Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam
lượt xem 3
download
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sơ sở lý luận, việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc sửa đổi, bổ sung pháp luật đối với lĩnh vực này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ BA BÊN 6 1.1 Cơ chế ba bên, hợp tác để phát triển 6 1.1.1 Quan niệm về cơ chế ba bên 6 1.1.2 Bản chất của cơ chế ba bên 10 1.1.3 Nội dung hoạt động của cơ chế ba bên 14 1.1.4 Hình thức hoạt động của cơ chế ba bên 16 1.2 Vai trò, ý nghĩa của cơ chế ba bên 17 1.3 Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế ba bên 21 1.3.1 Trên Thế giới 22 1.3.2 Ở Việt Nam 28 Chương 2 : CƠ CHẾ BA BÊN Ở VIỆT NAM – CƠ SỞ PHÁP LÝ 31 2.1 Sự ghi nhận pháp lý 31 2.2 Các bên trong cơ chế ba bên ở Việt nam 37 2.2.1 Về phía Chính phủ 37 2.2.2 Đại diện người sử dụng lao động 41
- 2.2.3 Đại diện tập thể lao động 45 2.3 Cơ chế ba bên trong pháp luật lao động Việt Nam 47 2.3.1 Cơ chế ba bên trong việc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật lao động 47 2.3.2 Cơ chế ba bên trong việc thực hiện các quy định trong lĩnh vực lao động 52 2.3.2.1 Về ký kết thoả ước lao động tập thể 52 2.3.2.2 Trong lĩnh vực tiền lương 56 2.3.2.3 Trong lĩnh vực làm thêm giờ, thời gian nghỉ ngơi 57 2.3.2.4 Trong lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động 59 2.3.3 Cơ chế ba bên trong việc tham gia giải quyết tranh chấp lao động 62 Chương 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY VIỆC VẬN HÀNH CƠ CHẾ BA BÊN TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG 66 3.1 Sự cần thiết khách quan của cơ chế ba bên trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 66 3.1.1 Thuận lợi 69 3.1.2 Khó khăn 71 3.2 Yêu cầu của việc hoàn thiện 73 3.3 Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động 74 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thực tế lĩnh vực lao động, người sử dụng lao động tìm mọi cách để mang lại lợi ích tối đa cho mình, người lao động thì mong muốn được trả lương cao tương ứng với công sức bỏ ra, được làm việc trong điều kiện lao động tốt, Nhà nước thì mong muốn các quy định mà mình ban hành được thực hiện một cách nghiêm túc, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực lao động được quản lý chặt chẽ để ổn định xã hội. Do vậy, lợi ích của nhà nước, người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ) đan xen lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau nhưng cũng dễ sảy ra mâu thuẫn. Vì thế để dung hoà lợi ích giữa các bên cần phải phối hợp cùng nhau xây dựng và đưa ra những nguyên tắc chung làm cơ sở để thực hiện. Cơ chế ba bên (CCBB) trong lĩnh vực lao động xuất hiện và tồn tại một cách tự nhiên. Trên thế giới, cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động được xác lập và vận hành từ lâu. Sự tồn tại của cơ chế ba bên đã góp phần xây dựng và pháp triển các mối quan hệ lao động giữa nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động, tạo ra sự ổn định và phát triển của xã hội nói chung, lĩnh vực lao động nói riêng. Thông qua cơ chế ba bên sẽ góp phần hạn chế những mẫu thuẫn, giảm thiểu căng thẳng, giúp các bên tìm ra giải pháp có lợi nhất thoả mãn đòi hỏi, lợi ích của mỗi bên. Ở phạm vi quốc tế Tổ chức lao động quốc tế (ILO) là tổ chức được thiết lập và hoạt động trên nền tảng của ba đối tác xã hội ở tầm quốc tế. Sự tồn tại, phát triển và hoạt động của ILO đã kích lệ các quốc gia xây dựng và vận hành cơ chế ba bên ở nước mình tạo ra môi trường lao động hài hoà ổn định và mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia, xã hội. 1
- Ở Việt Nam khi tiến hành công cuộc đổi mới, mở cửa, giao lưu, hợp tác ngày càng sâu rộng với bên ngoài, trên cơ sở nguyên tắc, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Việt Nam đã tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia đông nam á (ASEAN)…trong quá trình hợp tác Việt Nam đã ký kết, tham gia nhiều Hiệp định song phương và đa phương. Trong lĩnh vực lao động, là một thành viên của ILO Việt Nam cũng đã tham gia nhiều Công ước của tổ chức này, Chúng ta đã vận dụng những khía cạnh hợp lý của cơ chế ba bên vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên cơ chế ba bên còn là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, về lý luận chưa được nghiên cứu nhiều, các quy định pháp luật về cơ chế hợp tác ba bên còn ít, việc vận hành trên thực tế còn hình thức, hiệu quả còn hạn chế, do đó đề tài : “ Những vấn đề pháp lý đặt ra từ cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam” sẽ nghiên cứu để đưa ra những giải pháp góp phần xây dựng, nâng cao hiệu lực, vận dụng các quy định của pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài: Qua các nguồn thông tin mà tác giả có thể tiếp cận được thì hiện nay có một luận án tiến sỹ “Cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Xuân Thu - Đại học Luật Hà Nội, nghiên cứu vấn đề cơ chế ba bên trong việc giải quyết tranh chấp lao động, đề tài “Cơ chế ba bên – Pháp luật và thực tiễn hoạt động” của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do TS.GVC Lê Thi Hoài Thu chủ trì. Ngoài ra có một số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề cơ chế ba bên, tiêu biểu nhất phải kể đến những bài viết của PGS.TS Phạm Công Trứ như: “Cơ chế ba bên trong nền kinh tế thị trường” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (tháng 1/1997), “Cơ chế ba bên của ILO : Khái niệm và cơ sở pháp lý” Tạp chí Nhà 2
- nước và Pháp luật (tháng 6/2006), Cơ chế ba bên của ILO: Cơ sở lý luận (tháng 12/2006)..., tiếp đến là các bài viết của TS Lưu Bình Nhưỡng như: “Một số vấn đề lý luận, pháp lý và điều kiện phát triển Cơ chế ba bên ở Việt Nam” Tạp chí Luật học số 12/2006, “Việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể và đình công” Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 10/2006; TS Đào Thị Hằng : “Cơ chế ba bên và khả năng thực thi trong pháp luật lao động Việt Nam” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 11/2005; ThS Nguyễn Hữu Chí “Vai trò của công đoàn trong cơ chế ba bên và giải quyết tranh chấp lao động” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 10/2001. Ngoài ra, các sách báo viết về cơ chế ba bên hầu hết đều là của các tác giả nước ngoài. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động mang ý nghĩa lý Luận và thực tiễn sâu sắc. Đề tài có ý nghĩa cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động, phù hợp với luật pháp quốc tế và là cơ sở cho việc áp dụng ở Việt Nam. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ là một trong những cơ sở cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế vừa bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng lao động vừa bảo vệ được lợi ích chính đáng của người lao động. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sơ sở lý luận, việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc sửa đổi, bổ sung pháp luật đối với lĩnh vực này. 3
- - Mục đích: Tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. - Nhiệm vụ: +Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. + Đánh giá đúng đắn về thực trạng việc vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động, thuận lợi và khó khăn. + Hướng bổ sung hoàn thiện các quy định, phương hướng, giải pháp, kiến nghị. 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động, như cơ sở lý luận, các quy định quốc tế về cơ chế ba bên, quy định pháp luật Việt Nam về cơ chế ba bên, việc vận dụng cơ chế ba bên ở Việt Nam trong việc xây dựng chính sách pháp luật; Ký kết hợp đồng, thoả ước lao động tập thể; Lĩnh vực tiền lương... giải quyết tranh chấp lao động. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, chứng minh, thống kê, tổng hợp được kết hợp hài hoà trong quá trình viết luận văn. 4
- 6. Đóng góp của đề tài Thứ nhất, luận văn góp phần xây dựng hệ thống lý luận về cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động. Thứ hai, luận văn phân tích đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về cơ chế ba bên cũng như việc vận dụng chúng trên thực tế. Thứ ba, luận văn kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 mục. Chương 1 : Khái quát chung về cơ chế ba bên Chương 2 : Cơ chế ba bên ở Việt Nam – Cơ sở pháp lý Chương 3 : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc vận hành cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động 5
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ BA BÊN 1.1 Cơ chế ba bên, hợp tác để phát triển 1.1.1 Quan niệm về cơ chế ba bên Theo quan điểm của ILO : “Cơ chế ba bên có nghĩa là bất kỳ hệ thống các mối quan hệ lao động nào, trong đó Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ là những nhóm độc lập, mỗi nhóm thực hiện những chức năng riêng. Điều đó chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi thành các mối quan hệ xã hội của các nguyên tắc dân chủ chính trị: tự do, đa số, sự tham gia của mỗi cá nhân vào những quyết định có liên quan tới họ. Nguyên tắc là những vấn đề chung nhưng cũng không có một đối tác đơn lẻ: mỗi hệ thống quan hệ lao động được dựa trên sự kết hợp của các điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội và văn hoá và mỗi hệ thống phát triển theo những nguyên tắc của cuộc chơi dưới ánh sáng của những thông số đó” [4, tr.45]. Tiến sĩ Đào Thị Hằng cho rằng : Cơ chế ba bên được hiểu là cơ chế phối hợp hoạt động giữa Chính phủ, đại diện NLĐ, đại diện NSDLĐ với tư cách là các bên độc lập và bình đẳng khi họ cùng tìm kiếm những giải pháp chung trong các vấn đề lao động, xã hội mà cả ba bên cùng quan tâm và nỗ lực giải quyết [6, tr.44]. Theo Tiến sĩ Phạm Công Trứ: Bằng việc kí kết các hợp đồng lao động cá nhân giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) hình thành nên quan hệ lao động cá nhân - hạt nhân của cơ chế hai bên truyền thống. Sau đó bằng việc thực hiện quyền tự do liên kết các tổ chức của cả phía NLĐ và NSDLĐ được hình thành. Ở tầm quốc gia, đại diện của tổ chức 6
- này cùng với đại diện của Chính phủ có mối quan hệ với nhau để cùng bàn bạc và giải quyết những vấn đề có liên quan trong lĩnh vực lao động và xã hội. Trên cơ sở và khuôn khổ của mối quan hệ này hình thành một cơ chế mang tính pháp lí quốc tế, đó là cơ chế ba bên [20, tr. 19-20]. Công trình Thuật ngữ quan hệ công nghiệp và các khái niệm liên quan của tác giả David Macdonald và Caroline Vandenabeele (các chuyên gia lâu năm của Đội chuyên gia tổng hợp Đông Á, Văn phòng lao động Quốc tế – ILO/EASMAT) đã định nghĩa: “Cơ chế ba bên là sự tương tác tích cực của Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động (qua các đại diện của họ) như là các bên bình đẳng và độc lập trong các cố gắng tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề cùng quan tâm. Một quá trình ba bên có thể bao gồm việc tham khảo ý kiến, thương thuyết và /hoặc cùng ra quyết định, phụ thuộc vào cách thức đã được nhất trí giữa các bên liên quan. Những cách thức này có thể là đặc biệt theo từng vụ việc hoặc được thể chế hoá” [5, tr. 7]. TS. Nguyễn Xuân Thu cho rằng : “cơ chế ba bên là quá trình phối hợp giữa Nhà nước, NLĐ và NSDLĐ (thông qua các tổ đại diện chính thức của họ) bằng những hình thức phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và pháp lí… nhằm tìm kiếm những giải pháp chung cho các vấn đề thuộc lĩnh vực lao động - xã hội, trước hết là các vấn đề thuộc mối quan hệ lao động mà cả ba bên cùng quan tâm, vì lợi ích của mỗi bên, lợi ích chung của ba bên và lợi ích chung của xã hội” [18, tr.31-33]. Các khái niệm và quan điểm trên đây về cơ chế ba bên thể hiện yếu tố cấu thành cơ bản của cơ chế ba bên : yếu tố tổ chức (cơ cấu) và yếu tố hoạt động (vận hành). Yếu tố tổ chức (Cơ cấu) của cơ chế ba bên được tạo thành bởi ba đối tác xã hội: Nhà nước, NLĐ và NSDLĐ (thông qua cơ quan, tổ chức đại diện của mỗi bên). Yếu tố hoạt động (vận hành) của cơ chế ba bên chính 7
- là quá trình hợp tác giữa ba đối tác xã hội trong việc nỗ lực tìm kiếm các giải pháp chung cho các vấn đề mà các bên cùng quan tâm trong lĩnh vực lao động – xã hội. Bên cạnh khái niệm cơ chế ba bên còn một số khái niệm khác, như: “cơ chế hai bên”, “thương lượng tập thể” và “đối thoại xã hội”. Đây là những khái niệm được ILO và nhiều quốc gia thành viên của ILO sử dụng rộng rãi. Tuy có những khác biệt nhất định, nhưng các khái niệm này có mối quan hệ với nhau. Theo David Macdonal và Caroline Vandenabeele thì, cơ chế hai bên là “bất kỳ quá trình nào mà bằng cách đó những sự dàn xếp hợp tác trực tiếp giữa NSDLĐ và NLĐ (hoặc các tổ chức của họ) được thành lập, được khuyến khích và được tán thành” [5, tr. 7]. Còn thương lượng tập thể là một quá trình mà qua đó, NSDLĐ hoặc một nhóm NSDLĐ và một hoặc nhiều tổ chức của NLĐ hoặc các đại diện của họ tự nguyện thảo luận, thương lượng với nhau về các chế độ, điều kiện làm việc mà hai bên đều chấp nhận và có giá trị trong một thời gian xác định. [5, tr. 7]. Với cách hiểu như vậy thì “thương lượng tập thể” như là một cách thức vận hành “cơ chế hai bên”. Nói chính xác hơn, “thương lượng tập thể” là sự chuyển tải một biểu hiện cụ thể của khái niệm “cơ chế hai bên”, bởi thương lượng tập thể chính là “sự dàn xếp hợp tác trực tiếp” giữa NSDLĐ và NLĐ (hoặc các tổ chức của họ) về chế độ và điều kiện làm việc vì lợi ích riêng của mỗi bên và vì lợi ích chung mà hai bên cùng tìm kiếm. Ở một góc độ nào đó cũng có thể hiểu “thương lượng tập thể” chính là cốt lõi của “cơ chế hai bên” như William Simpson (nguyên Giám đốc Đội chuyên gia tổng hợp Đông Nam Á của ILO) đã từng khẳng định: “Thương lượng tập thể là điều cốt yếu trong việc điều hoà mối quan hệ giữa NLĐ và 8
- NSDLĐ cũng như việc quyết định điều kiện làm việc. Nó là rường cột của bất kỳ hệ thống quan hệ lao động nào và việc hoạt động có hiệu quả của nó được coi là quan trọng nhất đối với mối quan hệ lao động ổn định và kinh doanh có hiệu quả” [21, tr. 1]. Tuy nhiên, “cơ chế hai bên” không phải khi nào cũng chỉ gói gọn trong “thương lượng tập thể”, bởi vì “cơ chế hai bên” còn bao gồm các quá trình mà trong đó mọi sự dàn xếp, giải quyết các vấn đề được thực hiện trực tiếp bởi cá nhân NLĐ và NSDLĐ. Với cơ chế hai bên hay thương lượng tập thể, Nhà nước đóng vai trò là người tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm cho chúng được thực thi và được bảo vệ. Trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước sẽ vào cuộc để dàn xếp những bất đồng mà các bên không tự giải quyết được. Điều đó cho thấy điểm khác biệt lớn nhất của các khái niệm này so với khái niệm cơ chế ba bên chính là ở chỗ Nhà nước không tham gia cơ chế hai bên hay thương lượng tập thể với tư cách là một “đối tác xã hội” như khi tham gia cơ chế ba bên. Tuy nhiên, “cơ chế hai bên” hay “thương lượng tập thể” cũng có thể được xem là một phần (là nền tảng) của cơ chế ba bên và ở một mức độ nào đó, “cơ chế hai bên” hay “thương lượng tập thể” cũng được sử dụng để chỉ sự vận hành của cơ chế ba bên theo nghĩa rộng. [21, tr.1-2]. “Đối thoại xã hội” khi bắt đầu được biết đến với tư cách là một khái niệm được sử dụng để chỉ cách thức hoạt động của “cơ chế ba bên”. Gần đây, khái niệm này trong những trường hợp cụ thể đã được sử dụng với nghĩa rộng hơn. Điều này đã gây ra những tranh cãi giữa các nhóm khác nhau trong xã hội. Nổi lên là hai nhóm có xu hướng đối lập. Một nhóm muốn đồng nhất khái niệm “đối thoại xã hội” với “cơ chế ba bên” phản đối việc mở rộng sự tham gia của các nhóm xã hội khác (không phải là tổ chức của NLĐ, NSDLĐ) vào “đối thoại xã hội”. Một nhóm lại muốn mở rộng “đối thoại xã hội” cho cả các đối tác xã hội khác (chẳng hạn, các tổ chức phi Chính phủ), 9
- thậm chí có thể không có sự tham gia của tổ chức NLĐ và NSDLĐ. Như vậy, ngày nay “đối thoại xã hội” có thể là quá trình hợp tác, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm giữa ba đối tác xã hội: Nhà nước, NLĐ và NSDLĐ hoặc có sự tham gia rộng rãi của các đối tác xã hội khác trong những trường hợp nhất định vì mục tiêu ổn định, phát triển kinh tế – xã hội. Song, một điều cần đặc biệt lưu ý là: ở ILO, thuật ngữ đối thoại xã hội thường được hiểu là đồng nghĩa với cơ chế ba bên, một thuật ngữ được dùng để miêu tả không những cấu trúc ba bên đặc biệt là NSDLĐ, NLĐ và Chính phủ mà còn dùng để miêu tả sự tương tác giữa ba nhóm này, điều mà ILO muốn thúc đẩy để trở thành một yếu tố cơ bản củng cố sự phát triển kinh tế và xã hội [21, tr.1]. Có thể hiểu, cơ chế ba bên là cơ chế mà ở đó, các bên thông qua các đại diện với tư cách độc lập, bình đẳng trước pháp luật, trên cơ sở của pháp luật, cùng nhau tìm kiếm sự thống nhất chung về các chủ trương, đường lối, các quy định pháp luật, các vấn đề lao động xã hội mà các bên cùng quan tâm, đồng thời giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, trên cơ sở bảo đảm sự hài hoà lợi ích của các bên nhằm xây dựng một môi trường lao động xã hội ổn định và phát triển. 1.1.2 Bản chất của cơ chế ba bên Nghiên cứu về bản chất của cơ chế ba bên có thể thấy: Cơ chế ba bên thể hiện tính xã hội của nhà nước: Nhà nước nào cũng mang tính xã hội, tính xã hội của mỗi loại nhà nước được thể hiện khác nhau. Nhà nước do một giai cấp nhất định nắm quyền và nhà nước phục vụ cho lợi ích của giai cấp đó, bên cạnh đó thì nhà nước cũng vẫn phải phục vụ lợi ích chung của xã hội nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội cũng chính là để duy trì sự lãnh đạo, quản lý của nhà nước với xã hội. Khi thể hiện tính xã hội của mình thì nhà nước cũng 10
- mong muốn có sự tham gia của xã hội để cùng nhau giải quyết các vấn đề mà xã hội đặt ra. Trong lĩnh vực lao động, mọi nhà nước đều mong muốn các quan hệ lao động được thực hiện một cách nghiêm túc theo cách thức mà nhà nước đã quy định, nhưng nếu chỉ với ý chí của riêng nhà nước qua việc ban hành các quy định pháp lý mà các bên trong quan hệ lao đông ( NSDLĐ, NLĐ ) phải nghiêm chỉnh chấp hành thì sẽ là điều không tưởng. Trên thực tế quan hệ lao động rất đa dạng, phong phú, nhiều vấn đề mà nhà nước không dự liệu được khi ban hành chính sách pháp luật. Bên cạnh đó NSDLĐ, NLĐ có lợi ích riêng, nhưng có một điểm chung là mong muốn doanh nghiệp phát triển, vì khi doanh nghiệp phát triển thì sẽ có lợi cho các bên, tuy nhiên, do hai bên thường sảy ra tranh chấp về các quyền và nghĩa vụ nên dễ gây ra bất ổn cho doanh nghiệp, xã hội. Vì thế việc ba bên cùng ngồi lại với nhau để định ra một sự thống nhất chung làm cơ sở để cùng thực hiện nhằm bảo đảm hài hoà lợi ích của các bên sẽ là điều lý tưởng mà các bên cùng mong muốn thực hiện. Cơ chế ba bên trong lĩnh vực lao động sẽ đáp ứng được lợi ích của các bên. Cũng chính bởi vậy mà cơ chế ba bên được đón nhận một cách khách quan trong quá trình phát triển của xã hội. Về phần Nhà nước xuất phát từ việc muốn tạo ra sự ổn định cho xã hội, mang lại lợi ích cho số đông rất cần các thành viên trong xã hội cũng phải nỗ lực tham gia thực hiện vì lợi ích của chính mình, khi có sự tham gia của xã hội thì nó sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn so với việc Nhà nước chỉ muốm áp đặt ý chí của riêng mình. Ở đây khi Nhà nước cùng với NSDLĐ, NLĐ tham gia vào việc hoạch định chính sách, xây dựng các văn bản pháp luật trong lĩnh vực lao động, thực hiện quy định pháp luật về lao đông trên thực tế, giải quyết những tranh chấp giữa các bên thì nó chính là biểu hiện của tính xã hội của Nhà nước. Cơ chế ba bên là một quá trình dân chủ hoá mối quan hệ lao động: Tính 11
- dân chủ được thể hiện trong cơ chế ba bên, đây là sự tiến bộ so với quan hệ lao động theo kiểu mệnh lệnh, áp đặt trước đây. Trong cơ chế ba bên, các bên thông qua đại diện của mình có quyền đưa ra ý kiến một cách dân chủ, ý kiến đó có thể là việc đề xuất chủ chương, chính sách về lĩnh vực lao động, góp ý vào việc soạn thảo các quy định pháp luật về lĩnh vực lao động, tham gia ý kiến và bàn các biện pháp thực hiện các quy định pháp luật về lao động, bàn bạc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực lao động… việc tham gia được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Tính dân chủ còn thể hiện, trong mối quan hệ ba bên thì bên cạnh việc các bên dân chủ trong việc đưa ra chính kiến của mình thì các đối tác khác qua ý kiến của các bên, cùng nhau trao đổi, đóng góp ý kiến để qua đó đi đến sự thống nhất chung làm cơ sở để các bên cùng nhau thực hiện. Ngày nay, khi mà vai trò của thương lượng tập thể, quan hệ ba bên phát huy tính hiệu quả của nó thì xu hướng chung là việc thừa nhận và vận dụng cơ chế ba bên. Trên thế giới vận dụng cơ chế ba bên ngày càng được coi trọng và phát triển trên nhiều mặt của lĩnh vực lao động, xu hướng là Nhà nước không tự mình áp đặt mà có sự tham khảo ý kiến của các bên đối tác để đi đến nhận thức chung. Tuy nhiên đây là vấn đề nhạy cảm vì Nhà nước thì không muốn phải chia sẻ quyền lực. Trong quá trình vận dụng cơ chế ba bên thì mỗi nước cần căn cứ vào điều kiện của mình để vận dung cho linh hoạt, cho phù hợp với mình và bảo đảm để các quan hệ lao động được thực hiện tốt nhất, đó cũng là điều mà ILO khuyến cáo đến các nước thành viên vận dụng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình để bảo đảm hiệu quả cao nhất các quy định của pháp luật lao động, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đối tác liên quan, đây cũng chính là mục tiêu mà ILO và các quốc gia hướng tới vì sự phát triển của cộng đồng xã hội. Cơ chế ba bên là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực và trách nhiệm giữa 12
- nhà nước, NSDLĐ và NLĐ: Bằng quyền lực của mình, nhà nước có khả năng áp đặt quyền lực đó lên các mối quan hệ xã hội mà nhà nước cho là cần thiết, có lợi để duy trì trật tự trong xã hội. Trong lĩnh vực lao động cũng vậy, bằng các quy định của pháp luật, nhà nước có thể bắt các chủ thể khác phải chấp hành nếu các chủ thể khác không chấp hành thì nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi quy định mà nhà nước ban hành cũng hoàn toàn phù hợp với sự vận động của xã hội. Khi ý chí của nhà nước không phù hợp với sự vận động của xã hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của các quan hệ xã hội, điều mà nhà nước không mong muốn. Trong lĩnh vực lao động khi mà ý chí của nhà nước không phù hợp với các mối quan hệ lao động thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của quan hệ lao động, hệ quả là kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, dẫn tới kìm hãm sự phát triển của xã hội. Khi xã hội kém phát triển thì vai trò của nhà nước suy yếu, vì thế, sự hợp tác giữa các bên trong lĩnh vực lao động là cần thiết, vì khi đó, các bên có thể đóng góp ý kiến của mình vào việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực lao động một cách hiệu quả nhất. Thực tế thì mỗi bên trong ba bên đều muốn có lợi và không bên nào lại muốn bị thiệt quá nhiều vì thế hợp tác cùng nhau, chia sẻ trách nhiệm là hợp lý nhất, vì khi đó, các bên đều có lợi và các bên đều thống nhất, nên nó là cơ sở để cho các mối quan hệ lao động đi đúng hướng. Sự hợp tác, chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm trong quan hệ lao động được thực hiện ở mọi khía cạnh của quan hệ lao động, một cách thường xuyên, linh hoạt theo sự thoả thuận của các bên và sự biến đổi của tình hình xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực liên quan tới lợi ích của các bên, điều đó cũng có nghĩa là các bên cùng nhau hưởng những thành quả, những lợi ích có được từ quá trình lao động, bên cạnh đó khi khó khăn thì các bên cũng cần phải chia sẻ trách nhiệm cùng nhau, khi đó có thể mỗi bên chấp nhận lợi ích mà mình được hưởng thấp hơn so với cái mình đáng 13
- được hưởng để chia sẻ khó khăn cho nhau vì một mục tiêu xa hơn là duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. 1.1.3 Nội dung hoạt động của cơ chế ba bên Cơ chế ba bên được thực hiện qua các nội dung chính sau: - Chia sẻ thông tin - Thảo luận ba bên - Đàm phán ba bên - Ra quyết định chung Chia sẻ thông tin: đây là hình thức hoạt động đơn giản nhất đồng thời cũng là hoạt động khởi đầu của mọi hoạt động của cơ chế ba bên. Chia sẻ thông tin được thực hiện trên mọi lĩnh vực lao động, các bên trong quá trình hoạt động của mình thông tin cho các đối tác khác biết những vấn đề mà mình đã thực hiện hoặc dự định thực hiện trong tương lai, những vấn đề này có thể chỉ liên quan tới một mình đối tác có thông tin chia sẻ, hoặc vấn đề có liên quan tới một hoặc cả hai đối tác kia. Chia sẻ thông tin giúp cho các đối tác hiểu biết nhau hơn, thông tin được chia sẻ giúp cho các bên đối tác biết được những vấn đề mà bên cung cấp thông tin đưa ra, từ đó có các bước đi cho mình để phù hợp với đòi hỏi của thực tế. Thông tin có thể là việc Nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền thông báo chuẩn bị đưa ra một văn bản mới, hoặc là văn bản thay thế một văn bản khác liên quan tới vấn đề tiền lương tối thiểu chẳng hạn, thông tin này đương nhiên có thể hiểu là nó sẽ liên quan tới các bên đối tác còn lại vì người lao động là người hưởng lương còn người sử dụng lao động là bên phải chi trả. Khi Nhà nước thông tin như vậy thì cũng có nghĩa là các đối tác khác thấy là mình cần phải làm gì để thực hiện những vấn đề mà Nhà nước đã thông qua. Thực tế Nhà nước thông báo vấn 14
- đề này sớm thì sẽ tạo điều kiện cho các đối tác khác chuẩn bị cho việc thực hiện và thực hiện có hiệu quả, còn nếu thông tin không kịp thời thì sẽ làm khó cho các đối tác khác trong quá trình tổ chức thực hiện. Trong vấn đề chia sẻ thông tin đòi hỏi thông tin chia sẻ phải chính xác, kịp thời. Thảo luận: là hình thức quan hệ cao hơn việc chia sẻ thông tin. Thông thường, ở hình thức này các bên trên cơ sở của những thông tin mà mình chia sẻ, nêu ra những vấn đề mà các bên cùng quan tâm để cùng nhau thảo luận đi đến một nhận thức rõ ràng về một vấn đề cụ thể nào đó, những vấn đề đưa ra thảo luận có thể chỉ là những vấn đề nhằm nâng cao hiểu biết của mỗi bên, nó cũng có thể là những vấn đề mà các bên tham khảo ý kiến của bên kia nhằm mục đích đưa ra một quyết định mà không gặp trở ngại từ phía đối tác có liên quan. Đó có thể là một vấn đề mà một bên có quyền đưa ra trong khuôn khổ của sự tự quyết. Việc thảo luận có thể diễn ra bởi hai bên hoặc cả ba bên đối tác, nó có thể do các bên cấp dưới thảo luận để cùng nhau đưa ra một khuyến nghị cho việc quyết định của cơ quan có thẩm quyền cao hơn tham khảo trong quá trình ra quyết định. Đàm phán ba bên: là quá trình các bên sau khi đã chia sẻ thông tin, thảo luận về những vấn đề cùng quan tâm, qua quá trình trao đi đổi lại đi đến một sự nhất trí cao về nhận thức cũng như việc hành động trong một vấn đề cụ thể nào đó, nhằm đạt được một sự nhất trí trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Cùng nhau ra quyết định: là hình thức cao nhất trong những nội dung hoạt động của cơ chế ba bên. Đây là hình thức lý tưởng mà các bên mong muốn. Tuy nhiên, để có thể ra được những quyết định chung trên thực tế hiếm xảy ra. Cùng nhau ra quyết định là việc các đối tác trong cơ chế ba bên tiến hành các hoạt động chia sẻ thông tin, thảo luận, đàm phán và đi đến một sự 15
- thống nhất cần phải ra một quyết định chung mang ý chí của tất cả các bên, vì lợi ích chung. Việc cùng nhau ra một quyết định chung được thực hiện bởi một cơ quan ba bên do nhà nước quyết định trao quyền (bằng một văn bản pháp lý) bằng một quyết định trong một lĩnh vực cụ thể nào đó và quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên có liên quan. “VD Toà án lao động ba bên của Thái Lan được giao quyền xét xử, quyết định hoặc đưa ra các mệnh lệnh về các vấn đề : - Tranh chấp lao động về quyền và nghĩa vụ quy định trong hợp đồng thuê lao động hay trong thoả ước có liên quan đến các điều khoản thuê lao động. - Các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ quy định trong Luật bảo vệ lao động hay Luật về các quan hệ lao động. - Các tranh chấp mà Bộ trưởng Bộ lao động và phúc lợi xã hội chuyển giao giải quyết theo các quy định của Luật về các quan hệ lao động.” [17, tr 30] 1.1.4 Hình thức hoạt động của cơ chế ba bên Cơ chế ba bên được thực hiện dưới các hình thức khá linh hoạt: Có ba hình thức phổ biến: - Hình thức thấp nhất là đối thoại xã hội, thông qua đối thoại chính phủ tham khảo ý kiến của các bên trước khi đi đến những quyết định cần thiết. - Hình thức cao hơn là việc Chính phủ tham khảo ý kiến của các tổ chức đại diện cho NSDLĐ, NLĐ về các vấn đề liên quan để họ tham gia vào việc đóng góp ý kiến xây dựng chính sách. Ở đây các đối tác không được coi là bình đẳng với Nhà nước. 16
- - Hình thức cao nhất có thể coi là việc cùng quyết định, đây là hình thức lý tưởng, ở hình thức này ba bên thông qua đại diện của mình với tư cách là các đối tác độc lập và bình đẳng cùng tham khảo ý kiến của nhau, cùng nhau soạn thảo và thực thi các chính sách về các vấn đề của lĩnh vực lao động. 1.2 Vai trò, ý nghĩa của cơ chế ba bên Trong lĩnh vực lao động cơ chế ba bên có vai trò và ý nghĩa quan trọng thể hiện ở những nội dung : Thứ nhất, cơ chế ba bên góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh vực lao động một cách đúng đắn sát thực tế và có tính khả thi cao. Lĩnh vực lao động là lĩnh vực rộng lớn liên quan tới người sử dụng lao động, người lao động và sự quản lý của Nhà nước, chính bởi sự liên quan như vậy mà để bảo đảm chính sách ban hành có hiệu quả, có tính khả thi thì đòi hỏi quá trình xây dựng phải có sự tham gia của các bên liên quan. Mặc dù bản thân Nhà nước với quyền lực của mình có thể tự quyết khi ban hành chính sách và sử dụng các biện pháp cần thiết để bắt các bên phải thực hiện, nhưng như thế không có nghĩa mọi chính sách đưa ra đều có tính hiệu quả cao. Trên thực tế có nhiều chính sách ban hành nhưng quá trình thực hiện mới thấy không khả thi, tính khả thi không cao vì đó là ý chí nhiều khi mang tính chủ quan của những người soạn thảo. Đây là điều mà không một Nhà nước nào mong muốn, vì vậy để cho chính sách đi vào cuộc sống thì tốt hơn hết chính sách đó cần phải có sự tham gia của các bên có liên quan, mà ở đây trong lĩnh vực lao động là các đại diện của người sử dụng lao động, người lao động, và đại diện của nhà nước cùng tham gia bàn thảo, bày tỏ ý chí nguyện vọng của mình và đi đến thống nhất trong việc xây dựng chính sách cho phù hợp và đáp ứng được lợi ích của các bên liên quan. Đây có thể nói là một trong những vai 17
- trò cơ bản của việc vận dụng cơ chế ba bên, ngày nay các nước đều tranh thủ ý kiến tham gia của đại diện các bên liên quan trước khi ra quyết định, tuy nhiên việc vận dụng ở mỗi nơi một khác nhưng ở đâu có sự đề cao vai trò của việc tham khảo ý kiến của các bên liên quan thì ở đó các chính sách ban hành có tính khả thi cao, còn ngược lại ở đâu mà sự coi trọng bị hạ thấp thì ở đó các chính sách ban hành sẽ khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện trên thực tế. Việc thực hiện tham khảo được tiến hành trên nhiều mặt của lĩnh vực lao động, như vấn đề tiền lương, vấn đề vệ sinh an toàn trong lao động, vấn đề thời gian lao động, thời gian nghỉ ngơi, nghỉ phép, việc trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp… Thứ hai, cơ chế ba bên là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý lao động, bảo đảm hiệu quả của các quy định về quản lý lao động được thực hiện trên thực tế. Khi quan hệ lao động diễn ra, các bên luôn có xu hướng đặt lợi ích của mình lên trên, nên nếu không có mối quan hệ thường xuyên giữa các bên thì sẽ dẫn tới các quan hệ có thể bị vi phạm, nhà nước khó quản lý dẫn tới mất ổn định xã hội. Do đó, để bảo đảm hoạt động này đi vào quỹ đạo thì quan hệ, sự đối thoại giữa ba bên sẽ bảo đảm cho các quan hệ lao động đi đúng hướng, đúng quỹ đạo. Điều này thể hiện là các bên phải thực hiện việc chia sẻ thông tin thường xuyên cho nhau, cùng nhau bàn bạc những vấn đề phát sinh để thống nhất thực hiện cho phù hợp với từng điều kiện nhất định. Thực hiện được điều này sẽ bảo đảm được lợi ích của các bên, qua đó thì nhà nước sẽ quản lý tốt lĩnh vực lao động của xã hội; phía doanh nghiệp sẽ thực hiện được sự quản lý của mình theo yêu cầu của sự phát triển. Thứ ba, Cơ chế ba bên góp phần ổn định các quan hệ lao động, điều hoà lợi ích các bên, thúc đẩy quan hệ lao động phát triển. Cơ chế ba bên tham gia tích cực vào việc giải phóng sức lao động, trên cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên. Quá trình hoạt động, phát triển của doanh nghiệp trong nền 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn