intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

23
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk từ năm 2016 đến năm 2021. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ............/........... ...../...... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ THUỶ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK, THÁNG 6 NĂM 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ............/........... ....../...... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ THUỶ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ LINH GIANG ĐẮK LẮK, THÁNG 6 NĂM 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thuỷ
  4. LỜI CẢM ƠN Việc viết Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, với sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình, trách nhiệm của thầy, cô Học viện Hành chính quốc gia, kết hợp với kinh nghiệm của bản thân trong thực tiễn công tác. Để hoàn thành được luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của tập thể, cá nhân trong và ngoài Học viện hành chính. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: Ban Giám đốc và quý Thầy, Cô thuộc Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập, hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS.Nguyễn Thị Linh Giang, công tác tại Học viện Hành chính Quốc gia là người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài cho tôi với tất cả lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc. Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn!
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT ................................................................... 6 MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ......................................................... 8 1.2. Nội dung giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án .................................................................................... 17 1.3. Những yếu tố tác động tới giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ........................................................... 24 Tiểu kết chương 1............................................................................................. 31 Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK GIAI ĐOẠN 2016-2021 .. 32 2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ..................................................................................................... 32 2.2. Tình hình giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016- 2021 .................................................................................................................. 38 Tiểu kết chương 2............................................................................................. 59 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK ................................................................................... 60
  6. 3.1. Các quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ........................................ 60 3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ............................................................................................................ 67 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk .................................................................................................................... 70 Tiểu kết chương 3............................................................................................. 85 KẾT LUẬN ......................................................................................................... . DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................
  7. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT DTTS Dân tộc thiểu số GDPL Giáo dục pháp luật HĐXX Hội đồng xét xử TAND Tòa án nhân dân
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của giáo dục trong quá trình hình thành nhân cách con người. Thấm nhuần tư tưởng của Người, công tác GDPL luôn được xác định là một nội dung quan trọng nhằm hình thành cho con người ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, phát huy vai trò, vị trí thượng tôn của pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không phải ai cũng có trình độ hiểu biết pháp luật, có điều kiện tiếp cận quy định pháp luật và có ý thức tuân theo pháp luật như nhau. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra là phải đưa pháp luật thật sự đi sâu, đi sát vào trong thực tế đời sống xã hội, biến các quy phạm pháp luật trở thành nhân tố thường trực trong nhận thức, hành động của mỗi công dân. Theo đó, vấn đề GDPL cho người dân nói chung, cho đồng bào DTTS nói riêng trở nên vô cùng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [11]. Cùng với các biện pháp GDPL của các cơ quan nhà nước khác nhau, hoạt động GDPL thông qua hoạt động xét xử của TAND là một bộ phận không thể thiếu để đạt được hiệu quả GDPL. Trong hoạt động tư pháp, xét xử được coi là khâu trung tâm, bởi hoạt động xét xử bao giờ cũng gắn với việc Tòa án nhân danh Nhà nước ra một quyết định, một bản án bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; giáo dục công dân tuân thủ pháp luật. Tòa án có thể thực hiện việc GDPL bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng nhất vẫn là giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử. 1
  9. Trong những năm qua, việc GDPL cho người dân nói chung, GDPL cho đồng bào DTTS nói riêng thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk nhằm triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của người dân. Tuy nhiên, có nhiều lúc, nhiều nơi, công tác này còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, mang tính hình thức, đối phó, thiếu tính thường xuyên, liên tục nên hiệu quả không cao; ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Krông Búk còn chậm được cải thiện, chưa tương xứng với những thay đổi và phát triển mạnh mẽ của hệ thống pháp luật, đặt ra nhiều vấn đề về đảm bảo an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Thực tiễn công tác ở TAND huyện Krông Búk những năm qua cho thấy, phần lớn đồng bào DTTS do những hạn chế về kiến thức và hiểu biết pháp luật, nên không ít người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hoặc rơi vào tình trạng tranh chấp các quyền và nghĩa vụ, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Từ những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài "Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn tốt nghiệp, nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk từ năm 2016 đến năm 2021. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2
  10. Dưới góc độ khoa học, thời gian qua việc nghiên cứu vấn đề GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của Tòa án cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số công trình nghiên cứu được công bố như: - Nhóm các luận án, luận văn: Nguyễn Đình Lộc (1987), Ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học; Hồ Quốc Dũng (1997), Công tác tuyên truyền, GDPL ở nước ta - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học; Dương Thanh Mai (1996), GDPL qua hoạt động tư pháp (bằng thực tiễn của tòa án và luật sư), Luận án Phó tiến sĩ luật học; Đinh Công Sỹ (2006), Phổ biến, GDPL cho thanh thiếu niên DTTS người Tây Bắc, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ luật học; Phạm Hàn Lâm (2001), GDPL cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắc Lắk - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ luật học… - Nhóm các tài liệu là sách chuyên khảo, tạp chí, giáo trình, bài viết, hội nghị, hội thảo: Ngọ Văn Nhân (2012), GDPL hay giáo dục ý thức pháp luật?, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 (295)/2012; Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về GDPL, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Chương XVIII- Ý thức pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1995), Một số vấn đề GDPL ở miền núi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vụ Phổ biến Pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về GDPL trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh niên, Hà Nội; Nguyễn Duy Lãm (chủ biên, 1997), Một số vấn đề về phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Thanh niên, Hà Nội; Hồ Việt Tiệp (2000), Xã hội hóa công tác phổ biến, GDPL trong tình hình mới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9/2000, Hà Nội; Nguyễn Thị Tĩnh (2013), GDPL trong hoạt động thu thập chứng cứ tại Tòa án, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4/2013… Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây, có thể khẳng định rằng, đã có những công trình nghiên cứu ở mức độ nhất định về GDPL thông qua hoạt 3
  11. động xét xử của tòa án. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nêu trên có phạm vi nghiên cứu rộng, còn thiếu vắng những nghiên cứu có hệ thống và chuyên biệt về tổ chức thực hiện GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của tòa án từ thực tiễn tại huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk; một vài công trình nghiên cứu dựa trên những quy định của các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực nên đã không còn phù hợp. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài Luận văn Thạc sĩ “Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” vẫn là một nội dung mang tính mới, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk từ năm 2016 đến năm 2021. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về GDPL và GDPL thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. - Phân tích thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk từ năm 2016 - 2021. - Nêu quan điểm và đề xuất một số giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 4
  12. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. - Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2021. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: - Phương pháp thu thập thông tin, tài liệu: được sử dụng hữu hiệu khi thu thập những thông tin làm cơ sở khoa học phân tích đánh giá về công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Phương pháp này được sử dụng để thu thập, khai thác, tổng hợp thông tin từ các nguồn tư liệu đã có sẵn có liên quan đến các nội dung mà đề tài nghiên cứu. - Phương pháp tổng hợp: là phương pháp liên quan kết những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được thành một chỉnh thể để tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. 5
  13. - Phương pháp thống kê: thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định. - Phương pháp phân tích: là phương pháp phân tích thành những mặt, những bộ phận, những mối quan hệ theo từng khía cạnh cụ thể để nhận thức, phát hiện và khai thác các khía cạnh khác nhau của lý thuyết từ đó chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu. - Phương pháp so sánh: là một thủ tục có hệ thống tương phản của một hoặc nhiều hiện tượng, thông qua đó tìm cách thiết lập sự tương đồng và khác biệt, để có thể nêu bật lên được những điểm mạnh trong luận văn. - Phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu có sẵn để thu thập các số liệu thực tế từ các hoạt động của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk phục vụ cho việc đánh giá thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của Tòa án và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đề xuất. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Luận văn cung cấp, bổ sung thêm các vấn đề lý luận, góp phần làm phong phú và hoàn thiện thêm lý luận về công tác GDPL nói chung, GDPL cho đồng bào DTTS nói riêng thông qua hoạt động xét xử của TAND nói chung, TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk nói riêng; - Làm rõ thực tiễn GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk từ năm 2016 - 2021; - Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm đảm bảo tổ chức GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của TAND huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk; - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học; phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác GDPL thông qua hoạt động xét xử của 6
  14. Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016-2021. Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. 7
  15. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử 1.1.1. Các khái niệm 1.1.1.1. Giáo dục pháp luật Theo Từ điển Bách khoa, giáo dục là “Quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người” [1, tr.120]. Theo định nghĩa của Đại Từ điển tiếng Việt, giáo dục là “Tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [2, tr.734]. Có thể hiểu, giáo dục là một quá trình có chủ đích, có phương pháp để truyền tải những thông tin, kiến thức tác động đến hiểu biết, nhận thức, tình cảm của đối tượng được giáo dục. Tùy từng lĩnh vực giáo dục cụ thể mà hình thành nên khái niệm giáo dục tương ứng như giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa, giáo dục quốc phòng, giáo dục thể chất, giáo dục công dân, GDPL... Về khái niệm GDPL, hiện nay nhiều ý kiến khác nhau. Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa: “GDPL là sự tác động định hướng của tổ hợp các quá trình xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, tuyên truyền, giải thích pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật” [1, tr.124]. Theo Giáo trình lý luận về Nhà nước và pháp luật của một số cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật trong nước, GDPL được định nghĩa: “GDPL là hoạt động có định hướng, có mục đích trang bị kiến thức pháp luật, nhằm hình thành ở đối tượng được giáo dục những tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với yêu cầu của 8
  16. pháp luật” [3, tr. 106] hoặc “GDPL là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật” [3, tr. 452]. Hai hướng tiếp cận này có điểm chung khi xác định mục tiêu của GDPL. Theo nghĩa rộng, GDPL được coi là một bộ phận, một phần của hệ thống giáo dục nói chung, là một hoạt động có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương hỗ với các hệ thống con khác như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức... tạo nên một hệ thống các quan hệ xã hội tác động đến cá nhân, làm hình thành nên bản chất lịch sử - xã hội của con người [6, tr. 28]. Theo nghĩa hẹp, GDPL là quá trình tác động (hoạt động) có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà giáo dục (chủ thể GDPL) để chuyển tải, truyền đạt những nội dung (thông tin, tri thức về các bộ luật, đạo luật…) thông qua các phương pháp giáo dục khoa học và hình thức giáo dục phù hợp tới đối tượng tiếp nhận GDPL nhằm đạt được những mục tiêu, hiệu quả giáo dục nhất định [7, tr. 71-72]. Xét mối quan hệ giữa GDPL với tuyên truyền pháp luật và phổ biến pháp luật: Tuyên truyền pháp luật có nội hàm hẹp hơn GDPL. GDPL bao gồm nhiều hình thức và có tính thường xuyên, liên tục, mang tính chất là một quá trình trên các quy mô khác nhau, đa dạng về chủ thể và nội dung, phương pháp. Tuyên truyền pháp luật, phổ biến pháp luật là một trong những hình thức cơ bản của GDPL. Ngoài phương diện tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phạm trù GDPL còn bao hàm các hình thức khác như đào tạo, bồi dưỡng, giảng dạy, tập huấn, tiếp cận pháp luật ở các cấp độ nhất định. Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm GDPL như sau: GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích do các chủ thể có chức năng, nhiệm vụ GDPL tiến hành thông qua các phương pháp, hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng nhằm truyền tải kiến thức pháp 9
  17. luật, từ đó hình thành ý thức pháp luật, tình cảm, niềm tin về pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành. 1.1.1.2. Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, “có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [38]. Trong hoạt động tư pháp, xét xử được coi là khâu trung tâm có vai trò quyết định. Tòa án có thể thực hiện việc GDPL bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng nhất vẫn là giáo dục qua hoạt động xét xử. Góc độ tiếp cận thứ nhất, xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án [18, tr112]. Góc độ tiếp cận thứ hai, xét xử cũng được hiểu theo nghĩa là một giai đoạn tố tụng quan trọng được tiến hành dưới hình thức phiên toà nhằm xem xét, phán xét, nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết theo trình tự luật định những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án [42, tr.147]. Trong hoạt động tư pháp, xét xử được coi là khâu trung tâm có vai trò quyết định. Tòa án có thể thực hiện việc GDPL bằng nhiều hình thức, nhưng tập trung nhất và quan trọng nhất vẫn là giáo dục qua hoạt động xét xử. Hoạt động xét xử của Tòa án là quá trình áp dụng pháp luật, được tiến hành theo một trình tự thủ 10
  18. tục tố tụng nhất định, hoạt động xét xử gắn với việc Tòa án nhân danh Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết để giải quyết các cáo buộc và tranh chấp pháp lý nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Có thể hiểu, GDPL trong hoạt động xét xử của Tòa án: Là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức và có kế hoạch của các chủ thể tiến hành tố tụng trong quá trình xét xử đến các đối tượng được giáo dục, giúp hình thành ở họ ý thức xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng các dân tộc khác nhau trên lãnh thổ nhiều nhất trên thế giới với 54 dân tộc anh em. Trong đó 54 dân tộc mang 54 màu sắc văn hóa khác nhau, tạo lên sự phong phú, đa dạng cho đất nước. Trong số 54 dân tộc anh em thì có những nhóm dân tộc đặc trưng mà thường được gọi tên là DTTS. Hiện nay khái niệm DTTS được định nghĩa tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc như sau: “DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[7]. Như vậy, DTTS là những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dân số cả nước, đa số các DTTS đều tập trung sinh sống ở những khu vực giáp biên giới, vùng sâu vùng xa, có điều kiện kinh tế khó khăn, vấn đề giáo dục, chăm sóc sức khỏe người dân còn nhiều hạn chế. Từ những nhận định trên, có thể đưa ra một khái niệm chung về GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án như sau: GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của Tòa án là việc Toà án thông qua các thủ tục tố tụng trước phiên toà, tại phiên toà và sau phiên toà thực hiện một cách có tổ chức, có chủ định việc cung cấp cho các đối tượng là đồng bào DTTS những tri thức, hiểu biết cụ thể về các vấn đề pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử đang được tiến hành, giúp hình thành ở đối tượng ý thức trách nhiệm, trạng thái tâm lý, tình cảm pháp luật đúng đắn, tạo cơ sở cho hành vi xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của chính hoạt 11
  19. động xét xử của Tòa án. 1.1.2. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua hoạt động xét xử của Tòa án GDPL thông qua hoạt động xét xử của Tòa án vừa có những đặc điểm của GDPL nói chung vừa có những đặc trưng riêng. Thứ nhất, chủ thể GDPL là những người tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Theo đó, cùng với Thẩm phán và các thành viên trong hội đồng xét xử, còn có các chủ thể khác như Kiểm sát viên, Thư ký tòa án, Luật sư… cũng giữ vai trò giáo dục pháp luật đến đồng bào DTTS tại phiên tòa xét xử. Theo đó, chủ thể GDPL bên cạnh kiến thức, trình độ chuyên môn đòi hỏi phải hiểu biết ngôn ngữ, văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người đồng bào DTTS, cũng như thuần thục các kỹ năng làm việc với đồng bào DTTS. Vai trò GDPL chủ yếu do Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình phổ biến quyền và nghĩa vụ, xét hỏi, tranh luận và ra bản án, quyết định giải quyết vụ án, vụ việc. Trong quá trình xét xử, bên cạnh việc tác động đến bị cáo, khiến bị cáo nhận ra lỗi lầm và mong muốn được sửa chữa lỗi lầm, ăn năn, hối cải; đồng thời còn phải tác động đến ý thức và hành vi đến tất cả những người tham dự phiên toà, hình thành cho họ tinh thần thượng tôn pháp luật và tinh thần đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm. Thứ hai, đối tượng của GDPL là đồng bào DTTS, bao gồm những người tham gia tố tụng (bị cáo, người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người khởi kiện, người bị kiện) và những người theo dõi phiên toà (trực tiếp tại Tòa án hay gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng). Thông qua hoạt động xét xử, giúp các đối tượng nêu trên hình thành hiểu biết sâu sắc và rõ ràng hơn về những quy định của pháp luật; có thể tự đánh giá về hành vi và trách nhiệm pháp lý của mình, từ đó hình thành những cảm xúc về sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật và sự tôn trọng công lý. Từ đó giúp đồng bào DTTS định hướng hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật (cụ thể là phù hợp với những bản án, 12
  20. quyết định đúng đắn của hội đồng xét xử), nhờ đó mà phát huy tác dụng phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hoạt động GDPL thông qua hoạt động xét xử. Thứ ba, phương pháp, hình thức tổ chức thực hiện GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Việc GDPL có thể thực hiện thông qua hoạt động xét xử các vụ việc dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động hoặc thông qua phiên tòa xét xử các vụ án hình sự (phiên tòa xét xử tại tòa án và phiên tòa xét xử lưu động). Theo đó, phương pháp GDPL thông qua hoạt động xét xử của TAND có thể sử dụng các phương pháp như: Phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật; Phương pháp thông tin pháp luật; Phương pháp trao đổi về pháp luật; Phương pháp nêu các vụ án điểm, các vụ án điển hình; Phương pháp kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa diễn giải pháp luật và phân tích thực tiễn thông qua trực quan sinh động… Hình thức GDPL thông qua hoạt động xét xử có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: Tuyên truyền miệng về pháp luật ngay tại phiên tòa; Hình thức GDPL thông qua các phương tiện truyền thông; Hình thức phát tài liệu GDPL ngay tại phiên tòa; Hình thức các phiên tòa lưu động; Tổ chức các phiên tòa giả định… Thứ tư, GDPL cho đồng bào DTTS thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án là hình thức GDPL tổng hợp, trực tiếp của nhiều loại hình. GDPL trong hoạt động xét xử của Tòa án được coi là hình thức GDPL đi từ trực quan sinh động. Theo đó, hoạt động xét xử của Tòa án có sự tổng hợp các hình thức GDPL như: Giáo dục qua hình ảnh (sự trang nghiêm của phiên tòa, trình tự thủ tục tố tụng...); GDPL qua lời nói (Thông qua quá trình giải quyết các vụ việc tại tòa án khi tiến hành hòa giải, xét xử..); GDPL qua các bài viết là các văn bản tố tụng (cáo trạng của Viện kiểm sát, công bố các chứng cứ có tại hồ sơ, phán quyết của Tòa án thể hiện khi ban hành Bản án, Quyết định); GDPL bằng chính thái độ, hành động, tình cảm của thẩm phán, Hội thẩm và kiểm sát viên trong quá trình xét xử… 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2