nên, các yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất giúp doanh nghiệp có thế đứng vững chắc trước những biến động của thị trường, trước sự cạnh tranh gay gắt dành giật khách hàng về phía mình của các đổi thủ cạnh tranh. Các yếu tố góp phần tạo lên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm.  Tình hình sản xuất và năng lực sản xuất.  Tình hình phân phối và tiêu thụ sản phẩm.  Trình độ công nghệ và trang thiết bị.  Trình độ cán bộ quản lý và lao động.  Khả năng quảng cáo và tiếp thị sản phẩm. Tình hình sản xuất và năng lực sản xuất. Với một doanh nghiệp ta không thể khẳng định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó cao khi mà tình hình sản xuất và năng lực sản xuất của doanh nghiệp thấp kém. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp phản ánh quy mô sản xuất của doanh nghiệp đó là lớn hay nhỏ, mức độ hiện đại ra sao. Với 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2