intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao

Chia sẻ: Elfredatran Elfredatran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là góp một cách nhìn cụ thể, chi tiết, đầy đủ và hệ thống về nghệ thuật của Nam Cao. Giúp cho việc cảm nhận cũng như giảng dạy các tác phẩm Nam Cao tốt hơn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Góp thêm một tiếng nói trong việc đi sâu nghiên cứu phong cách Nam Cao nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ CẤU TRÚC ĐỘC THOẠI TRONG NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN CỦA NAM CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành : Lí luận ngôn ngữ Mã số : 5 04 08 Người hướng dẫn khoa học : TS Phạm Văn Tình Người viết: Học viên Lưu Thị Oanh Hà Nội – 2004
  2. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài .....................................................................................4 2. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu ............................................................6 3. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................……6 4. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn ..........................................................7 5. Bố cục của luận văn…....................................................................... … 7 Chương 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.Về các khái niệm độc thoại và đối thoại (theo quan điểm giao tiếp)……9 2. Các dạng độc thoại trên văn bản………………………………………11 3. Quan niệm về độc thoại nội tâm của luận văn……………………… 16 4. Tiểu kết…………………………… ………………………………… 1
  3. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Chương 2 CẤU TRÚC CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO 1. Hình thức thể hiện các đoạn độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của Nam Cao……………………………………………………………..22 1.1. Các phát ngôn cấu thành các đoạn độc thoại nội tâm …………… .23 1.2. Cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm………………. 25 1.3. Cách thức nhập đề của các đoạn độc thoại nội tâm……………… .27 1.4. Cách thức kết thúc của các đoạn độc thoại nội tâm…………………33 2. Tần suất xuất hiện các dạng độc thoại………………………………. 37 2.1. Số lần xuất hiện trong truyện của các đoạn độc thoại nội tâm……....37 2.2. Độ phân bố các đoạn độc thoại nội tâm…………………………......38 3. Tiểu kết..................................................................................................41 Chương 3 GIÁ TRỊ BIỂU HIỆN CỦA CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO 1. Mở đầu................................................................................................ 43 2. Khẳng định chủ đề tác phẩm...............................................................44 2.1. Trƣớc Cách mạng.............................................................................44 2.1.1. Đề tài ngƣời nông dân............................................................... ..45 2.1.1.1. Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứnhất................................................45 2.1.1.2 Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứ hai..................................................52 2
  4. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 2.1.2 Đề tài ngƣời trí thức tiểu tƣ sản............................................ 57 2.2. Sau Cách mạng.................................................................................58 2. 2.1.Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứ nhất…………………………… 61 2.2.2 Hệ thống chủ đề tƣ tƣởng thứ hai……………………… 65 2.3. Tiểu kết.......................................................................................... ..65 3. Khẳng định phong cách tác giả.............................................................68 3.1. Độc thoại nội tâm theo mạch tâm lí nhân vật…………………... 68 3.1.1. Độc thoại nội tâm đƣợc xây dựng dựa trên“cái hàng ngày”...........69 3.1.2. Độc thoại nội tâm diễn tả mạch tâm lí của nhân vật trí thức tiểu tƣ sản..................................................................................... 70 3.1.3. Độc thoại nội tâm diễn tả mạch tâm lí của nhân vật nông dân 78 3.1.4. Tiểu kết................................................................................... 81 3.2. Từngữ sử dụng, phong cách diễn giải riêng biệt …………… .82 3.2.1. Sửdụng phƣơng ngữ nông dân đồng bằng Bắc Bộ....................... 82 3.2.2. Sử dụng nhiều phátngôn ngắn gọn, tỉnh lƣợc............................... 85 3.2.3. Sửdụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ………………………….... ....87 3.2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ của văn nghị luận....................................... .88 3.2.5. Sử dụng nhiều câu hỏi nghi vấn để diễn giải tâm lí nhân vật........ 89 3.2.6. Tiểu kết...................................................................................... ....93 KẾT LUẬN………………………………………………………………94 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………96 3
  5. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do lựa chọn đề tài. Văn bản nghệ thuật (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết...) vốn là một hình thức tổ chức ngôn ngữ có giá trị đặc biệt trong việc lƣu giữ, truyền đạt truyền thống văn hoá- lịch sử, tƣ tƣởng, phong cách ngôn ngữ, phong cách nhà văn ở một thời điểm lịch sử nhất định này sang thời điểm khác. Việc nghiên cứu các cách thức thể hiện ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật là một trong những hƣớng nghiên cứu để làm rõ phong cách tác giả, làm rõ hơn phong cách nhân vật. Vì thế việc nghiên cứu này là cần thiết nhất là trong thời điểm hiện nay. Nghiên cứu cách thức thể hiện của ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật có nhiều hƣớng khác nhau nhƣ: chủ đề, cấu tứ, ngôn ngữ, xây dựng văn bản… Trong đó, xây dựng văn bản có những đoạn độc thoại nội tâm là một cách thức thể hiện ngôn ngữ hết sức độc đáo. Bởi đó là nét riêng, là sở trƣờng, là tài năng của nhà văn. Độc thoại nội tâm là một thủ pháp nghệ thuật nổi trội trong văn bản nghệ thuật của nhiều nhà văn. Tuy nhiên, thủ pháp này có những đặc thù riêng về kết cấu và cách thức thể hiện nội dung ở mỗi nhà văn. Trong số các nhà văn trƣớc Cách mạng, Nam Cao nổi lên nhƣ một cây bút hiện thực phê phán xuất sắc nhất, ông đã sử dụng rất nhiều đoạn độc thoại nội tâm trong các tác phẩm của mình để khai thác các khía cạnh tâm lí nhân vật, phát triển câu truyện theo mạch tâm lí nhân vật. Cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp văn chƣơng, mƣời lăm năm cầm bút (1936- 1951) nhà văn Nam Cao đã chứng kiến rất nhiều đổi thay của dân tộc. Trƣớc Cách mạng 4
  6. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao những trang viết của ông là cả tấm lòng và tình yêu thƣơng cực độ những lớp ngƣời nghèo khổ, những cảnh đời đau khổ, bất hạnh; là nỗi căm giận xót xa đến cháy lòng trƣớc bao ngang trái , bất công của chế độ cũ; là những ƣớc mongcháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, công bằng hơn. Cũng khai thác đề tài ngƣời nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản nhƣ các bậc đàn anh khác nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố... nhƣng Nam Cao đã thổi vào đó những nét rất riêng biệt, trong đó kiếp sống con ngƣời đau đớn phũ phàng hơn trƣớc những cơn xoáy lốc mới của một thời kì lịch sử đen tối nặng nề. Cách mạng Tháng tám thành công đã tạo ra một luồng sinh khí mới trong các tác phẩm của ông mặc dù ông vẫn trung thành với đề tài ngƣời nông dân và tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản. Bút pháp của ông: “Không nói những cái ngƣời ta đã nói, không tả theo lối ngƣời ta đã tả, ông đã dám bƣớc vào làng văn với những cạnh sắc riêng của mình”. Độc thoại nội tâm chính là một thủ pháp nghệ thuật nổi trội tạo nên “cạnh sắc” riêng của nhà văn Nam Cao. Với độc thoại nội tâm, Nam Cao đã góp một tiếng nói riêng cách tân và hiện đại hoá nền văn xuôi quốc ngữ, khẳng định một ngòi bút đầy tài năng, sắc sảo của một nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Với độc thoại nội tâm, ông đã khắc hoạ rất rõ nét nhiều loại nhân vật đủ mọi tầng lớp trong xã hội với nhiều sự biến động mang tính thời đại. Với tài năng, tâm huyết và sự say mê đầy trách nhiệm của một trái tim lớn, một ngƣời nghệ sĩ lớn luôn thức đập với những buồn, vui, đau khổ của con ngƣời, của cuộc đời, Nam cao đã tạo dựng đƣợc một sự nghiệp văn chƣơng lớn. Rất nhiều nhân vật trong các tác phẩm của ông đã để lại những ám ảnh kì lạ đối với nhiều thế hệ công chúng nhƣ: Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, Điền, Hộ, Độ....Và tất cả những tâm tƣ, tình cảm, những diễn biến tâm lý của các nhân vật ấy thể hiện qua các đoạn độc thoại nội 5
  7. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao tâm đã để lại những ấn tƣợng sâu sắc trong lòng độc giả. Vì thế đã có nhiều tác phẩm của ông đƣợc chọn lọc giảng dạy ở trƣờng phổ thông. Sử dụng độc thoại nội tâm là bút pháp nghệ thuật hết sức độc đáo của nhà văn Nam Cao. Đã có nhiều bài viết về thủ pháp độc đáo này của Nam Cao nhƣng chƣa có một công trình nào, nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về cấu trúc hình thức và giá trị nội dung của độc thoại nội tâm trong các văn bản nghệ thuật Nam Cao, giúp độc giả có thể hiểu một cách chi tiết, sâu sắc ý nghĩa đóng góp của sự nghiệp văn chƣơng Nam Cao cho nền văn xuôi hiện thực nƣớc ta; giúp độc giả có thể cảm nhận đúng, sâu hơn các tác phẩm văn học Nam Cao. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn cho mình đề tài luận văn này. Và một điều hết sức đặc biệt thôi thúc tôi tiến hành luận văn này. Đó là việc tôi đƣợc may mắn sinh ra và lớn lên ở vùng chiêm trũng Hà Nam- quê hƣơng của nhà văn Nam Cao. Từ thuở còn là học sinh cắp sách tới trƣờng, những tác phẩm văn học của Nam Cao trong chƣơng trình học phổ thông đã để lại trong tôi nhiều ấn tƣợng sâu sắc. Đọc các tác phẩm của ông tôi đã biết và hiểu đƣợc tƣ duy, tình cảm, ngôn ngữ đặc trƣng của những con ngƣời đã sống trên mảnh đất quê hƣơng tôi cách tôi gần một thế kỉ. Tôi đã rất cảm ơn nhà văn Nam Cao và tự hỏi rằng: cái gì đã tạo ra sức mạnh trƣờng tồn cho các tác phẩm văn học Nam Cao? Không cái gì khác đó chính là giá trị biểu hiện của ngôn ngữ. Đƣợc may mắn học tập và rèn luyện tại khoa Ngôn ngữ, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tôi hy vọng rằng việc nghiên cứu cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao sẽ góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu giá trị đóng góp to lớn về mặt ngôn ngữ của sự nghiệp văn học Nam Cao. 6
  8. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tất cả các đoạn độc thoại nội tâm trong truyện ngắn, bút ký của Nam Cao, trong hai tập Nam Cao toàn tập (I & II), cụ thể là qua 22 truyện ngắn, bút ký, nhà xuất bản Văn học 2002. Tất cả các đoạn độc thoại nội tâm đƣợc chúng tôi xem xét trong phạm vi ngữ cảnh cần thiết trong toàn bộ văn bản. 3. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn sẽ sử dụng phƣơng pháp thống kê, miêu tả, so sánh và phân tích ngôn ngữ ở hai mặt: - Cấu trúc hình thức của các đoạn độc thoại nội tâm. - Nội dung thể hiện các đoạn độc thoại nội tâm. Ứng dụng các kiến thức lí luận để miêu tả chuẩn xác ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong truyện ngắn, bút ký của Nam Cao. Từ đó thấy đƣợc: - Giá trị biểu hiện của các đoạn độc thoại nội tâm (giá trị ngữ nghĩa, giá trị liên kết, tính hợp lí, chặt chẽ, mạch lạc…). - Nét độc đáo, riêng biệt của bút pháp Nam Cao. 4. Ý nghĩa và đóng góp của luận văn. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ: - Góp một cách nhìn cụ thể, chi tiết, đầy đủ và hệ thống về nghệ thuật của Nam Cao - Giúp cho việc cảm nhận cũng nhƣ giảng dạy các tác phẩm Nam Cao tốt hơn, toàn diện hơn, sâu sắc hơn. 7
  9. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao - Góp thêm một tiếng nói trong việc đi sâu nghiên cứu phong cách Nam Cao nói chung. Đó là ý nghĩa đóng góp về mặt thực tiễn của luận văn. - Về mặt lí luận: những nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung vào mảng lí luận đối với việc nghiên cứu văn bản và phân tích diễn ngôn. 5. Bố cục của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tham khảo, luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng theo trình tự sắp xếp nhƣ sau: Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Chương 2: CẤU TRÚC CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG NGÔN NGỮ KỂ TRUYỆN CỦA NAM CAO Chương 3: GIÁ TRỊ BIỂU HIỆN CỦA CÁC ĐOẠN ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG NGÔN NGỮ KỂ CHUYỆN CỦA NAM CAO 8
  10. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Về các khái niệm độc thoại, đối thoại (theo quan điểm giao tiếp) Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời. Nhờ ngôn ngữ mà con ngƣời có thể hiểu nhau trong quá trình lao động và sinh hoạt, nhờ ngôn ngữ mà con ngƣời có thể diễn đạt cho nhau hiểu đƣợc tƣ tƣởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ tƣởng, trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tƣ tƣởng. Là công cụ giao tiếp, ngôn ngữ còn là công cụ của tƣ duy. Theo R. Jakobson, ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu để truyền đạt qua một kênh thông tin giữa hai bên: thể phát và thể nhận (và ngƣợc lại). Đó chính là các hình thức giao tiếp bằng lời giữa ngƣời nói (SP1) với ngƣời nghe (SP2). Trong quá trình giao tiếp, có hai loại hình thức giao tiếp chủ yếu. Đó là giao tiếp một chiều và giao tiếp nhiều chiều. Thế nào là giao tiếp một chiều, thế nào là giao tiếp nhiều chiều? Hình thức giao tiếp một chiều là hình thức giao tiếp chỉ có một bên nói, truyền thông tin, truyền đạt các tƣ tƣởng khác... và không quan tâm đến sự phản hồi; còn một bên chỉ tiếp nhận. Hình thức này thƣờng gặp trong mệnh lệnh quân sự, trong diễn văn, trong các bản báo cáo, trong các bài nói của phát thanh viên truyền thanh, truyền hình... Không có sự hiện diện của hai đối tƣợng tham gia vào cuộc trao đổi (một chiều, cách mặt). Đó chính là độc thoại (còn gọi là đơn thoại, monologue). Với đơn thoại “ngƣời ta chỉ quan tâm tới... lời nói hay là diễn ngôn của anh ta mà không quan tâm tới phản ứng hồi đáp” [Đỗ Hữu Châu & Bùi Minh Toán 1993: 226]. Còn trong hình thức giao tiếp bình thƣờng thì có ngƣời nói, ngƣời 9
  11. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao nghe và có sự hồi đáp qua lại (luân phiên lƣợt lời). Sự phản hồi này đã thay đổi vai trò của các đối tƣợng tham gia giao tiếp: bên nghe trở thành bên nói và bên nói trở thành bên nghe. Đó là hội thoại (dialogue). Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con ngƣời là hội thoại. Thực tế, đã nói tới giao tiếp ngôn ngữ là nói tới hội thoại (ngƣời nói phải có ngƣời nghe). Ngƣời nói, với mục đích chuyển tải những suy nghĩ, tình cảm... (theo chiến lƣợc giao tiếp cụ thể) của mình và mong nhận đƣợc sự phản hồi từ phía “đối tác”. Cứ thế, sự hồi đáp xuất hiện và cuộc trao đổi đƣợc duy trì. Vì vậy, vấn đề hội thoại đƣợc đặc biệt quan tâm trong ngữ dụng học. Nó là bộ phận chủ yếu của ngữ dụng học vĩ mô (A: macropragmatics). Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi chủ yếu chỉ đề cập tới khái niệm độc thoại mà thôi. Nhƣ vậy, độc thoại đƣợc hiểu là hình thức giao tiếp trong đó chỉ một bên nói còn một bên tiếp nhận. Không có phản ứng của một ngƣời thứ hai và không bị tác động và chi phối bởi các nhân tố ngôn cảnh. Chủ đề, bố cục, diễn biến theo mạch nội dung hoàn toàn có thể tuân thủ theo một logic định trƣớc của ngƣời nói (hoặc ngƣời viết). Độc thoại, chiết tự có nghĩa là “nói một mình”. Đó là một trong những hoạt động giao tiếp khá phổ biến mà ta thƣờng hay gặp trong khá nhiều trƣờng hợp, đặc biệt là khi tiếp nhận văn bản. Vấn đề đặt ra là: ngôn ngữ độc thoại có đặc trƣng gì (tƣơng đồng và khác biệt) so với ngôn ngữ giao tiếp nói chung? Nhƣ chúng ta đã biết ngôn ngữ đƣợc coi là một hoạt động quan trọng của con ngƣời “Nói chính là hành động” (J. Austin). Ngôn ngữ mang bản chất xã hội. rõ nét. Chức năng giao tiếp xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở chức năng thông báo, chức năng trao đổi, chức năng giáo dục và chức năng thẩm mĩ. Ngôn ngữ độc thoại là một dạng thức ngôn ngữ nằm trong hệ thống mang tính chuẩn mực nhƣng cũng rất sinh động, rất đa 10
  12. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao dạng và nó cũng mang trong mình cả bốn chức năng của ngôn ngữ. Do những đặc thù của độc thoại mà ngôn ngữ độc thoại là thứ ngôn ngữ phản ánh những bản chất sâu xa của những hiện tƣợng ngữ nghĩa - ngữ dụng của ngôn ngữ. Nói một cách cụ thể ngôn ngữ độc thoại mang đậm phong cách văn bản, thể hiện trong hàng loạt các thể loại văn bản: hành chính sự vụ, chính luận khoa học, văn học nghệ thuật... Vì vậy, ngôn ngữ ở đó đƣợc sắp xếp một cách trình tự, bài bản, chuẩn mực, lời lẽ đƣợc gọt giũa. Theo Đỗ Hữu Châu “Trong quá trình nói và viết đó, ngƣời nhận bị trừu tƣợng hoá, xem nhƣ không có mặt, nhƣ không có ảnh hƣởng gì tới việc nói và viết cả” và “nó xuất phát từ nguyên lí câu chỉ có một chiều: ngƣời nói (viết) - câu” [Đỗ Hữu Châu & Bùi Minh Toán 1993: 227]. Cũng vì thế, nghiên cứu ngôn ngữ độc thoại thƣờng chú trọng phƣơng diện cấu trúc, tổ chức, hình thức độc thoại, liên kết và sự mạch lạc trong các phát ngôn, v.v. Độc thoại là một hình thức giao tiếp. Một bài diễn văn, một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết,... do ai đó đọc hoặc viết ra cũng nhằm mục đích là hƣớng tới một cuộc trao đổi. Có điều, đối tƣợng trao đổi ở đây gần nhƣ đã đƣợc xác định, thuần nhất hơn (một bài báo viết về bóng đá dĩ nhiên phải có đích cho những ai quan tâm tới thể thao...). Chủ đề, nội dung cũng ít có sự xáo trộn, biến thiên bất ngờ nhƣ trong đối thoại. Sự giao tiếp là một hoạt động của con ngƣời trong xã hội. Vì thế khi nghiên cứu về độc thoại không thể bỏ qua những yếu tố liên quan đến con ngƣời và xã hội nhƣ tâm lí, phong tục, văn hoá, dân tộc... Và phƣơng pháp phân tích ngôn ngữ độc thoại chủ yếu là phƣơng pháp phân tích câu, phân tích văn bản cũng nhƣ những khái niệm về hệ thống, cấu trúc ngôn ngữ. Đặc thù của độc thoại là hình thức giao tiếp một chiều, cấu trúc cũng đa dạng và phong phú, có thể phục vụ truyền tải thông tin, mệnh lệnh 11
  13. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao hoặc báo cáo, diễn thuyết... Cho nên ứng với mỗi mục đích giao tiếp cụ thể mà độc thoại có hình thức thể hiện riêng sao cho thích hợp. 2. Các dạng độc thoại trên văn bản Các kiểu văn bản, các thể loại văn bản và các phong cách của văn bản riêng lẻ là sản phẩm của hoạt động lời nói. Chúng thuộc bình diện của lời nói. Ngôn ngữ độc thoại là thứ ngôn ngữ trình bày và ngôn ngữ biểu hiện bao gồm cả tính nghệ thuật và phi nghệ thuật của ngôn ngữ. Độc thoại trên văn bản cũng có rất nhiều kiểu loại khác nhau. Văn bản vốn đƣợc xây dựng theo một phong cách chức năng thƣờng có nhiều kiểu. Trƣớc khi bắt tay vào công việc miêu tả chính của mình, chúng tôi xin dừng lại đôi chút để bàn về các thuật ngữ văn bản và diễn ngôn. Văn bản với vai trò là đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Đến nay số lƣợng các định nghĩa về văn bản đã nhanh chóng tăng lên đến mức không dễ dàng kiểm soát đƣợc. Chúng tôi xin trích dẫn một vài định nghĩa làm ví dụ, và điều đáng chú ý là với các định nghĩa này không phải ở đâu ngƣời ta cũng để ý đến sự phân biệt văn bản với diễn ngôn: 1. “…văn bản đƣợc xét nhƣ một lớp phân chia đƣợc thành các khúc đoạn.” (L. Hjelmslev, 1953). 2. “ Văn bản đƣợc hiểu ở bậc điển thể là phát ngôn bất kì có kết thúc và có liên kết, có tính chất độc lập và đúng ngữ pháp”. (W. Koch, 1966). 3. Văn bản “là chuỗi nối tiếp của các đơn vị ngôn ngữ đƣợc làm thành bởi một dây chuyền của các phƣơng tiện thế có hai trắc diện”. (trục dọc và trục ngang D.Q.B) (R. Harweg, 1968). 12
  14. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 4. “Chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học (translinguistique) là diễn ngôn (discourse)- tƣơng tự với văn bản (texte) do ngôn ngữ học nghiên cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy còn là sơ bộ ) nhƣ là một đoạn lời nói hữu tận bất kì, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội dung, đƣợc truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp, và có một tổ choc nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hoá khác nữa, ngoài những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ (langue)” (Barthes, 1970). 5. “Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó không phảI là một đơn vị ngữ pháp loại nhƣ một mệnh đề hay một câu; mà nó cũng không đƣợc xác định bằng kích cỡ của nó […] Một văn bản không phải là một cái gì loại nhƣ một câu, chỉ có điều là lớn hơn; mà nó là một cái khác với một câu về mặt chủng loại. Tốt hơn nên xem xét một văn bản nhƣ là một đơn vị nghĩa: một đơn vị không phải của hình thức mà là của ý nghĩa.” (Halliday, 1976- 1994). 6. “Văn bản có thể định nghĩa là điều thông báo viết có đặc trƣng là tính hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và thái độ nhất định của các tác giả đối với điều đƣợc thông báo […] Về phƣơng diện cú pháp, văn bản là một hợp thể nhiều câu (ít khi là một câu) liên kết với nhau bởi ý và bằng các phƣơng tiện từ vựng- ngữ pháp”. (L.M. Loseva, 1980). 7. “Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu- phần tử, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và 13
  15. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lƣới của những quan hệ và liên hệ ấy”. (Trần Ngọc Thêm, 1985). 8. “Văn bản là một chuỗi ngôn ngữ giải thuyết đƣợc ở mặt hình thức, bên ngoài ngữ cảnh”, (Cook, 1989). 9. “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên dƣới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, đƣợc nhận dạng vì những mục đích phân tích. Nó thƣờng là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức năng giao tiếp có thể xác định đƣợc ví dụ nhƣ một cuộc thoại, một tờ áp phích”. (D. Crystal, 1992). 10. “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ đƣợc nhận biết là trọn nghĩa, đƣợc hợp nhất lại và có mục đích”. (Cook, 1992). 11. “Diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thƣờng cấu thành một chỉnh thể có tính mạch lạc, kiểu nhƣ một bài diễn thuyết giáo, tranh luận, truyện vui hoặc truyện kể”. (Crystal, 1992). 12. “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn S1,…, Sn, trong đó việc giải thuyết nghĩa của mỗi phát ngôn Si (với 2 ≤ i ≤ n) lệ thuộc vào sự giải thuyết những phát ngôn trong chuỗi S1, …, Si- 1. Nói cách khác, sự giải thuyết thoả đáng một phát ngôn tham gia diễn ngôn đòi hỏi phải biết ngữ cảnh đi trƣớc”. (I.Bellert, 1971). 13. “Chúng ta sẽ sử dụng văn bản nhƣ một thuật ngữ chuyên môn, để nói đến việc ghi lại bằng ngôn từ của một hành động giao tiếp”. (G. Brown và G. Yule, 1983). 14. “… tôi sẽ sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp” (D. Nunan, 1993). 14
  16. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao 15. Văn bản: 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do cấu trúc, đề tài- chủ đề v.v… của nó, hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng v.v…2. Văn học. Trƣớc hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa với sách, […] 3. Trong PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN, đôi khi đƣợc đánh đồng với ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì đƣợc dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn đƣợc dùng bao gồm cả văn bản (Bách khoa thư ngôn ngữ và ngôn ngữ học. Chủ biên Asher. Pergamon Press. Tập 10. Phần chú giải thuật ngữ, tr. 5180). Chúng tôi theo cách hiểu của Phạm Văn Tình: Thuật ngữ văn bản (text) (và đi theo nó là các thuật ngữ phân tích văn bản, ngữ pháp văn bản, ngôn ngữ học văn bản,...) lâu nay - đặc biệt là thời kì đầu - thƣờng đƣợc hiểu là các văn bản liên kết chủ yếu mang tính đặc thù của ngôn ngữ viết. Nó thƣờng đƣợc coi là sản phẩm mang dấu ấn của một cá nhân nào đó sáng tạo ra. Nó “đƣợc định nghĩa nhƣ một đơn vị ngôn ngữ học lớn hơn câu hợp thành bởi các câu chữ đƣợc chuẩn hoá. Ngôn ngữ học văn bản đề cập tới các điều kiện ngôn ngữ nội tại góp phần vào việc thiết lập nên văn bản : sự liên kết, tính mạch lạc và cách thức tổ chức” [Asher (Ed.) 1994 : 4578]. Xuất phát từ quan niệm nhƣ vậy nên trƣớc đây, đa số các nhà ngữ học văn bản hầu nhƣ chỉ quan tâm tới các loại hình văn bản đƣợc xây dựng theo những định hƣớng về chủ đề và bố cục nhất định, thoát li khỏi các bối cảnh giao tiếp bằng lời. Còn thuật ngữ diễn ngôn (discourse - còn đƣợc dùng là diễn từ, ngôn bản, ngôn phẩm,...) thƣờng đƣợc hiểu là một chuỗi phát ngôn đƣợc thực hiện trong giao tiếp bằng lời. Dĩ nhiên nói nhƣ vậy không hàm ý diễn ngôn chỉ dùng cho các phát ngôn mang tính hội thoại (dialogue), mà còn 15
  17. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao chỉ cả các trƣờng hợp đơn thoại, nhƣ các bài diễn văn, phát biểu, thuyết trình... Tuy nhiên, do đặc thù thể hiện (đƣợc phát âm thành lời), có ngƣời nghe trực tiếp (cử toạ) mà mọi diễn ngôn loại này nói chung thƣờng đƣợc coi là đối tƣợng nghiên cứu của lí thuyết hội thoại [Phạm Văn Tình 2002: 28- 29]. Văn bản nhƣ vậy, có nhiều loại. Những kiểu văn bản này đƣợc phân biệt trên cơ sở sự khác biệt về chức năng, nội dung... bao gồm: văn bản khoa học bao gồm kiểu tự nhiên, kiểu xã hội; văn bản báo chí có: văn bản tin tức (thông tấn), văn bản chính luận, văn bản quảng cáo; văn bản chính luận lại chia ra: kiểu chính trị, kiểu kinh tế, kiểu pháp quyền, kiểu đạo đức, kiểu nghệ thuật, kiểu tôn giáo; văn bản hành chính- công vụ chia ra: kiểu hành chính - giấy tờ (quản lí), kiểu luật pháp, kiểu quân sự, kiểu ngoại giao, kiểu thƣơng mại, kiểu kinh tế, v. v. Mỗi kiểu văn bản lại đƣợc chia ra các thể loại văn bản. Các thể loại văn bản đƣợc phân biệt trên cơ sở sự khác biệt về kết cấu, về tu từ. Ví dụ: kiểu văn bản quân sự chia ra các thể loại: mệnh lệnh, báo cáo, điều lệnh, quy tắc, huấn thị... Với mỗi loại văn bản ấy lại có một loại độc thoại tƣơng ứng: độc thoại mệnh lệnh (các khẩu lệnh quân sự, chẳng hạn), độc thoại quy tắc, độc thoại huấn thị... Nhƣ chúng ta đã biết hình thức độc thoại thƣờng gặp trong mệnh lệnh quân sự, trong diễn văn, trong các bản báo cáo, trong các bài nói của phát thanh viên truyền thanh, truyền hình... Đó là loại độc thoại trình bày, diễn thuyết. Chúng ta còn gặp một loại độc thoại đặc biệt rất phổ biến trong các văn bản nghệ thuật (cụ thể là các tác phẩm văn học) đó là độc thoại nội tâm. Loại độc thoại này đƣợc các nhà văn sử dụng nhƣ một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc nhằm miêu tả chân thực tƣ duy, tình cảm, thái độ.... của các nhân vật. Nhà văn hoà mình, “hoá thân”, sống cùng nhân vật. Từ đó bộc lộ rõ nét bản chất tính cách con ngƣời. 16
  18. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Vậy thì, thế nào là độc thoại nội tâm? Độc thoại nội tâm thƣờng đƣợc dùng trong hoàn cảnh nào? Nhằm mục đích gì? Đó là những vấn đề mà chúng tôi sẽ làm sáng tỏ trƣớc khi tiến hành các bƣớc miêu tả trong luận văn này. 3. Quan niệm về độc thoại nội tâm của luận văn Độc thoại đƣợc hiểu nôm na là nói một mình. Độc thoại tồn tại ở cả dạng nói và dạng viết. Ngôn ngữ độc thoại dù ở dạng nói hay dạng viết đều rất ngắn gọn, cô đọng có logic nhƣng có thể dài dòng, rất chi tiết để cho ngƣời nghe, ngƣời đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt. Độc thoại nội tâm là một loại độc thoại tồn tại chủ yếu trong văn bản nghệ thuật (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, ký sự, bút ký...). Các nhà văn thƣờng sử dụng độc thoại nội tâm nhƣ một thủ pháp nghệ thuật nhằm miêu tả một cách chân thực và sống động bản chất của con ngƣời với lối sống, suy nghĩ, tâm tƣ, tình cảm trong xã hội. Đó chính là bản chất xã hội của ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm, một dạng “nói một mình”, tức nhà văn muốn sử dụng một ngôn ngữ riêng, bỏ qua ngƣời đối thoại trực tiếp nhằm thực hiện ý đồ thể hiện của mình là đào sâu tính cách nhân vật. Đây có thể coi là một “hành vi mƣợn lời” (mƣợn lời nhân vật) để thể hiện dụng ý của nhà văn. Sự hoán vị điểm nhìn làm cho nhân vật đƣợc khai thác sâu hơn khía cạnh tâm lí, diễn biến tƣ tƣởng hành động. Vì vậy, sự tình miêu tả sau đó có sức thuyết phục hơn. Đó cũng là một hƣớng thể hiện “cao tay”, là cái tài của nhà văn. Theo A. Trovenskij, độc thoại nội tâm là “hình thức ngôn ngữ của tƣ duy và ấn tƣợng nhân vật. Trong cấu trúc của nó, có thể xuất hiện hai phƣơng hƣớng, muốn diễn đạt trật tự suy nghĩ và ấn tƣợng nhân 17
  19. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao vật, phản ánh chúng trong những hình thức giao tiếp” [Dẫn theo Nguyễn Thị Tuyết Mai, Báo cáo khoa học, Viện Ngôn ngữ học 2003]. Độc thoại nội tâm thƣờng liên quan tới cuộc sống thƣờng nhật, về bản thân, về xã hội, về gia đình, bạn bè... ở khía cạnh những toan tính, suy nghĩ, tâm tƣ, tình cảm mà ngƣời khác không thể biết. Theo nghĩa từ điển thì độc thoại nội tâm nghĩa là lời nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật tự nói với mình về bản thân mình. Theo chúng tôi hiểu thì độc thoại nội tâm là dòng suy nghĩ của con ngƣời thể hiện những tâm tƣ, tình cảm, trạng thái tâm lý thầm kín, không phát ra thành lời. Trong văn bản nghệ thuật, độc thoại nội tâm đƣợc thể hiện bằng thứ ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên (có sự bố trí, sắp đặt để đạt mục đích riêng của nhà văn). Vì thế các phát ngôn trong các đoạn độc thoại nội tâm có thể chƣa thành câu (đoản ngữ động từ, đoản ngữ danh từ…), có thể là câu (câu đơn, câu phức). Vì là lời của con ngƣời tự nói với mình mà ngƣời khác không thể biết nên độc thoại nội tâm chính là hình thức giao tiếp một chiều. Vì thế khi nghiên cứu về độc thoại nội tâm chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố liên quan đến con ngƣời và xã hội nhƣ tâm lí, phong tục, văn hoá, dân tộc... Độc thoại nội tâm là một loại độc thoại nên nó cũng mang đầy đủ những tính chất, đặc thù của độc thoại thông thƣờng. Ngoài ra nó còn có những đặc điểm riêng cả về cấu trúc, hình thức tổ chức độc thoại, thậm chí cả về ngôn ngữ. Chính vì độc thoại nội tâm mang màu sắc cá nhân nên ngôn ngữ theo đó cũng có những nét riêng theo từng cá nhân. Độc thoại nội tâm là dòng suy nghĩ “chảy âm thầm trong óc” con ngƣời nó không đƣợc thể hiện bằng âm thanh nhƣng khi đƣợc thể hiện dƣới dạng viết nó mang đậm tính khẩu ngữ tự nhiên của con ngƣời. Mà theo quan điểm của 18
  20. LUẬN VĂN THẠC SỸ Cấu trúc độc thoại trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao Ngữ dụng học thì đó là thứ ngôn ngữ xã hội sinh động và cũng rất chuẩn mực. Nó phản ánh bản chất sâu xa của những hiện tƣợng ngữ nghĩa- ngữ dụng của ngôn ngữ. Dĩ nhiên, nó phải tuân thủ nguyên tắc thể hiện mà mọi ngôn ngữ đang hành chức. Nhà văn cũng qua những dòng độc thoại nội tâm đó mà phản ánh đƣợc hết sức trung thực những đặc điểm của phƣơng ngữ từng vùng cũng nhƣ phong tục, văn hoá của từng vùng. Ngôn ngữ của độc thoại nội tâm cũng là thứ ngôn ngữ đƣợc xã hội hoá cao độ, mang tính chất chuẩn mực nhƣng đƣợc khoanh vùng ở từng địa phƣơng cụ thể. Nhƣ vậy ngôn ngữ độc thoại nội tâm tuân theo những quy tắc, những chuẩn mực của phƣơng ngữ từng vùng. Đó chính là đặc điểm nổi bật của hình thức thể hiện của ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong văn bản nghệ thuật. Độc thoại nội tâm không giới hạn về không gian và thời gian. Nó thƣờng xuất hiện sau mỗi biến cố, mỗi sự kiện xảy ra trong văn bản nghệ thuật. Do mang đặc thù của độc thoại (hình thức giao tiếp một chiều), độc thoại nội tâm không có sự tƣơng tác qua lại. Về kết cấu và cách thức thể hiện nội dung trong độc thoại nội tâm cũng có những đặc thù riêng biệt. Có những lời độc thoại nội tâm đƣợc thể hiện bằng cả một đoạn văn dài với sự liên kết chặt chẽ (cả về nội dung lẫn hình thức) của nhiều phát ngôn. Nhƣng cũng có những lời độc thoại chỉ là một phát ngôn và phát ngôn này là kết quả của một loạt sự tình đã đƣợc nêu ra từ trƣớc....Ở đây chúng tôi đề nghị gọi những cấu trúc, tổ chức các phát ngôn độc thoại là các đoạn văn độc thoại nội tâm hay là các đoạn độc thoại nội tâm. Khái niệm đoạn văn đƣợc hiểu theo quan điểm: “Đoạn văn còn đƣợc dùng để chỉ một phần trích bất kì, mà xét trong quan hệ với toàn văn bản chứa nó thì nó tỏ ra là không hoàn toàn độc lập…Khi phần trích 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
39=>0