intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

31
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài góp phần làm rõ thực chất, nội dung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và những tác động của nó đối với các nƣớc thành viên ACFTA và Việt Nam; đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng và hội nhập của Việt Nam trong ASEAN nói chung, trong ACFTA nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VŨ THỊ THANH XUÂN KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN- TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2004
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VŨ THỊ THANH XUÂN KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN- TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ XHCN MÃ SỐ: 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.,TS., NGUYỄN XUÂN THẮNG HÀ NỘI - 2004
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Ngày nay, xu hƣớng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang gia tăng mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia, dân tộc.Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nƣớc trở thành một tất yếu kinh tế. Năm 2003, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã bắt đầu có hiệu lực trong khu vực và điều này đã đặt ra rất nhiều thách thức cũng nhƣ cơ hội cho các nƣớc thành viên mới nhƣ Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar. Không chỉ có vậy, tháng 11 năm 2002, Hiệp định khung về khu vực mậu dịch tự do ASEAN + Trung Quốc đã đƣợc ký kết. Nhƣ vậy, từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đến Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), sẽ mang đến nhiều cơ hội và thách thức cho các nền kinh tế ASEAN, đặc biệt là tác động của ACFTA đối với các nƣớc thành viên mới càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Điều này giúp chúng ta tận dụng đƣợc những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, khai thác có hiệu quả những cơ hội do ACFTA đem lại trong quá trình nƣớc ta hội nhập khu vực và thế giới. Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn vấn đề "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam " làm đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã đƣợc nhiều nhà khoa học, các nhà quản lý và hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình về vấn đề này đã đƣợc công bố và các kết quả nghiên cứu đó đã có tác dụng đáng kể đối với thực tiễn đổi mới và phát triển ở nƣớc ta. Trong khi đó, do ACFTA là vấn đề mới nên chúng ta chƣa có nhiều công trình nghiên cứu lớn mà chỉ có những bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí và những báo cáo trong những hội thảo khoa học.
  4. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: - Góp phần làm rõ thực chất, nội dung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc và những tác động của nó đối với các nƣớc thành viên ACFTA và Việt Nam - Đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm nâng cao khả năng và hội nhập của Việt Nam trong ASEAN nói chung, trong ACFTA nói riêng. Nhiệm vụ: - Luận giải vai trò của ACFTA đối với quá trình phát triển kinh tế của các nƣớc trong khu vực. - Phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức do ACFTA đem lại đối với Việt Nam. - Đề xuất một số kiến nghị về đối sách của Việt Nam trong việc phát huy những thế mạnh của mình để tận dụng những cơ hội mà ACFTA đem lại cũng nhƣ để giảm thiểu những tác động tiêu cực của nó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tƣợng nghiên cứu là ACFTA và sự tham gia của các bên có liên quan trong đó có Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào các lĩnh vực: Thƣơng mại và đầu tƣ . Khung thời gian nghiên cứu là từ khi bắt đầu có đàm phán để ký kết Hiệp định khung ACFTA cho đến nay. Tuy nhiên, do ACFTA vừa mới thành lập, nên các phân tích về chƣơng trình của nó chủ yếu nặng về khía cạnh phân tích định tính và dự báo. 5. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… 6. Những đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ thực chất và chiều hƣớng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc - Chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực cùng những thuận lợi và khó khăn của ACFTA đối với các nƣớc.
  5. 3 - Đƣa ra một số giải pháp để khắc phục những bất lợi, nâng cao khả năng phát triển và hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng. Chƣơng I - Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Chƣơng II - Những tác động của ACFTA đối với các nƣớc thành viên ASEAN và Trung Quốc. Chƣơng III - Phƣơng hƣớng và một số giải pháp thực hiện ACFTA của Việt Nam.
  6. 4 CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH ACFTA 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức liên kết thƣơng mại của hai nƣớc hay nhiều nƣớc với nhau. Thông qua khu vực mậu dịch tự do, các nƣớc mở rộng trao đổi buôn bán và mở rộng các hình thức hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế. Ngày nay khái niệm thƣơng mại có nội hàm rộng hơn nhiều, không chỉ bó hẹp ở lĩnh vực thƣơng mại hàng hoá, mà nó còn liên quan đến đầu tƣ, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, thậm chí đã mở rộng đến cả các vấn đề nhƣ: lao động, điều chỉnh việc làm, vấn đề môi trƣờng, thƣơng mại điện tử. Nội hàm của thƣơng mại quốc tế không chỉ đƣợc mở rộng mà nội dung ngày càng sâu sắc thêm. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một hình thức liên kết thƣơng mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Trƣớc đây đàm phán, thoả thuận, thực hiện cắt giảm thuế quan, hạ thấp và xoá bỏ hàng rào phi quan thuế là nội dung trọng tâm của AFTA. Nhƣng từ cuối những năm 1990, AFTA đã thể hiện rõ ràng xu hƣớng mở rộng nội dung sang các vấn đề lớn của quan hệ kinh tế quốc tế nhƣ đầu tƣ, dịch vụ, sở hữu trí tuệ liên quan đến thƣơng mại, thƣơng mại điện tử và những vấn đề khác. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) là hình thức liên kết thƣơng mại giữa ASEAN và Trung Quốc. Trong Hiệp định khung, hai bên khẳng định việc thành lập ACFTA có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tăng cƣờng hợp tác kinh tế vốn có giữa hai bên mà còn giúp mở rộng cơ hội mậu dịch và đầu tƣ song phƣơng. Nội dung hợp tác của ACFTA đƣợc thoả thuận trên rất nhiều lĩnh vực. Đó cũng là xu hƣớng chung của các khu vực mậu dịch tự do trên thế giới, nó không nằm ngoài khuôn khổ Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO). Mục tiêu của AFTA cũng nhƣ của ACFTA là thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, trao đổi buôn bán giữa các bên tham gia nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
  7. 5 các nƣớc trong khu vực và trên thị trƣờng thế giới. Thông qua đó nhằm thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, nâng cao khả năng huy động và phân bổ nguồn lực giữa các nền kinh tế nhằm thích ứng với những chuyển biến và những điều kiện chung của thƣơng mại thế giới, thúc đẩy nền kinh tế của các nƣớc thành viên. 1.1.2. Các lý thuyết về tự do hoá thƣơng mại Lý thuyết về thƣơng mại quốc tế Ngay từ giữa thế kỷ 16, trƣờng phái trọng thƣơng đã chú ý tới vai trò quan trọng của ngoại thƣơng trong việc làm tăng của cải của quốc gia. Đến thế kỷ 18, đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tƣ sản cổ điển Anh Adam Smith đã đƣa ra khái niệm "lợi thế tuyệt đối" để lý giải nhận định trên. Theo ông các nƣớc trên thế giới buôn bán với nhau vì họ khác nhau và vì họ cùng có lợi.Với lý thuyết "Lợi thế tuyệt đối", A.dam Smith đã chỉ ra rằng các nƣớc có thể dựa vào sự chuyên môn hoá sản xuất và các điều kiện tự nhiên khác nhau của mình để lựa chọn mặt hàng sản xuất phù hợp và cho năng suất cao. Sau đó, thông qua trao đổi quốc tế thì các nƣớc đều có lợi. Ngoài những khác biệt về điều kiện thiên nhiên và vị trí địa lý, giữa các nƣớc còn có sự khác biệt về năng suất lao động, nhu cầu thị trƣờng, khả năng cung ứng và sử dụng các nguồn lực. Để thể hiện đầy đủ sự khác biệt giữa các nƣớc theo những tiêu chí nhƣ vậy, các nhà kinh tế đã đƣa ra quan điểm về lợi thế so sánh hay lợi thế tƣơng đối. Quan điểm này đƣợc thể hiện thông qua nhiều mô hình khác nhau, trong số đó phải kể đến mô hình Ricardo, mô hình các yếu tố chuyên biệt của Paul Samuelson, mô hình Heckscher- Ohlin, mô hình thương mại chuẩn. Chúng đƣợc coi là những mô hình cơ bản để giải thích về nguồn gốc những lợi ích từ thƣơng mại. Ra đời vào đầu thế kỷ 19, mô hình Ricardo đƣợc coi là mô hình đơn giản nhất lý giải về nguồn gốc những lợi ích từ thƣơng mại. Mô hình này giả định rằng chỉ có một yếu tố duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất - đó là lao động và nó đƣợc di chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác, các nƣớc khác nhau chỉ vì năng suất lao động trong các ngành công nghiệp khác nhau và mức lợi tức
  8. 6 không đổi theo qui mô. Nếu không có thuế quan và chi phí vận chuyển không đáng kể, các nƣớc thƣờng xuất khẩu hàng hoá mà họ sản xuất có hiệu quả và nhập khẩu hàng hoá mà họ sản xuất tƣơng đối kém hiệu quả. Điều này hàm ý rằng: “các nƣớc sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tƣơng đối, hay chi phí cơ hội thấp hơn các nƣớc khác” [3, 327]. Nhƣ vậy, việc chuyên môn hoá sản xuất dựa trên cơ sở lợi thế so sánh sẽ giúp cho các nƣớc có điều kiện trao đổi hàng hoá với nhau và làm cho họ cùng có lợi. Những lợi ích từ thương mại có thể được thể hiện thông qua việc mở rộng khả năng tiêu dùng của các bên trao đổi và nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhƣng nếu so sánh với thực tiễn thƣơng mại quốc tế, mô hình này còn nhiều hạn chế và đôi khi còn đƣa ra những phán đoán sai lệch nhƣ: Thứ nhất, việc chuyên môn hoá sản xuất hoàn toàn mà mô hình đòi hỏi là không thể có đƣợc trong thực tiễn. Thứ hai, do giả định rằng lao động có thể di chuyển tự do và không tốn kém giữa các ngành, mô hình Ricardo đã đƣa ra phán đoán không sát với thực tế khi cho rằng thƣơng mại không tác động lên sự phân phối thu nhập trong nội bộ các nƣớc. Thứ ba, mô hình Ricardo đã bỏ qua vai trò của lợi thế nhờ qui mô - một nguồn gốc của trao đổi quốc tế. Để góp phần khắc phục những hạn chế trong mô hình Ricardo, Paul Samuelson và Ronald Jones đã lý giải nguồn gốc của thƣơng mại và các lợi ích tiềm tàng của nó thông qua mô hình các yếu tố chuyên biệt. Mô hình này giả định rằng có nhiều yếu tố khác ngoài lao động tham gia vào quá trình sản xuất, trong đó lao động là yếu tố linh hoạt, tức có thể tham gia vào nhiều ngành sản xuất khác nhau, còn các yếu tố khác là chuyên biệt, tức chúng chỉ tham gia vào một ngành sản xuất nhất định nào đó. Với bất kỳ mức giá nào của sản phẩm (tức không phải do ngƣời sản xuất quyết định), mô hình các yếu tố chuyên biệt cho thấy sự có mặt của các yếu tố chuyên biệt trong quá trình sản xuất đã tạo điều kiện cho các nƣớc có thể thay đổi mức cung hàng hoá ra thị trƣờng, khi họ thay đổi lƣợng yếu tố chuyên biệt đƣợc sử dụng. Do có sự khác nhau trong cung ứng các yếu tố giữa các nƣớc, nên mỗi nƣớc sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất
  9. 7 mặt hàng nào cần nhiều yếu tố chuyên biệt mà nó sẵn có (nƣớc có nhiều vốn sẽ tập trung sản xuất hàng công nghiệp, còn nƣớc có nhiều đất đai thì sản xuất hàng thực phẩm). Khi đó, thông qua thƣơng mại, các nƣớc có thể trao đổi với nhau những hàng hoá mà họ có điều kiện sản xuất tốt hơn. Trong lý thuyết thƣơng mại quốc tế, bên cạnh mô hình các yếu tố chuyên biệt, còn có một mô hình khác giải thích nguồn gốc của thƣơng mại thông qua sự khác biệt về nguồn lực. Đó là mô hình Heckscher- Ohlin, hay còn gọi là mô hình tỷ lệ các yếu tố, do hai nhà kinh tế học Thuỵ điển Eli Heckscher và Bertil Ohlin đƣa ra vào những năm 30 của thế kỷ XX. Mô hình này đƣợc xây dựng dựa trên giả thuyết nền kinh tế có hai yếu tố sản xuất (ví dụ lao động và đất đai) và chúng đều có thể tham gia vào hai ngành sản xuất khác nhau (có tỷ lệ lao động- đất đai sử dụng vào sản xuất khác nhau). Trong mô hình này, không có yếu tố nào là chuyên biệt cả. Ngoài ra, để giải thích nguồn gốc của thƣơng mại, mô hình Heckscher- Ohlin còn giả định rằng hai nƣớc buôn bán với nhau chỉ có một sự khác biệt duy nhất là ở các nguồn lực – một nƣớc có tỷ lệ lao động - đất đai cao hơn nƣớc kia (nghĩa là nó tƣơng đối giàu có hơn về lao động), trong khi có rất nhiều điểm giống nhau – nhu cầu về hàng hoá, mức giá tƣơng đối, công nghệ. Với các điều kiện khác nhƣ nhau và không đổi, nƣớc tƣơng đối giàu có hơn về lao động sẽ tập trung vào việc sản xuất hàng hoá cần nhiều lao động hơn, còn nƣớc kia, do giàu có hơn về đất đai sẽ tập trung vào việc sản xuất hàng hoá cần nhiều đất đai. Sự dồi dào tƣơng đối về nguồn lực này gây ra tác động thiên lệch lên khả năng sản xuất của các nƣớc tham gia thƣơng mại và mỗi nƣớc có thiên hƣớng xuất khẩu loại hàng hoá mà nó cung tƣơng đối lớn hơn. Có thể nói một cách khái quát rằng các nƣớc có thiên hƣớng xuất khẩu hàng hoá cần nhiều yếu tố sản xuất mà nƣớc họ có dồi dào. Trong ba mô hình trên, các nhà kinh tế học mới chỉ tập trung giải thích nguồn gốc và tác động của thƣơng mại trên cơ sở những thay đổi trong cung tƣơng đối của hàng hoá trên thị trƣờng, mà chƣa chú ý đến những thay đổi trong cầu tƣơng đối, đặc biệt khi nó bị hạn chế bởi khả năng thu nhập của dân chúng.
  10. 8 Mô hình thƣơng mại chuẩn sẽ cho chúng ta một bức tranh sát với thực tế hơn về thƣơng mại quốc tế, khi nó đặt thƣơng mại trong mối quan hệ với sản xuất và tiêu dùng. Trong mô hình thƣơng mại chuẩn, chuyên môn hoá không hoàn toàn đã đƣợc sử dụng để xác định khả năng sản xuất của các nƣớc. Điều này có nghĩa là, mỗi nƣớc sẽ sản xuất nhiều hơn những mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh, trong khi nó vẫn sản xuất những mặt hàng khác nhƣng với số lƣợng hạn chế. Trong mô hình này, giả thuyết nhu cầu tƣơng đối là không đổi đã bị loại bỏ, nó đƣợc xác định từ sở thích tiêu dùng của các cá nhân và bị giới hạn bởi khả năng thu nhập của họ. Khi có thƣơng mại, mức cung tƣơng đối hàng hoá của thế giới đƣợc xác định từ khả năng sản xuất của tất cả các nƣớc tham gia thƣơng mại và mức cầu tƣơng đối - từ sở thích của chúng. Sự tăng trƣởng kinh tế ở một nƣớc (sự mở rộng khả năng sản xuất thông qua sự gia tăng các nguồn lực hoặc cải thiện hiệu quả sử dụng chúng) gây tác động lên phúc lợi của các nƣớc còn lại thông qua điều kiện mậu dịch - mức giá của hàng xuất khẩu so tƣơng đối với hàng nhập khẩu, theo hai hƣớng khác nhau. Khi các yếu tố khác không đổi, nếu điều kiện mậu dịch của một nƣớc đƣợc cải thiện hơn, thì sự cải thiện đó thúc đẩy sự tăng trƣởng ban đầu ở trong nƣớc đó, nhƣng lại gây tổn thƣơng cho các nƣớc khác. Ngƣợc lại, khi điều kiện mậu dịch của nƣớc này giảm đi, thì sự giảm đi đó sẽ làm mất đi một số tác động thuận lợi đến tốc độ tăng trƣởng trong nƣớc, nhƣng lại có lợi cho các nƣớc còn lại. Hƣớng tác động lên điều kiện mậu dịch này phụ thuộc vào bản chất của sự tăng trƣởng. Thông qua mô hình thƣơng mại chuẩn, có thể thấy rõ thƣơng mại không những tác động mạnh lên phân phối thu nhập trong nội bộ một nƣớc mà nó còn tác động lên phân phối thu nhập quốc tế thông qua điều kiện mậu dịch. Mỗi nƣớc có thể đƣợc lợi hoặc bị thiệt hại từ thƣơng mại quốc tế tuỳ thuộc vào xu hƣớng tăng trƣởng kinh tế, việc áp dụng thuế quan nhập khẩu hay trợ cấp xuất khẩu. Qua các mô hình thƣơng mại quốc tế, có thể đi đến kết luận rằng các nƣớc buôn bán với nhau hoặc vì họ khác biệt về các nguồn lực, về công nghệ, hoặc vì
  11. 9 họ khác biệt nhau về lợi thế kinh tế nhờ qui mô, hoặc vì cả hai lý do đó. Thƣơng mại luôn mang lại lợi ích cho các nƣớc tham gia và các lợi ích này là tiềm tàng. Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực mở Từ những năm 1980 quá trình liên kết và hợp tác kinh tế ở các khu vực và trên phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hoá kinh tế, thƣơng mại và đầu tƣ trở thành xu hƣớng bao trùm. Lý thuyết Chủ nghĩa khu vực mở đƣợc APEC khởi xƣớng đã trở thành một trào lƣu kinh tế đƣợc rất nhiều nƣớc thực hiện. Tổ chức APEC ra đời nhƣ một đáp ứng đúng lúc đối với yêu cầu và lợi ích của của các nền kinh tế ở Châu Á- Thái Bình Dƣơng vốn đang ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau hơn. Không giống nhƣ các tổ chức khu vực khác (đặc biệt là EU), ngay từ ban đầu, APEC không nhấn mạnh đến mục tiêu tạo lập hệ thống ƣu đãi thuế quan, liên minh thuế quan hay thị trƣờng chung, mà nhấn mạnh tới việc tăng cƣờng hệ thống thƣơng mại đa phƣơng mở. Điều này đƣợc lý giải bởi hai lý do. Một là, APEC là tập hợp của các nền kinh tế rất đa dạng về trình độ phát triển, chế độ chính trị- xã hội cũng nhƣ điều kiện lịch sử văn hoá. Vì thế, các nƣớc đang phát triển nhƣ ASEAN, NIEs không muốn thành lập khu vực tự do hoá và bị lệ thuộc một cách bất bình đẳng vào các nền kinh tế lớn hơn, có trình độ phát triển cao hơn nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Ôxtrâylia và Canada. Hai là, các nền kinh tế APEC đặc biệt là các nƣớc Đông Á phụ thuộc rất lớn vào môi trƣờng kinh tế thế giới. Sự tăng trƣởng của các nền kinh tế Nhật Bản, NIEs và ASEAN trong những năm 1970 và1980 chủ yếu nhờ vào sự thành công của chiến lƣợc hƣớng vào xuất khẩu, do vậy, họ rất muốn duy trì một hệ thống thƣơng mại toàn cầu mở và ổn định. Việc cát cứ sẽ là điều bất lợi trƣớc hết đối với những thành viên APEC có nền kinh tế, thƣơng mại phát triển cao. Nguyên tắc quan trọng nhất của APEC trong quá trình thực hiện khu vực tự do hoá kinh tế và thƣơng mại là "phù hợp với WTO". Theo đó, các chƣơng trình hợp tác của APEC không đi ngƣợc lại với những nguyên tắc đã đƣợc qui định tại WTO. Ngoài ra, nói một cách rộng hơn, chủ trƣơng của APEC là theo đuổi "chủ nghĩa khu vực mở". Những nguyên tắc của "chủ nghĩa khu vực mở" của
  12. 10 APEC bao gồm: i) APEC là diễn đàn mở cửa và không mang tính chất tự bảo vệ; ii) APEC thừa nhận sự khác biệt tồn tại giữa các nền kinh tế thành viên; iii) APEC có thái độ thực tế về việc thúc đẩy trao đổi thƣơng mại; và iv) các nền kinh tế thành viên APEC không đƣợc thực hiện phân biệt đối xử. Nói cách khác, "chủ nghĩa khu vực mở" của APEC đồng nghĩa với việc APEC không thi hành chính sách "loại trừ" và phân biệt đối xử, mà thay vào đó, thực hiện chính sách cởi mở với qui định các hiệp định đƣợc nhất trí trong APEC sẽ đƣợc áp dụng ra ngoài khu vực APEC. [37]. Trên cơ sở đó, khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng của APEC là nền tảng để thúc đẩy tự do hoá kinh tế, thƣơng mại toàn cầu. Ngày nay, lý thuyết “Chủ nghĩa khu vực mở” đƣợc phát triển mạnh mẽ ở các nƣớc với sự ra đời của các khối liên kết khác nhau ở các khu vực khác nhau. Lý thuyết "Chủ nghĩa khu vực mở" đã trở thành một trào lƣu kinh tế ở khắp thế giới. Sự phục hồi và phát triển của lý thuyết chủ nghĩa tự do mới Vào cuối những năm 70 của thế kỷ 20 cho đến nay, có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ của những lý thuyết kinh tế chủ nghĩa tự do mới. Các quốc gia trên thế giới đã nhận ra rằng, để phát triển nền kinh tế của quốc gia mình thì cần phải chấp nhận điều tiết bằng cơ chế thị trƣờng. Đó là: 1/ thị trƣờng khuyến khích hoạt động của kinh tế tƣ nhân, tạo thuận lợi cho một nền kinh tế đa thành phần; 2/ Thị trƣờng có thể đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của tiêu dùng và sản xuất lại ít tốn kém hơn; 3/ Thị trƣờng linh hoạt và mềm dẻo hơn các cơ quan nhà nƣớc nên nó dễ thích nghi với những thay đổi nhanh chóng trên thực tế. Thực tiễn đã chứng minh không có nƣớc nào trên thế giới thành công trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của mình mà không có nền kinh tế thị trƣờng tự do. Đặc biệt, sự thành công của các nƣớc NIEs, ASEAN là một bằng chứng cho thấy tăng cƣờng sự tự điều tiết dựa trên nguyên tắc thị trƣờng và dỡ bỏ những rào cản để thị trƣờng phát triển tự do là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thành công. Thêm vào nữa, ngƣời ta bắt đầu cảm nhận thấy cái giá của việc không phải
  13. 11 là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là có thật: mất đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán đa phƣơng; bỏ lỡ các cơ hội hƣởng lợi từ bên ngoài và sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá. Nhƣ vậy, với những cơ sở lý luận của ích lợi thƣơng mại đƣa lại cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lý thuyết “chủ nghĩa khu vực mở” do APEC khởi xƣớng đã thúc đẩy hơn nữa sự ra đời của các khối liên kết thƣơng mại ở tầm khu vực và sự phục hồi tƣ tƣởng của chủ nghĩa tự do mới. ACFTA ra đời cũng là phù hợp với xu hƣớng chung của thế giới. 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI ACFTA 1.2.1. Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế Ngày nay, toàn cầu hoá đang là xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành một xu thế của nền kinh tế thế giới, trong đó tự do hoá thƣơng mại là nội dung nổi trội. Trong thực tế, một nền kinh tế toàn cầu hoá không phải là một hiện tƣợng hoàn toàn mới mẻ, nó đã đƣợc ngƣời ta nói đến cách đây khoảng một thế kỷ, khi liên kết kinh tế quốc tế bắt đầu đƣợc phát triển. Lúc này, tính toàn cầu chỉ đƣợc thể hiện thông qua việc cắt giảm các hàng rào thƣơng mại và đƣợc nảy sinh từ khả năng cắt giảm chi phí vận chuyển do sự phát triển của đƣờng sắt và đƣờng thuỷ. Trong những năm gần đây, toàn cầu hoá đã là một xu thế bao trùm của nền kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày nay không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế, mà nó còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, để phát triển, mọi nƣớc trên thế giới cần phải chấp nhận nó và cố gắng cải cách nền kinh tế của mình sao cho có thể tranh thủ đƣợc tối đa các lợi ích mà quá trình này mang lại. Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá đƣợc tăng cƣờng rất mạnh mẽ trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy nhiều tổ chức liên kết kinh tế mở rộng. Liên minh Châu Âu (EU) mở rộng tới phía Trung và Đông Âu. APEC có xu hƣớng dần dần thể chế hoá khu vực cho mình. Ấn Độ đƣa ra sáng kiến thành lập tổ chức vành đai Ấn Độ Dƣơng, nhằm tạo ra một
  14. 12 không gian địa- kinh tế mới. Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đẩy mạnh thƣơng mại từ Alaska đến Nam cực... Nhƣ vậy, các chƣơng trình tự do hóa thƣơng mại khu vực đang đƣợc phát triển rất rầm rộ. Thông qua việc ký kết các hiệp định thƣơng mại đa bên, nhiều khối thƣơng mại tự do đã đƣợc thành lập. BẢNG 1. MỘT SỐ HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI KHU VỰC VỚI SỰ THAM GIA CỦA CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN (TÍNH ĐẾN NĂM 1997) Tên hiệp định Viết tắt Thành viên Hiệp ƣớc lome lần thứ tƣ ACP 70 nƣớc gồm các nƣớc đang phát triển ở Châu Phi, Caribe và TBD với Cộng đồng châu Âu Thị trƣờng chung An-đơ ANCOM Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela (Hiệp ƣớc An-đơ) Tổ chức hợp tác kinh tế APEC Australia, Brunei, Canada, Chile, Trung Quốc, Hồng công, Châu Á- TBD Nhật bản, Indonexia, Hàn Quốc, Malaysia, NiuDilan, Mexico, Papua New Guine, Philippines, Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Mỹ, Nga, Peru và Việt Nam. Hiệp hội các quốc gia ASEAN Indonexia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Đông Nam Á Lào, Brunei, Myanma, Campuchia, và Việt Nam . Cộng đồng hợp tác kinh tế CARICO Antigua và Barbuda, Bahamas, Barbado, Belize, và thị trƣờng chung M Dominica, Grenada, Guyana, Jamaica, Montserrat, Caribe St.Kitt và Nevi, St.Lucia, St.Vincent và Grenadina, Surinam, Trinidad và Tobago. Khu vực mậu dịch tự do AFTA Indonexia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, ASEAN Lào,Brunei, Myanmar, Campuchia, và Việt Nam . Liên minh kinh tế và thuế UDEAC Cameroon, Chad,Gabon, Công–gô, Cộng hòa Trung quan Trung Phi Phi. Thị trƣờng Trung Mỹ CACM Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, Nicaragoa. Khu vực mậu dịch tự do CEFTA Cộng hòa Séc, Hungary, Balan, Cộng hòa Slovac, Trung Âu Slovenia, Rumania. Cộng đồng kinh tế Tây CEAO Benin, Burkina Faso, Cape Verdo, Cote dlvoire, Nhóm Phi đảo Gambia, Mali, Ni –ghê, Sênêgal, Togo Cộng đồng Đông Phi EAC Kênia, Tanzania, Uganda.
  15. 13 Hiệp hội kinh tế Đông Á EAEG Brunei, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Lan, Thái Lan, Philíppin, Inđônêxia, Malayxia, Singapor, Nhật bản. Hội đồng hợp tác vùng GCC Bahrain, Co–oét, Oman, Quata, ả rập Xe –út, Các tiểu vịnh vƣơng quốc ả rập thống nhất. Khu vực mậu dịch tự do LAFTA Achentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Peru, Mỹ latinh Ecuado, Mexico, Paragoay, Urugoay, Venezuela. Hiệp hội liên kết Mỹlatinh LAIA Achentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Peru, Ecuado, Mexico, Paragoay, Urugoay, Venezuela Mercosur (thị trƣờng MERCOS Achentina, Brazil, Paragoay, Urugoay. chung Nam Mỹ) UR Hiệp định mậu dịch tự do NAFTA Mỹ, Canada, Mexico. Bắc Mỹ Khu vực mậu dịch Nam Á SAFTA Bănglađẻt, Butan, ấn độ, Manđivơ, Nêpan, Pakistan, Srilanka. Cho đến nay, đã có trên 100 liên minh thƣơng mại đƣợc ra đời, tập trung chủ yếu ở Châu Âu và Châu Mỹ. Ở Châu Á, tuy các hiệp định thƣơng mại tự do không nhiều (theo số liệu của JETRO thì có 3 liên minh, nhƣng theo WTO thì có 10 vì nó bao hàm cả các liên minh chỉ mới ký kết trên giấy tờ chứ chƣa đƣợc thực hiện), nhƣng chúng đƣợc đánh giá là thực hiện rất tích cực và đạt kết quả ban đầu đáng khích lệ. Các khối thƣơng mại tự do này có thể là do các nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển cùng thành lập nên nhƣ NAFTA, APEC, MERCOSUR, SAFTA. Cần ghi nhận thêm rằng các khối thƣơng mại tự do mới thành lập đều đƣợc định hƣớng ra thị trƣờng thế giới rộng lớn, chứ không mang tính hƣớng nội nhƣ các khối thƣơng mại đƣợc thành lập trƣớc đây. Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự phát triển liên kết thƣơng mại khu vực. Đó là: a) Sự gần gũi về địa lý: Do có sự gần gũi về địa lý, các nƣớc thành viên của khối thƣơng mại tự do hy vọng trao đổi thƣơng mại giữa họ sẽ đƣợc tăng cƣờng
  16. 14 hơn vì chi phí vận tải và viễn thông thấp hơn, đồng thời lại đáp ứng đƣợc yêu cầu muốn vƣơn ra thị trƣờng thế giới của các nhà sản xuất địa phƣơng. b) Do những nhu cầu chính trị của các nước thành viên: Các hiệp định thƣơng mại khu vực góp phần tích cực trong việc ổn định bầu không khí chính trị trong vùng và chống lại những mối đe doạ từ bên ngoài. Có thể chứng minh điều này qua những ví dụ từ thực tế. Việc tham gia vào liên minh Châu Âu đã làm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ bùng nổ chiến tranh dƣới bất kỳ dạng nào giữa Pháp và Đức. Mối hiềm khích giữa Achentia và Braxin đã đƣợc xoá bỏ khi họ tham gia vào MERCOSUR. Mối quan hệ giữa các nƣớc lớn ở vùng Châu Á- Thái Bình Dƣơng đã đƣợc cải thiện đáng kể nhờ sự ra đời và hoạt động của APEC. c) Đáp ứng nhu cầu của các nước về một thể chế thương mại đa phương trong điều kiện các vòng đàm phán của GATT/WTO chưa đạt kết quả mong đợi: Sau khi kết thúc Vòng Urugoay, mức thuế quan trung bình trên thế giới đã giảm đáng kể và các nƣớc bắt đầu chuyển sang đàm phán về việc xoá bỏ các rào cản phi quan thuế cũng nhƣ các vấn đề liên quan đến hoạt động của các thị trƣờng mở cửa nhƣ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp và thƣơng mại dịch vụ. Thế nhƣng, đàm phán về các vấn đề này không những đòi hỏi nhiều thời gian, mà trong nhiều trƣờng hợp không đạt đƣợc hiệu quả mong muốn. Trƣớc thực tế đó, các nƣớc hy vọng thông qua các hiệp định thƣơng mại khu vực, các vấn đề mà WTO đang cần giải quyết sẽ đƣợc giải quyết nhanh chóng hơn, do số lƣợng thành viên ít hơn. Không dừng lại ở đó, đa số các hiệp định thƣơng mại khu vực đƣợc hình thành hiện nay đều cố gắng đáp ứng những yêu cầu pháp lý của WTO đến mức tối đa có thể. Để đƣợc coi là có tính pháp lý theo WTO, các hiệp định khu vực cần đáp ứng ba tiêu chuẩn sau: cần phải bao hàm phần lớn thƣơng mại của các nƣớc thành viên, phải hạn chế tối đa khả năng xuất hiện các trở lực thƣơng mại mới đối với các nƣớc không phải là thành viên và phải đạt đƣợc chế độ thƣơng mại tự do sau một thời hạn nhất định (thƣờng là không quá 10 năm). Các liên minh khu vực quan trọng nhƣ EU và NAFTA đã đáp ứng rất tốt các chỉ
  17. 15 tiêu này và chúng là nền tảng của hệ thống thƣơng mại đa phƣơng sau này. Chính vì vậy, có thể nói các khối thƣơng mại tự do khu vực giữ vai trò bổ sung, chứ không phải là thay thế hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Hiện nay, với vòng đàm phán Đô ha đang diễn ra rất khó khăn và đặc biệt là sự thất bại của Hội nghị Can cun gần đây cho thấy rằng, các nƣớc phát triển và đang phát triển đã không đạt đƣợc sự đồng thuận cao trong chƣơng trình phát triển Đô ha. Điều này là do thiếu sự nỗ lực cần thiết để củng cố vai trò và hiệu quả của hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Đây là nguyên nhân chủ yếu đã thúc đẩy mạnh mẽ xu hƣớng hình thành chủ nghĩa khu vực và ra đời các FTA song phƣơng và khu vực nhƣ ACFTA, trong thời gian gần đây.{27,74} d) Là bước thử nghiệm để tham gia tự do hóa thương mại toàn cầu: Trong điều kiện thế giới chƣa sẵn sàng cho thƣơng mại tự do ở mức toàn cầu, khi tham gia một hiệp định thƣơng mại khu vực nào đó, các nƣớc thành viên có cơ hội làm quen với tự do hoá ở cấp cao hơn và từ đó có kinh nghiệm để tham gia vào hợp tác đa phƣơng. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu còn cho rằng trong phạm vi tổ chức thƣơng mại khu vực, các nƣớc thành viên có cơ hội khảo cứu và thử nghiệm các giải pháp cho các vấn đề thƣơng mại phức tạp hơn mà hệ thống thƣơng mại toàn cầu chƣa thể đề cập đến. Khi tham gia vào WTO, cũng nhƣ các tổ chức thƣơng mại khu vực, các nƣớc đang phát triển có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thƣơng mại. Hiện tại, vị thế của các nƣớc đang phát triển trong các tổ chức quốc tế nói chung và các tổ chức thƣơng mại nói riêng đã tăng lên rõ rệt. Ngày nay, không chỉ các nƣớc Mỹ và Châu Âu đƣợc lợi từ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, mà các nƣớc đang phát triển cũng bắt đầu thu lợi từ cơ chế này. Ví dụ vào tháng 8/2003, các công ty dệt may của Mỹ yêu cầu chính phủ áp dụng hạn ngạch đối với bốn chủng loại sản phẩm là đồ lót, quần áo ngủ, găng tay và sợi len. Theo Viện nghiên cứu sản xuất dệt may của Mỹ, xuất khẩu của Trung Quốc có thể khiến cho ngành công nghiệp dệt may của nƣớc này phá sản trong vòng 5 năm tới. Trung Quốc lại thuyết phục Mỹ dỡ bỏ các biện pháp bảo hộ và cũng tuyên bố sẽ
  18. 16 đƣa vụ kiện ra trƣớc WTO, đồng thời có thể trả đũa vào sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu từ Mỹ [7]. Có thể nói, các nƣớc đang phát triển đã biết tận dụng những cơ chế trong các tổ chức thƣơng mại nhằm xoá dần tình trạng bất bình đẳng giữa nƣớc lớn và nƣớc phát triển với các nƣớc đang phát triển. Đây là một trong những lý do làm cho tự do hoá thƣơng mại khu vực mở trở thành làn sóng đƣợc phát triển mạnh mẽ trên phạm vi thế giới trong những năm gần đây. Các khối liên kết thƣơng mại khu vực xuất hiện có nhiều nguyên nhân nhƣ đã trình bày ở trên và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đƣợc ra đời cũng không nằm ngoài những nguyên nhân đó. Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng nhất theo các nhà nghiên cứu thì do những nhu cầu về kinh tế và chính trị của các nƣớc thành viên đặc biệt là Trung Quốc khi muốn thể hiện vai trò bá chủ của mình trong khu vực. 1.2.2. Những yếu tố nội tại từ sự phát triển của ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN ) đƣợc thành lập vào năm 1967 với sự tham gia của năm nƣớc là Thái lan, Indonexia, Malayxia, Singapore và Philipin. Vào năm 1984, tổ chức này kết hợp thêm thành viên thứ 6 là Brunei. Bƣớc sang thập niên 90, dƣới tác động của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá trong nền kinh tế thế giới, nhu cầu mở rộng ASEAN ra toàn khu vực Đông Nam Á đã trở nên cấp thiết. Vì vậy, chỉ trong vòng 5 năm, từ 1995-1999, bốn nƣớc còn lại trong khu vực là Việt Nam, Lào, Myanma và Cămpuchia lần lƣợt trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Sự ra đời của ASEAN là do sự tƣơng đồng về vị trí địa- kinh tế, địa- chính trị... ASEAN là một khối kinh tế- thƣơng mại khu vực liên kết 10 quốc gia không đồng nhất, nếu xét về tổng thể. Với 10 thành viên, ASEAN đã trở thành một thị trƣờng khu vực rộng lớn với dân số trên 490 triệu ngƣời, diện tích gần 4,2 triệu kilômét vuông và liên kết mạnh vào nền kinh tế thế giới - xuất khẩu của toàn khối đã đạt 6,3% tổng xuất khẩu của thế giới vào năm 1996 (tỷ trọng lớn nhất so với các khối kinh tế thƣơng mại khác của các nƣớc đang phát triển ). Các nƣớc ASEAN không chỉ khác nhau về diện tích đất đai, dân số, thu nhập theo đầu ngƣời, mức tăng
  19. 17 trƣởng kinh tế và xuất khẩu (bảng 2), mà còn khác nhau về thể chế chính trị và trình độ phát triển kinh tế. ASEAN kể từ khi thành lập đã coi hợp tác kinh tế là một trong những nội dung hợp tác chủ yếu trong các hoạt động của Hiệp hội “Thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế” là ƣu tiên hàng đầu trong số các mục tiêu của Hiệp hội. Từ “Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN” thông qua năm 1976; “Tuyên bố Singapore năm 1992” và “Hiệp định khung về tăng cƣờng hợp tác kinh tế ASEAN ” thông qua năm 1992 và đến “Tầm nhìn ASEAN năm 2020” thông qua năm 1997, mục tiêu và phƣơng hƣớng hợp tác kinh tế của ASEAN có những thay đổi và điều chỉnh nhƣng nội dung hợp tác kinh tế ASEAN ngày càng đƣợc mở rộng ra các lĩnh vực và hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn. Các chƣơng trình hợp tác của ASEAN với tính cách là một cộng đồng khu vực mậu dịch tự do đƣợc thông qua nhƣ hợp tác về thƣơng mại, thoả thuận ƣu đãi thƣơng mại rồi đến khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Có thể khẳng định ASEAN coi phát triển kinh tế là một nhu cầu cấp thiết trong đó quá trình tự do hoá thƣơng mại là việc cần thiết phải tiến hành. Quan điểm ủng hộ tự do hoá thƣơng mại của các nƣớc thành viên ASEAN tiếp tục đƣợc củng cố, khi họ quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN và ủng hộ triệt để tƣ tƣởng chủ đạo của APEC về “Chủ nghĩa khu vực mở”. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã đƣợc ra đời tại Hội nghị thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ tƣ 1-1992 tại Singapore, đánh dấu một giai đoạn mới trong quá trình hợp tác kinh tế khu vực. Theo “Tuyên bố Singapore” mậu dịch tự do trong nội bộ khu vực sẽ đƣợc thực hiện vào năm 2008 và sau đó đƣợc đẩy lên sớm hơn vào năm 2003. Mục tiêu cơ bản là “tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của ASEAN nhƣ một cơ sở sản xuất quốc tế nhằm cung cấp hàng hoá ra thị trƣờng thế giới”. Sự ra đời của AFTA là phù hợp với xu thế chung của nền kinh tế thế giới, phù hợp với diễn biến tình hình chính trị và an ninh trong khu vực, đáp ứng những đòi hỏi của liên kết kinh tế khu vực trong kỷ nguyên sau chiến tranh lạnh.
  20. 18 Mặc dù ASEAN là 1 khối kinh tế- thƣơng mại khu vực liên kết 10 quốc gia không đồng nhất, nhƣng vẫn đƣợc coi là khối thƣơng mại thành công nhất trong những tổ chức liên kết kinh tế khu vực của các nƣớc đang phát triển. Sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế của các nƣớc thành viên đó chính là sự nỗ lực cải cách và hội nhập của từng nƣớc, là kết quả của đƣờng lối phát triển kinh tế đúng đắn của mỗi nƣớc thành viên. Đông Nam Á là vùng tập trung nhiều tuyến đƣờng giao thông quốc tế và ở vị trí tiếp giáp, trung chuyển giữa Phƣơng Đông và Phƣơng Tây, với vị trí nhƣ vậy, ASEAN luôn thu hút sự chú ý của các nƣớc lớn trong và ngoài khu vực. Mong muốn đƣợc phát triển ổn định và độc lập, nhiều quốc gia Đông Nam Á từ lâu đã nhận thấy rằng, cần kết thành một khối tạo nên sự gần gũi về chính trị, kinh tế giữ đƣợc độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế. Những năm gần đây các nhà lãnh đạo ASEAN càng khẳng định quyết tâm tăng cƣờng hợp tác quốc tế để nâng cao sức mạnh của nền kinh tế quốc gia, khai thác tốt những tiềm năng của khu vực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế một cách ổn định trong xu hƣớng toàn cầu. Kể từ khi thành lập, quá trình hội nhập kinh tế của các nƣớc ASEAN đƣợc tiến hành trên 30 năm. Những sự hợp tác mà ASEAN đã, đang và sẽ thực hiện không ngoài mục đích làm cho kinh tế quốc gia của từng thành viên phát triển, vấn đề việc làm và công bằng xã hội ở mỗi nƣớc đƣợc cải thiện. Hơn nữa trong điều kiện thị trƣờng ngày một khó khăn, hợp tác kinh tế ASEAN còn nhằm mục tiêu tăng khả năng cạnh tranh của mỗi nƣớc trên thị trƣờng thế giới. Qua tất cả các giai đoạn, tất cả những yếu tố: tình hình chính trị thế giới, những xu hƣớng biến động chung về mọi mặt trên toàn cầu, những sự cố chính trị của mỗi nƣớc, tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới đều có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế từng quốc gia cũng nhƣ sự hợp tác kinh tế của khu vực. Tuy thời điểm khởi đầu của AFTA về cơ bản là thuận lợi, song trong quá trình thực hiện, các nƣớc thành viên ASEAN đã gặp phải không ít khó khăn. Ban
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1