Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình
lượt xem 3
download
Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quyền và bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật. Tìm hiểu thực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Từ đó đề xuất những biện pháp khả thi nhằm bảo đảm tốt nhất những quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... ......../....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÙNG THỊ LOAN QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... ......../....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÙNG THỊ LOAN QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.TRẦN THỊ DIỆU OANH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung cũng như những số liệu trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018 Học viên Phùng Thị Loan
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ, bên cạnh sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô Học viện Hành chính quốc gia, sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Lời đầu tiên tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến TS. Trần Thị Diệu Oanh đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn đến toàn thể quý thầy cô Học viện Hành chính quốc gia Hà Nội và phân viện Miền Trung; cô giáo chủ nhiệm lớp LH3 - T2 đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, và hoàn thiện đề tài luận văn thạc sĩ. Học viên Phùng Thị Loan
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT ............................................................................................. 7 1.1. Trẻ em khuyết tật..................................................................................... 7 1.2. Quyền của trẻ em khuyết tật .................................................................... 16 1.3. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền của trẻ em khuyết tật .... 26 1.4. Các bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật .............................................. 30 Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 38 Chương 2. THỰC TRẠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT VÀ QUYỀN TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................... 39 2.1. Thực trạng trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình .................................... 39 2.2.Thực trạng quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình ........................... 41 2.3. Đánh giá chung về quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình .............. 73 Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 80 Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TRẺ EM KHUYẾT TẬT Ở TỈNH QUẢNG BÌNH .................................................. 81 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình ........... 81 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình ....... 85 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 106 KẾT LUẬN ............................................................................................... 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ được viết tắt CRPD Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật CRC Công ước về quyền trẻ em
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số lượng học sinh khuyết tật ở Trung tâm nuôi dạy trẻ khuyết tật Quảng Trạch từ năm học 2013 -2014 đến năm học 2017 – 2018. ................. 44 Bảng 2.2: Số lượng trẻ khuyết tật ................................................................. 47 được phổ cập giáo dục bậc mầm non năm 2016 ........................................... 47 Bảng 2.3: Số lượng trẻ khuyết tật được phổ cập giáo dục bậc tiểu học năm 2016 ............................................................................................................. 48 Bảng 2.4: Số lượng trẻ khuyết tật được phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở năm 2016...................................................................................................... 49 Bảng 2.5: Số lượng trẻ em khuyết tật thuộc địa bàn quản lý của Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình...... 60 Bảng 2.6: Số lượng trẻ em khuyết tật tham gia phục hồi chức năng tại Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình 61 Bảng 2.7: Bảng thống kê trang thiết bị của Trung tâm phục hồi chức năng trẻ khuyết tật huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình ........................................... 62 Bảng 2.8: Bảng thống kê về mức độ tiếp cận nhà ở, trụ sở cơ quan nhà nước, công trình xây dựng của người khuyết tật năm 2016 .................................... 69 Bảng 2.9: Bảng thống kê mức độ đáp ứng về giao thông tiếp cận cho người khuyết tật năm 2016 ..................................................................................... 70 Bảng 2.10: Bảng thống kê mức độ đáp ứng về công nghệ thông tin- truyền thông cho người khuyết tật năm 2016........................................................... 72
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là nền tảng phát triển của xã hội. Vì thế bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em hôm nay chính là chúng ta đang tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai. Các em cần được sống trong môi trường sống an toàn, lành mạnh để có thể phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Hơn nữa, trẻ em rất cần được quan tâm, dạy dỗ và giáo dục vì tâm sinh lý các em chưa hoàn thiện, nhân cách chưa được định hình rõ ràng và đầy đủ. Hơn ai hết, đây là đối tượng dễ bị tổn thương và cần được bảo vệ. Trong đó, trẻ em khuyết tật là đối tượng cần được quan tâm hơn, vì những thiếu thốn và thiệt thòi mà các em phải gánh chịu. Sau khi tham gia ký kết các điều ước quốc tế về quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng, đặc biệt là Công ước về Quyền của trẻ em năm 1989 và Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006 của Liên hợp quốc, Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các quy định của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền của trẻ em khuyết tật vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, đồng thời đẩy mạnh triển khai, thực thi chính sách bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật. Theo quy định tại Lời nói đầu của Công ước quốc tế về Quyền của người khuyết tật rằng thừa nhận rằng trẻ khuyết tật cần được hưởng đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của con người một cách bình đẳng với các trẻ em khác,pháp luật Việt Nam quy định trẻ em khuyết tật ở nước ta được hưởng các quyền cơ bản như những trẻ em khác.Không những thế, xuất phát từ những đặc điểm về tình trạng khuyết tật, các em còn được hưởng các chính sách ưu đãi nhằm bù đắp những thiệt thòi mà các em phải gánh chịu vì những lý do khác nhau, nhằm bảo đảm cho các em được bình đẳng và được đối xử như mọi công dân trong xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, trẻ em khuyết gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc 1
- sống: học tập, vui chơi, kỳ thị... Những khó khăn đó tác động qua lại lẫn nhau, là nguyênnhân và kết quả của nhau do vậy chúng tạo thành một vòng luẩn quẩn cho trẻ em khuyết tật. Tâm lý của trẻ em khuyết tật là mặc cảm, tự đánh giá thấp bản thân mình so với những đứa trẻ bình thường khác. Các em rất nhạy cảm hay mặc cảm ngoại hình, không muốn vươn lên, vượt qua và hòa nhập. Trong đó, sự phân biệt đối xử của cộng đồng là nguyên nhân chính làm cản trở trẻ em khuyết tật có cuộc sống tốt đẹp. Cản trở lớn nhất với trẻ em khuyết tật là sự kỳ thị, đặc biệt là sự kỳ thị từ chính những người thân của mình. Nó là rào cản vô hình làm cho trẻ khuyết tật ngày càng bị đẩy xa hơn cuộc sống đời thường. Bên cạnh đó, trẻ em khuyết tật còn có nguy cơ bị bạo hành, ngược đãi, bóc lột, bị đối xử vô trách nhiệm, trong khi đó việc tiếp cận với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp phápcòn hạn chế. Theo kết quả nghiên cứu trẻ em khuyết tật có nguy cơ trở thành nạn nhân của bạo lực cao gấp 3-4 lần, nguy cơ bạo hành về thể chất cao hơn 3,6 lần, nguy cơ bạo hành về tình dục cao hơn 2,9 lần so với trẻ không khuyết tật. Có thể thấy, trẻ em khuyết tật thực sự phải đối diện với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, phải vượt qua rất nhiều rào cản để có cơ hội được hòa nhập và được hưởng trọn vẹn những quyền vốn có của mình. Trẻ em khuyết tật là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất, dễ bị tổn thương nhất và là đối tượng yếu thế nhất trong xã hội. Với những trở ngại mà trẻ khuyết tật đang phải đối diện, trẻ khuyết tật rất cần được thái độ tôn trọng, không kỳ thị của mọi người để có thể tự tin và vui sống hơn; được quan tâm, chia sẻ và được bảo vệ bởi sự chung tay của toàn xã hội. Trong thời gian qua, quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình đã được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội và cộng đồng. Tuy nhiên vẫn còn một số quyền của trẻ khuyết tật nhưng chưa được thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả. Đây là vấn đề mang tính thời sự chính trị và nhân văn sâu sắc trong xã hội hiện nay song sự quan tâm của cộng đồng 2
- vẫn còn hạn chế. Nhằm nghiên cứu làm rõ thực trạng quyền trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình, từ đó đề xuất những biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình đồng thời giúp trẻ em khuyết tật nhận thức đầy đủ về quyền của mình, xoá bỏ những mặc cảm trong cuộc sống, vươn lên khẳng định mình và hòa nhập với cộng đồng, tác giả chọn vấn đề "Quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình" làm đề tài luận văn thạc sỹ. Nghiên cứu này giúp nâng cao nhận thức về quyền của trẻ em khuyết tật, trách nhiệm của mỗi người và xã hội trong việc bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật nói chung và quyền trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, đề tài quyền của người khuyết tật là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ quan tâm. Tuy nhiên, nghiên cứu về trẻ em khuyết tật, đặc biệt là quyền về trẻ em khuyết tật chưa nhiều và chưa thực sự nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Ở nước ta, trong những năm qua, có một số công trình liên quan nghiên cứu về Quyền của người khuyết tật, tiêu biểu như sau: Về đề tài nghiên cứu khoa học có đề tài “Hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương” của Hoàng Thị Kim Quế thực hiện năm 2010. Về sách có “Luật Quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương” của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2011; sách “Bảo trợ xã hội cho những nhóm người thiệt thòi ở Việt Nam” của nhóm tác giả Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung, Robert Leroy Bach xuất bản năm 2005. Về báo cáo có “Quyền của trẻ em khuyết tật tại Việt Nam – Đưa luật 3
- pháp của Việt Nam phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền của người khuyết tật” của tác giả Eric Rosenthal thực hiện năm 2009, báo cáo “Về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật tại Việt Nam” của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam NCCD năm 2010, báo cáo “Phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam” do UNICEF xây dựng dưới sự cộng tác với Chính phủ Việt Nam về quyền trẻ em năm 2010. Về luận văn có đề tài “Bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở Việt Nam hiện nay” của Trần Thị Huyền Trang thực hiện năm 2014 nghiên cứu về thực trạng và các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Về luận án có đề tài “Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay” của Tăng Thị Huyền Trang thực hiện năm 2016 nghiên cứu về thực trạng và các giải pháp bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay. Những đề tài trên đã có những đóng góp lớn cho việc nghiên cứu và thực hiện quyền trẻ em khuyết tật tại Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu nào về quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình trong thời điểm hiện tại là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đề tài sẽ góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu về lĩnh vực này, đồng thời, bổ sung thêm kiến thức về bảo đảm quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quyền và bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật. Tìm hiểu thực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Từ đó đề xuất những biện pháp khả thi nhằm bảo đảm tốt nhất những quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình. 4
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền và bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật bao gồm khái niệm, đặc điểm, các quyền trẻ em khuyết tật, các bảo đảm quyền trẻ em khuyết tật, nghiên cứu quy định pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về quyền trẻ em khuyết tật. Nghiên cứuthực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình. Đánh gía những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân. Đề ra các giải pháp khả thi nhằm bảo đảm tốt nhất những quyền cơ bản của trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quyền của trẻ em khuyết tật. Phạm vi nghiên cứu: Về mặt không gian, luận văn nghiên cứu về quyền trẻ em khuyết tật tại tỉnh Quảng Bình. Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ năm 2013 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chung: Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền của người khuyết tật nói chung và của trẻ em khuyết tật nói riêng ở Việt Nam và trên thế giới. Phương pháp nghiên cứu riêng: phân tích, tổng hợp, xã hội học, thống kê, so sánh, đánh giá… để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền của trẻ em khuyết tật. 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu này giúp nâng cao hiểu biết của các thành viên trong xã hội về thực trạng quyền trẻ em khuyết tật tại Quảng Bình, qua đó giúp cộng đồng nhận thức đúng đắn về hoạt động an sinh xã hội cụ thể cho đối tượng trẻ em khuyết tật Quảng Bình, thúc đẩy các cơ quan ban ngành có thẩm quyền tại Quảng Bình thực thi các chính sách về quyền trẻ em khuyết tật một cách tốt nhất;kêu gọi giúp đỡ, tài trợ từ cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, qua đó giúp trẻ em khuyết tật có cơ hội hòa nhập cuộc sống. Đề tài khoa học khi hoàn thiện sẽ là một sản phẩm có giá trị về cả lý luận và thực tiễn. Đề tài có thể áp dụng được trong nhiều lĩnh vực của xã hội như giáo dục, an sinh xã hội.. làm tiền đề cho nhiều nghiên cứu khác có mục đích tương tự. Các trung tâm trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình và những nơi có điều kiện tương tự cũng như chính quyền địa phương có thể tham khảo để tổ chức các hoạt động bảo đảm cũng như góp phần thực hiện chính sách bảo đảm quyền cho trẻ em khuyết tật. 7. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm các chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền của trẻ em khuyết tật. Chương 2: Thực trạng trẻ em khuyết tật và quyền của trẻ em khuyết tật ở tỉnh Quảng Bình Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật ở Quảng Bình 6
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT 1.1. Trẻ em khuyết tật 1.1.1. Khái niệm trẻ em Trong xã hội, trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong điều kiện tốt nhất là nhiệm vụ của toàn xã hội và là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước. Hơn nữa trẻ em là một trong những đối tượng yếu thế nhất cần phải được quan tâm đầu tư. Do đó việc xác định đối tượng nào được gọi là trẻ em là cơ sở để thực hiện và phát huy sự quan tâm đó. Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1 Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 (Convention on the Rights of the Child – CRC) - văn kiện quốc tế cơ bản, toàn diện nhất về trẻ em tính đến thời điểm này quy định: “Trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Tại Điều 2 trong Công ước số 182 – Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: “Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ được áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi. Như vậy có thể khẳng định Công ước đã căn cứ vào độ tuổi để đưa ra khái niệm trẻ em. Tuy nhiên quy định này của Công ước là quy định mang tính mềm dẻo, tức là quy định về độ tuổi này không phải áp dụng bắt buộc cho tất cả các quốc gia thành viên mà tùy vào điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của mỗi nước sẽ có những quy định khác nhau về khái niệm trẻ em (quy định độ tuổi trẻ em sớm hơn). 7
- Và để làm rõ khái niệm trẻ em, ngay trong lời nói đầu của Công ước đã nêu rõ “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Theo đó, trẻ em là những người có đầy đủ các điều kiện sau: Một là, trẻ em phải là người còn non nớt về thể chất và trí tuệ; Hai là, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt (kể cả về mặt pháp lý) Ba là, trẻ em là người dưới 18 tuổi. Việt Nam là nước chính thức đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Trên cơ sở quy định của Công ước, Việt Nam đã tiến hành nội luật hóa các quy định của Công ước về quyền trẻ em trong các văn bản pháp luật quốc gia về quyền trẻ em, trong đó có khái niệm về trẻ em. Theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2017 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Như vậy, quy định về độ tuổi được coi là trẻ em trong pháp luật nước ta thấp hơn 2 tuổi so với quy định trong Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, đây không bị coi là trái với CRC vì Điều 1 Công ước này cho phép các quốc gia thành viên quy định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi. Ngoài ra, liên quan đến trẻ em, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Với quy định này có thể hiểu rằng, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa trưởng thành và cũng có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi vẫn là trẻ em. Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Theo quy định trên thì người lao động có thể là người chưa thành niên, nói cách khác có thể vẫn còn là trẻ em. Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có khái niệm đầy đủ về trẻ em cũng như chưa có điều khoản quy định thống nhất về độ tuổi của trẻ 8
- em. Tuy nhiên trẻ em là đối tượng được hưởng mọi quyền được quy định tại Công ước về quyền trẻ em mà không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, địa vị, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tương quan khác. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ và bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về mọi vấn đề liên quan đến bản thân mình. Bên cạnh đó, có thể ngầm hiểu rằng khái niệm trẻ em trong pháp luật Việt Nam hẹp hơn khái niệm người chưa thành niên, bởi người chưa thành niên bao gồm cả trẻ em và những người từ đủ 16tuổi đến dưới 18 tuổi. 1.1.2. Khái niệm trẻ em khuyết tật Công ước nhân quyền đầu tiên của thế kỷ thứ 21, Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD), đã được Liên hợp quốc thông qua vào ngày 13 tháng 12 năm 2006 và có hiệu lực từ ngày 4 tháng 5 năm 2008. Từ đó đến nay, công ước đã được mau chóng công nhận khắp nơi trên thế giới. Đến thời điểm ngày 1 tháng 12 năm 2009, đã có 143 quốc gia ký vào CRPD và 74 quốc gia đã phê chuẩn thực hiện. Khi một nước “phê chuẩn” hay “tham gia vào” công ước, nước đó đã chấp nhận công ước là luật ràng buộc. Ký kết vào công ước là bước đầu tiên tiến đến phê chuẩn, việc đó thể hiện một cam kết chính trị là quốc gia sẽ không hành động trái ngược và có hại tới tới “đối tượng và mục đích” của công ước. Để chuẩn bị cho việc phê chuẩn, Cao ủy Liên hợp quốc kiến nghị cần phải rà soát cả luật pháp và cả chính sách xem có tuân thủ với CRPD hay không. Trong cố gắng đó, Cao ủy Liên hợp quốc kiến nghị rằng các chính phủ nên bàn thảo với xã hội dân sự, kể cả các tổ chức đại diện cho người khuyết tật. Trên cơ sở phê duyệt CRPD, các cơ quan nhà nước không chỉ có nghĩa vụ chấm dứt những cách làm có tính chất phân biệt đối xử người khuyết tật, mà còn khẳng định chắc chắn nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cần 9
- thiết cho người khuyết tật để họ tham gia và xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người không bị khuyết tật. Công ước CRPD rút ra nhiều kinh nghiệm quốc tế để khuyến khích áp dụng những các thực hiện hay và hỗ trợ các quốc gia thành viên chú trọng đến các bước họ cần thực hiện để bảo đảm bảo vệ nhân quyền và để người khuyết tật được tham gia đầy đủ vào xã hội. CRPD cũng đòi hỏi các chính phủ không chỉ chuyển đổi luật pháp, chính sách và cách làm mà còn phải tăng cường thực hiện. CRPD công nhận rằng các quốc gia có quyền “thực hiện liên tục dần” những quyền con người đó sau một thời gian. Luật pháp về nhân quyền quốc tế, tuy thế, đòi hỏi rằng các quốc gia thành viên áp dụng các chính sách ngay lập tức để đặt quốc gia lên con đường tiến lên thực hiện đầy đủ những quyền đó. Bản thân văn bản CRPD không có định nghĩa khuyết tật, nhưng đó là để áp dụng cho “những người khiếm khuyết lâu ngày về thể chất, thần kinh, trí tuệ hoặc các giác quan mà khi tác động tương hỗ với những rào cản khác nhau có thể gây cản trở cho việc tham gia hiệu quả và đầy đủ vào xã hội, trên cơ sở bình đẳng với những người khác.” CRPD đặc biệt loại ra mô hình y tế về khuyết tật coi một người khuyết tật là một bệnh nhân cần điều trị hoặc cần từ thiện. Thay vào đó, CRPD công nhận “mô hình xã hội” của khuyết tật. Theo mô hình xã hội này, khuyết tật là một phần của trải nghiệm nhân loại; khuyết tật tự nó không giảm bớt quyền của trẻ em và người lớn được lựa chọn và kiểm soát cuộc đời mình, được sống và được dịch vụ trong một môi trường hòa nhập, được tham gia đầy đủ và đóng góp cho cộng đồng của mình thông qua kết nhập và hòa nhập đầy đủ vào dòng chảy cuộc sống về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và giáo dục. Hơn thế nữa, mô hình xã hội, như CRPD thừa nhận, đặt trách nhiệm lên toàn xã hội (chứ không phải lên cá nhân người khuyết tật) phải tháo dỡ những rào cản thái độ đang “làm khuyết tật” những 10
- con người có chút khiếm khuyết và cản trở họ thực hiện quyền của họ, cản trở họ hòa nhập đầy đủ vào xã hội. Bằng việc ký kết CRPD, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định cam kết của mình là đưa luật pháp và tập quán quốc gia phù hợp với Công ước quốc tế về người trong công tác chuẩn bị đệ trình CRPD cho Quốc hội để phê chuẩn. Như vậy, Việt Nam đã bắt đầu soạn thảo luật để đưa quốc gia mình vào tuân thủ với CRPD. Luật Người khuyết tật được ban hành là một trong những minh chứng cho nỗ lực thực hiện cam kết của Việt Nam. Tại khoản 1, Điều 2, Luật Người khuyết tật 2010 khẳng định khái niệm người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Như vậy, trên cơ sở khái niệm về người khuyết tật nói chung thì có thể thấy trẻ em khuyết tật cũng được coi là người khuyết tật nhưng hẹp hơn khái niệm về người khuyết tật vì bị giới hạn ở độ tuổi dưới 16 và được coi là đối tượng thiệt thòi nhất. Từ đó có thể đưa ra khái niệm trẻ em khuyết tật là những người từ 0 đến 16 tuổi bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. 1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khuyết tật ở trẻ 1.1.3.1. Nguyên nhân do môi trường sống Một là, do môi trường sống bị ô nhiễm. Môi trường sống có tác động rất lớn đến chất lượng cuộc sống của con người, trong đó trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Cơ thể trẻ con đang trong quá trình hình thành, phát triển, vì thế các tế bào non nớt của chúng rất dễ tiếp thu các chất độc hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Thậm chí chúng dễ bị tổn thương nhất ngay từ giai đoạn phôi thai, kể cả với những phụ nữ khỏe mạnh nhưng nếu sống trong môi 11
- trường độc hại vẫn có thể sinh con bị mắc nhiều bệnh lý khác nhau, dẫn đến tình trạng khuyết tật của trẻ. Hai là, do ảnh hưởng của chiến tranh, tàn tích của các loại vũ khí cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng khuyết tật ở nhiều nước trên thế giới. Như ở Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nhất là khi Mỹ rải thuốc diệt cỏ chứa chất độc đioxin đã ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, và gây ra tình trạng khuyết tật ở những đứa trẻ được sinh ra từ bố mẹ từng bị phơi nhiễm chất độc này. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố khác của môi trường sống như: đói nghèo, bệnh tật chưa chấm dứt; sử dụng thuốc chữa bệnh bữa bãi gây nhiễm độc; thay đổi chế độ ăn uống và hoàn cảnh sống; các bệnh xã hội... Trong đó một trong những nguyên nhân khá phổ biến đó do tai nạn xảy ra trong quá trình tham gia giao thông, trong sinh hoạt và tham gia lao động. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khuyết tật đối với trẻ em ở nhiều quốc gia trên thế giới. 1.1.3.2. Nguyên nhân do xã hội - Một là, do thấy trẻ bị khuyết tật nên cái nhìn của những người xung quanh về trẻ thiếu tôn trọng, phân biệt đối xử điều này làm cho trẻ thấy mặc cảm, tự ti. Có nhiều trẻ bị cư xử tệ, bị đè nén, bị bỏ rơi (từ thiếu quan tâm cho đến bỏ rơi hoàn toàn) do người xung quanh không hiểu trẻ, không thông cảm cho những hành vi khó khăn của trẻ. - Hai là, do cha mẹ cảm thấy mặc cảm vì gia đình có người khuyết tật nên họ có thể nghĩ rằng mình có lỗi lầm hoặc oán trách mà không chấp nhận trẻ, điều này làm cho cách cư xử của họ đối với trẻ không được yêu thương, tôn trọng làm cho trẻ khó hình thành nên một nhân cách khỏe mạnh. - Ba là, do gia đình có trẻ khuyết tật nên có ảnh hưởng phần nào đến kinh tế của gia đình do mất nhiều thời gian chăm sóc trẻ, không có thời gian 12
- đi làm việc, gia đình trở nên khó khăn sẽ ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của cha mẹ và cũng ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của trẻ. 1.1.3.3. Nguyên nhân bẩm sinh Một là, do di truyền gây dị tật bẩm sinh. Qua kết quả nghiên cứu di truyền cho thấy một số lượng lớn bệnh tật và tử vong ở người là hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của sự bất thường về di truyền. Các rối loạn di truyền được xếp dưới 4 hình thức sau đây: - Bất thường về nhiễm sắc thể - Rối loạn gen - Rối loạn nhiều yếu tố - Các rối loạn về cơ thể Hai là, trẻ bị khuyết tật ngoài nguyên nhân rối loạn di truyền, còn có thể do người mẹ bị ảnh hưởng của một số tác nhân độc hại trong môi trường (nhiễm xạ, các chất hoá học độc hại...). Các chất độc hại có thể là những tác nhân vật lý như nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp gây say nóng, nhiễm lạnh ở bà mẹ), các loại tia cực tím hoặc phóng xạ,có thể là những tác nhân hoá học như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và ngay cả nhiều thứ thuốc chữa bệnh cho bà mẹ cũng có thể tác động xấu đến thai làm nó suy yếu đi và nguy hiểm hơn có thể gây dị tật hoặc làm thai bị chết. Cũng có thể xếp vào loại độc hại cho thai khi bà mẹ hút thuốc lào,thuốc lá, nghiện ma tuý, nghiện rượu. Những thứ đó đều làm cho thai suy dinh dưỡng, chậm phát triển về trí tuệ sau này. Các loại vi trùng, virut, ký sinh trùng và nấm gây bệnh có sẵn trong môi trường sống, có thể có cả trên cơ thể bà mẹ từ trước khi có thai nhưng đến giai đoạn thai nghén, sức đề kháng của cơ thể giảm sút khiến các mầm bệnh đó có cơ hội phát triển và gây bệnh cho bà mẹ. Những mầm bệnh ấy có thể theo máu mẹ qua rau vào thai hoặc có thể lan theo đường sinh dục đi lên gây nhiễm trùng rau, nhiễm trùng ối. 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Quản lý nhà nước về cư trú từ thực tiễn quận 3, thành phố Hồ Chí Minh
78 p | 109 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đổi mới hoạt động giám sát của HĐND quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
110 p | 69 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Kiểm soát thủ tục hành chính từ thực tiễn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
87 p | 75 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình
109 p | 80 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình
94 p | 82 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
86 p | 71 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Đánh giá viên chức ngành Y tế từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
83 p | 56 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Y tế Hà Nội
94 p | 71 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vi phạm hành chính trong hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
91 p | 42 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tuyển dụng viên chức ngành y tế từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
75 p | 50 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
82 p | 56 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền vui chơi, giải trí của trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội
91 p | 45 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn