intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Hành động bác bỏ trong tiếng Việt

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

109
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Hành động bác bỏ trong tiếng Việt bao gồm những nội dung về những cơ sở lý thuyết; hành động bác bỏ trong tiếng Việt và vấn đề lịch sự, vấn đề lập luận; phương thức, phương tiện biểu hiện của hành động bác bỏ trong tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Hành động bác bỏ trong tiếng Việt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Vũ Thị Kỳ Hương HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 66 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Giao tiếp là hoạt động đặc trưng của con người, là cách thức để các cá nhân trong cộng đồng gắn kết và phát triển. Trong xã hội hiện đại, giao tiếp ngày càng đóng vai trò quan trọng. Cùng với sự phát triển không ngừng của các liên ngành và một số phân ngành ngôn ngữ học như Ngôn ngữ học tâm lý, Ngôn ngữ học xã hội, Ngôn ngữ học tri nhận, Ngữ dụng học v.v…, việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giao tiếp trở thành một yêu cầu cấp thiết không chỉ của lý thuyết các ngành khoa học mà còn của nhu cầu thực tế. Hành động bác bỏ là một trong những hành động giao tiếp phổ biến và thông dụng của con người. Nó thúc đẩy tính hiệu quả và chuyển tải mong muốn đạt được một nhu cầu nào đó trong giao tiếp. Do đó, nghiên cứu loại hành động này sẽ có nhiều ý nghĩa thực tiễn và lý luận hữu ích để nghiên cứu các vấn đề khác có liên quan của hoạt động giao tiếp. Mặt khác, xã hội càng phát triển, các mối quan hệ giao tiếp liên nhân ngày càng trở nên phong phú về nội dung, phức tạp về cấu trúc, đa dạng về hành vi, đòi hỏi mỗi một cá nhân cần phải biết cách vận dụng để xử lý khéo léo các nguồn thông tin được tiếp nhận. Bên cạnh hành động chấp thuận, đồng tình được sử dụng một cách dễ dàng, tự nhiên, hành động bác bỏ lại chứa đựng nhiều yếu tố tinh tế, phức tạp. Đây là hành động giao tiếp cần thiết trong các cuộc hội thoại; nắm vững và sử dụng nhuần nhuyễn những hành động ngôn từ này sẽ giúp người giao tiếp đạt được hiệu quả giao tiếp cao hơn. Vấn đề nghiên cứu hành động bác bỏ thực ra không còn quá mới mẻ. Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn mang tính chất riêng lẻ, chỉ xuất hiện rải rác trong những công trình nghiên cứu về ngữ pháp học, ngữ dụng học. Trên cơ sở sự quan tâm sẵn có đối với đề tài, thực trạng nghiên cứu hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện về vấn đề này, chúng tôi đã chọn hành động bác bỏ tiếng Việt làm đề tài cho luận văn cao học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là những hành động bác bỏ được sử dụng trong môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong hội thoại giữa người và người. Để củng cố thêm những nhận định và tính xác thực, chúng tôi sử dụng hệ thống dữ liệu trong các văn bản hội thoại hiện đại, các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài của một số tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, môi trường giao tiếp không chỉ đơn thuần liên quan tới yếu tố ngôn ngữ, mà còn có thể xuất hiện một số yếu tố phi ngôn ngữ khác như điệu bộ, cử chỉ, hành động nên những hành động thể hiện nhận định hoặc hành động bác bỏ phi lời cũng là đối tượng nghiên cứu bổ sung của chúng tôi.
  3. Do giới hạn của đề tài, chúng tôi không đi sâu vào việc đi tìm đặc trưng văn hóa trong hành động bác bỏ, hay đối chiếu hành động bác bỏ giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau mà chỉ tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu những phương thức, phương tiện bác bỏ đặc trưng được sử dụng phổ biến trong tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi cũng cố gắng đi tìm một quan niệm thống nhất về hành động bác bỏ vốn đang ít nhiều gây tranh cãi trong giới ngôn ngữ học ngày nay. 3. Lịch sử vấn đề Trước khi đi vào tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề hành động bác bỏ, chúng tôi không thể không đề cập đến lịch sử nghiên cứu hành động ngôn ngữ - tiền đề lý thuyết quan trọng nhất của đối tượng nghiên cứu. Lý thuyết hành động ngôn từ, hay còn gọi là lý thuyết hành động lời nói được đánh cột mốc ra đời kể từ công trình nghiên cứu “Những cơ sở lý thuyết của ký hiệu” (1938) của nhà ký hiệu học Mỹ Charles W. Morris. Lần đầu tiên ông đã xem xét ký hiệu trên ba bình diện: Kết học, Nghĩa học và Dụng học (tức Ngữ dụng học). Tuy nhiên, Ngữ dụng học chỉ phát triển rực rỡ trong vòng ba thập niên gần đây. Sự phát triển của nó kéo theo sự phát triển của các lý thuyết mới như Lý thuyết hành động ngôn từ. Nếu Morris là người khởi xướng những tiền đề nghiên cứu thì chính John L.Austin là người đã xây dựng nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ với công trình được công bố sau khi ông qua đời hai năm “How to do things with words”. Tên gọi của công trình đã hé mở cho chúng ta thấy lý thuyết hành động ngôn từ chính là lý thuyết về các hoạt động ngôn ngữ, trong đó, tác giả đã điều chỉnh lại một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói vốn được tách bạch từ thời của Ferdinand de Saussure. Hành động bác bỏ được Austin xếp vào lớp lớn thứ năm trong năm lớp lớn: 1. Phán xét; 2. Hành xử; 3. Cam kết; 4. Ứng xử; 5. Bày tỏ. Ông coi bác bỏ, cũng như khẳng định, phủ định, giải thích, minh họa, báo cáo, luận điểm…là những hành động dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt các lập luận, giải thích từ ngữ, đảm bảo sự quy dẫn. Sự phân loại này, ngay chính Austin cũng cảm thấy còn có những điều không thỏa mãn, có chỗ chồng chéo, có chỗ mơ hồ không rõ ràng. Searle bằng cách bổ sung thêm tiêu chí về nội dung, lại phân chia hành động bác bỏ này vào lớp thứ ba được gọi là lớp chi phối, song song với các hành động như mệnh lệnh, thách thức, hỏi, yêu cầu, đề nghị v.v… Từ thời Aristotle, hành động phủ định, bác bỏ đã được chú ý nghiên cứu, nhưng dưới góc nhìn của của Triết học và Logic học. Phải đến những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, hành động
  4. bác bỏ mới được xem như một trong những đối tượng nghiên cứu của Ngữ dụng học- một phân ngành của Ngôn ngữ học và dần được đề cập trong các công trình nghiên cứu độc lập. Panfilov trong công trình Grammar and Logic đã tiến hành khảo sát hành động phủ định theo hướng logic-cú pháp và nhận định sự phủ định như một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát. A. M. Peshkovsij là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ câu phủ định toàn bộ và phủ định bộ phận. Ông cho rằng câu phủ định toàn bộ là câu mà vị ngữ bị phủ định, câu phủ định bộ phận là câu mà những bộ phận khác bị phủ định. Tại Việt Nam, trước đó trong ngôn ngữ học truyền thống, câu biểu thị hành động bác bỏ được xem như một dạng câu song song bên cạnh những dạng như miêu tả, khẳng định, trần thuật…, đôi khi nó được đồng nhất với câu phủ định. Lúc bấy giờ, câu chỉ được đánh giá là đúng hay sai về mặt ngữ nghĩa theo tiêu chuẩn logic, và được phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở cấu trúc hoặc những khái niệm về chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ v.v… Những trợ từ, tiểu từ bị xem nhẹ và được coi là những từ hư. Vì thế, những dạng câu như: - Con ở nhà. - Con ở nhà chứ bộ. - Con ở nhà mà. đều được coi là đồng nhất về cấu trúc và ngữ nghĩa. Do đó, các công trình nghiên cứu về hành động bác bỏ theo quan điểm này hầu không có nhiều ý nghĩa, vì phần đông các câu có hành động bác bỏ, hoặc bị đồng nhất vào những kiểu cấu trúc nhất định, hoặc không được nghiên cứu đến. Sau này, khi đối tượng nghiên cứu được tiếp cận dưới những nền tảng lý thuyết mới của logic học, ngữ dụng học, hành động bác bỏ dần được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Hầu hết các công trình ngữ pháp, ngữ nghĩa trong giới Việt ngữ học đều đề cập ít nhiều đến một đối tượng rất gần gũi và có khi thống nhất với hành động bác bỏ là câu phủ định. Từ Trần Trọng Kim, Lê Văn Lý, Hoàng Tuệ, Nguyễn Đức Dân, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê… tới Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thị Hai… đều đề cập đến đối tượng nghiên cứu này. Công trình nghiên cứu có ý nghĩa lý thuyết quan trọng phải kể đến là bài viết “Phủ định và bác bỏ” của Nguyễn Đức Dân đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 1-1983 và sau này được đề cập hoàn chỉnh hơn trong công trình Logic- Ngữ nghĩa- Cú pháp. Tác giả là người đầu tiên có xu hướng xác định ranh giới giữa phủ định và bác bỏ, phần nào phá bỏ thế nhập nhằng trước đây về hai loại hành động này. Các tác giả khác, với những cách tiếp cận khác nhau, ít nhiều đề cập đến những mặt đa
  5. diện về phương thức và cách thức của loại hành động này. Tiêu biểu có Hành động từ chối trong tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Thị Hai, Cách biểu hiện hành động từ chối lời cầu khiến bằng các phát ngôn lảng tránh của Trần Chi Mai. Một số khác lại chú trọng vào việc nghiên cứu chiến lược dùng trong giao tiếp như Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt của Nguyễn Quang Ngoạn, Một số kiểu hồi đáp tích cực của hành vi chê của Nguyễn Thị Hoàng Yến. Đi theo con đường đối chiếu có các tác giả như Dương Bạch Nhật, Siriwong Hongsawan. Nếu Dương Bạch Nhật chỉ tiến hành đối chiếu một khía cạnh nhỏ của hành động bác bỏ (khía cạnh lịch sự trong từ chối lời mời) thì Siriwong Hongsawan trong bài báo “Đối chiếu hành động bác bỏ gián tiếp thông qua hàm ý trong giao tiếp tiếng Thái và tiếng Việt” đã chủ trương đi sâu nghiên cứu phương thức bác bỏ bằng hàm ý, cụ thể ở đây là đối chiếu giữa tiếng Thái và tiếng Việt. Vấn đề của lập luận và lịch sự cũng được khá đông các nhà nghiên cứu quan tâm như Nguyễn Đức Dân, Lê Thị Kim Đính, Lê Tô Thúy Quỳnh, Dương Bạch Nhật, Nguyễn Như Ý, Nguyễn Thị Hoàng Yến… Ngoài các công trình dưới dạng sách, báo, tạp chí, một số luận án, luận văn cao học viết về bác bỏ, lập luận, lịch sự cũng đã xuất hiện. Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy, hành động bác bỏ không phải là một đề tài mới mà đã được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận ở các góc độ cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào xem xét hành động này một cách toàn diện dưới góc độ Ngữ dụng học, và tìm hiểu đầy đủ những phương thức và phương tiện biểu hiện hành động này. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi quyết định bắt tay vào thực hiện đề tài. 4. Các phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, ngoài những thủ pháp, phương pháp nghiên cứu khoa học chung như thu thập ngữ liệu, phân loại ngữ liệu…, luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau. - Phương pháp phân tích ngữ dụng học. Trên cơ sở nguồn dữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành thao tác phân tích từng cơ sở dữ liệu về các mặt như mục đích phát ngôn, hành động ngôn từ, hình thức biểu hiện, ngữ cảnh v.v… nhằm đem lại những nhận định có tính xác thực và khái quát nhất của từng vấn đề. Đây cũng là cơ sở giúp chúng tôi tiến hành xây dựng các biểu thức bác bỏ thông qua hệ thống dữ liệu thu thập được. - Phương pháp miêu tả. Vì đối tượng nghiên cứu là dạng hành động ngôn từ phổ biến và tồn tại trong giao tiếp, do đó trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phải tiến hành mô tả các dạng hành động bác bỏ từ hiện tượng tới bản chất, những nội dung rút ra từ miêu tả sẽ là cơ sở để chúng tôi xây dựng các tiêu chí phân loại cũng đồng thời giúp chúng tôi giải thích, minh họa cho các nhận định của mình.
  6. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. Chúng tôi tiến hành so sánh - đối chiếu trên cơ sở dữ liệu và giữa các quan điểm nghiên cứu. Đối với dữ liệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu từng dữ liệu với nhau, hoặc giữa nhóm dữ liệu này với nhóm dữ liệu khác, từ đó tìm ra những điểm khác biệt hoặc tương đồng về hình thức hoặc nội dung, trên cơ sở đó có thể rút ra các nhận định cần thiết. Việc đối chiếu bổ sung với một số hành động bác bỏ của các nền văn hóa khác cũng là một cách thức để chúng tôi đi tìm bản sắc riêng trong hành động bác bỏ của tiếng Việt. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài a) Ý nghĩa khoa học - Vận dụng những thành tựu về lý thuyết ngữ dụng học nói chung và lý thuyết hành động ngôn từ, lý thuyết hội thoại, lý thuyết lập luận nói riêng vào việc khảo sát một hành động ngôn từ cụ thể là hành động bác bỏ trong tiếng Việt. - Xác định rõ khái niệm bác bỏ, phân biệt với các hành động ngôn từ khác trong giao tiếp. - Kết quả của luận văn có thể góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý thuyết như phương thức bác bỏ, mối quan hệ giữa hành động bác bỏ với vấn đề lập luận, vấn đề lịch sự. b) Ý nghĩa thực tiễn - Luận văn có thể là tài liệu hỗ trợ cho quá trình học và dạy tiếng Việt trong nhà trường. - Luận văn có thể là tài liệu tham khảo về các chiến thuật trong giao tiếp, về hành động bác bỏ. - Hệ thống cứ liệu, tuy không đồ sộ về quy mô, nhưng đã được chọn kỹ lưỡng để người đọc có thể hình dung về các phương thức, cách bác bỏ khác nhau trong tiếng Việt. - Tư liệu và nội dung của luận văn này, có thể là tài liệu tham khảo cho các công trình khác liên quan về ngữ dụng học, đặc biệt là các công trình có liên quan tới hành động bác bỏ. 6. Bố cục của luận văn Luận văn bao gồm 133 trang chính văn, một danh mục các tài liệu tham khảo và tài liệu trích dẫn, một phụ lục gồm 70 trang. Phần nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương. Chương Một có tiêu đề Những cơ sở lý thuyết. Trong chương này, luận văn trình bày ba vấn đề lớn: lý thuyết hành động ngôn từ; lý thuyết hội thoại; tổng quan về hành động bác bỏ bao gồm các tiêu chí phân biệt bác bỏ và phủ định, khái niệm, mục đích của hành động bác bỏ.
  7. Chương Hai có tiêu đề Hành động bác bỏ trong tiếng Việt và vấn đề lịch sự, vấn đề lập luận. Chương này nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa bác bỏ và lịch sự, bác bỏ và lập luận, cách thức để tăng hiệu quả và thể hiện sự lập luận cũng như lịch sự trong bác bỏ. Chương Ba có tiêu đề Phương thức, phương tiện biểu hiện của hành động bác bỏ trong tiếng Việt. Chương này nghiên cứu về những phương thức thực hiện hành động bác bỏ, và các phương tiện hình thức và biểu thức được sử dụng để bác bỏ.
  8. Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ 1.1.1. Khái niệm hành động ngôn từ Hoạt động giao tiếp là hoạt động có tính chất liên nhân diễn ra hai chiều: liên hệ xuôi từ người phát tới người nhận, và liên hệ ngược từ người nhận đến người phát. Nếu chỉ có một nửa quá trình thì sẽ không tạo thành hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ phục vụ cho việc giao tiếp như một cách thức chuyển tải thông điệp và tạo hành động, do đó nó luôn chịu ảnh hưởng của người khác ngoài chủ thể giao tiếp, đồng thời cũng mang tính quy ước xã hội sâu sắc. Mối liên hệ giữa hành động ngôn từ và hành động của con người mang tính hiển nhiên, không thể bỏ qua và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên quan, đặc biệt trong ngữ dụng học, vấn đề này là một đối tượng nghiên cứu quan trọng. Người ta cho rằng người đặt tiền đề, đi tiên phong cho lý thuyết này là nhà triết học người Áo L.Wittgenstein với quan niệm đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và coi việc sử dụng ngôn từ như một loại hành động. Nếu L.Wittgenstein là người đặt tiền đề thì chính J. Austin và J. Searle là người đã đặt nền móng vững chắc cho đối tượng nghiên cứu này. Các ông tin rằng ngôn ngữ không chỉ được dùng để thông báo hay miêu tả cái gì đó mà nó thường được dùng để “làm cái gì đó”, để thực hiện hành động. Với công trình nghiên cứu “How to do thing with words”, J. Austin đã bày tỏ quan điểm “To say is to do something”, (nói là làm). Ông cho rằng để thực hiện một hành động ngôn từ thì việc nói ra điều đó phải đi với việc làm một điều gì đó, tức phải tác động một điều gì đó vào thực tế. Từ luận điểm trên, lý thuyết về hành động ngôn từ đã dần được xây dựng. Khi chúng ta nói một câu, nghĩa là chúng ta thực hiện một hành động nào đó, chẳng hạn như cầu khiến, van xin, bác bỏ, chúc mừng, tuyên bố… Chúng được xem là những hành động ngôn từ và được thực hiện bằng ngôn từ. Ví dụ 1 - Con chào mẹ ạ. - Tôi tuyên bố khai mạc hội nghị. - Tôi chúc anh sớm khỏi bệnh.
  9. Dễ dàng nhận ra đây là những câu chào, câu tuyên bố, câu chúc phổ biến. Chính những động từ như “chào, tuyên bố, khuyên” đã thể hiện lần lượt các hành động trên. Người ta gọi những động từ này là động từ ngữ vi (hay ngôn hành). J. Austin đã coi hành động ngôn từ là một thể thống nhất của ba loại hành động: hành động tạo lời; hành động tại lời; hành động mượn lời, hay còn gọi là hành động sau lời. Cái khó trong lý thuyết hành động ngôn từ là một phát ngôn thường không chỉ thực hiện một hành động mà thực hiện hai hoặc ba hành động và không phải bao giờ cũng dễ dàng quyết định được là phát ngôn ấy thực hiện hành động nào hoặc những hành động nào bởi vì nội dung của hành động có khi không phụ thuộc vào bản thân nội dung phát ngôn mà còn tùy thuộc vào văn cảnh nơi phát ngôn nảy sinh. Ví dụ 2 Đứa con mới đi học về: - Thưa mẹ, con mới về ạ. Hình thức là một câu thông báo sự tình, tuy nhiên, mục đích của phát ngôn trên không chỉ là đưa ra một thông báo, mà đó là một lời chào lễ phép của người nhỏ tuổi so với người lớn tuổi. 1.1.2. Các hành động ngôn từ Phân tích cụ thể hơn, hành động ngôn từ bao gồm những hành động cụ thể như sau. (1) Hành động tạo lời Đây là hành động sử dụng các chất liệu vật chất tạo nên ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… để tạo nên một câu nói. Đây là một hành động thuần tính vật chất. (2) Hành động tại lời Hành động tại lời, hay còn được gọi là hành động ngôn trung là những hành động phát ra một câu với nghĩa và sở chỉ xác định. Thực hiện hành động này tức là nói một điều gì đó và thực hiện nó. Nó có thể tạo ra một lời tuyên bố, một lời chào, lời hứa… khi phát ra một câu nhờ hiệu lực của những quy ước liên quan tới nó. J. R. Searle khi nghiên cứu về hành động ngôn từ lại đặc biệt quan tâm đến người nói và điều được nói. Dựa trên quan điểm và khắc phục những hạn chế trong lý thuyết của J. Austin, ông đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Ông cho rằng: “Một hành động ngôn từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một hành động ngôn từ khác”. Nói cách
  10. khác, một hành động tại lời được thực hiện gián tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác với hai đặc điểm như sau. - Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những hành động tại lời khác nhau. - Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp khác nhau. Ví dụ 3 - Bố tôi sắp về rồi. Anh làm ơn đi ngay được không? Ở ví dụ trên, hành động tại lời là hỏi, nhưng mục đích chính là để đề nghị, yêu cầu: Anh hãy đi ngay đi. J. R. Searle đưa ra 12 tiêu chí phân loại hành động ngôn từ, trong đó có 3 tiêu chí quan trọng nhất như sau. - Mục đích của hành động tại lời. - Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực. - Trạng thái tâm lý được biểu hiện. Dựa theo đó, ông đã phân chia hành động ngôn từ ra làm 5 loại. a) Khẳng định - Mục đích của hành động tại lời: người nói phải chịu trách nhiệm về những giá trị chân lý của mệnh đề được biểu đạt. - Hướng thích nghi: từ hiện thực tới lời lẽ. - Trạng thái tâm lý: tin tưởng vào tính đúng đắn, giá trị chân lý của điều được nói ra. b) Cầu khiến - Mục đích của hành động tại lời: nhằm để người tiếp nhận làm một việc gì đó. - Hướng thích nghi: lời lẽ có trước, hiện thực thay đổi theo lời lẽ, do người tiếp nhận thực hiện. - Trạng thái tâm lý: người nói mong muốn điều mình cầu khiến sẽ được thực hiện. c) Hứa hẹn - Mục đích của hành động tại lời: người nói tự gán trách nhiệm cho mình là phải thực hiện một hành động nào đó đã cam kết trước đó.
  11. - Hướng thích nghi: từ lời nói tới hiện thực đều do người nói thực hiện. - Trạng thái tâm lý: khi hứa hẹn trạng thái tâm lý không xác định, phụ thuộc vào từng hành động hứa cụ thể. d) Bày tỏ - Mục đích của hành động tại lời: bày tỏ một trạng thái tâm lý nào đó. - Hướng thích nghi: người nói làm cho lời lẽ thích nghi với hiện thực. Hiện thực xảy ra trước, lời lẽ làm cho thích nghi. - Trạng thái tâm lý: không xác định, phụ thuộc vào hành động ngôn từ. e) Tuyên bố - Mục đích của hành động tại lời: gây ra một sự thay đổi nào đó bằng lời tuyên bố. - Hướng thích nghi: từ lời lẽ tới hiện thực, hiện thực xảy ra ngay sau khi hành động ngôn từ được thực hiện. - Trạng thái tâm lý: không xác định được nhưng các yếu tố của thể chế làm cho hành động ngôn từ của người nói có giá trị. (3) Hành động mượn lời Hành động mượn lời là hành động thông qua câu nói, người nói tác động đến tư tưởng, tình cảm… của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận ra ngay mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác nhau. 1.1.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ Việc sử dụng lời nói trong hoạt động ngôn từ sẽ phải chịu những sự chi phối nhất định mà L.Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn ngữ”, và J. Austin đưa ra quan điểm “nói là làm”, tức sử dụng âm thanh để bộc lộ ra một nội dung hành động nào đó. Để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người nói cần quan tâm đến các điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ, bởi để hành động được thực hiện thì mỗi hành động ngôn từ phải có những điều kiện nhất định. Muốn cho người nghe thực hiện một hành động nào đó theo đúng như mong muốn, suy nghĩ của mình thì người nói phải lựa chọn cách nói làm sao để người nghe không chỉ hiểu mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri nhận được đích ngôn trung. Đối với hành động ngôn từ tạo lời, các điều kiện sử dụng của nó liên quan đến ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của một ngôn ngữ cấu tạo nên lời nói và có thể hiểu được đối với người nghe.
  12. Người nói, khi phát ngôn, buộc phải tôn trọng tính hình thức và các quy tắc kết hợp của một ngôn ngữ cụ thể. Đồng thời, cả hai bên đều phải có khả năng tiếp nhận và tạo thông tin, không bị những hạn chế sinh lý như câm hay điếc hay không hiểu các mã ngôn ngữ mà cộng đồng tại nơi đó quy định. Chẳng hạn, nếu ta đi ra nước ngoài và muốn trao đổi thông tin nào đó với người nước ngoài (mua bán hay trao đổi hàng hóa v.v…), ta buộc phải hiểu rõ và sử dụng được những chất liệu ngôn ngữ và các cách thức kết hợp đặc trưng chúng lại với nhau, khi đó hành động tạo lời mới có kết quả. Đối với hành động tại lời, các hành động tại lời bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng vì vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng riêng mà Austin gọi là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này, Searle chia ra làm ba loại chính như sau. - Điều kiện ban đầu: liên quan đến quan hệ của hai người, người nói và người nghe, tới những ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe. - Điều kiện chân thành: còn gọi là điều kiện hiện thực. Tập trung chủ yếu nói đến trạng thái tâm lý của hành động mà người nói thực hiện. Yếu tố chân thành ở đây liên quan tới trạng thái tâm lý đặc trưng, khác với điều kiện chân thực về mặt logic tức tính đúng sai của mệnh đề được nói ra. Thông báo một điều gì đó cho người khác là phải tâm niệm rằng thông tin đó là sự thật. Ra lệnh không chỉ là ép buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp hành. Dùng câu hỏi để tìm hiểu những thông tin mình chưa biết và thật sự muốn được biết về thông tin đó chứ không phải là hỏi để xã giao, lấy lệ, hay mỉa mai, thực hiện hành động mời mọc thì phải thực sự mong muốn người đối thoại tiếp nhận lời mời của mình. - Điều kiện căn bản: là những điều kiện về trách nhiệm, sự ràng buộc với người nói hoặc người nghe khi hành động đã được thực hiện. Đối với hành động ra lệnh, trách nhiệm thuộc về người nhận lệnh. Đối với hành động mời mọc, điều kiện thiết yếu là người nghe sẵn sàng chấp nhận lời mời mọc. Đối với hành động khuyên răn, điều kiện thiết yếu là người nghe nhận thấy rõ giá trị của những lời khuyên răn và thực hiện một cách chủ động, tâm phục khẩu phục lời khuyên ấy. Trong hành động ngôn từ, tính cộng đồng không chỉ ảnh hưởng tới những yếu tố vật liệu tạo nên ngôn ngữ, mà còn là một cách thức để hiểu rõ đích ngôn trung của lời nói. Ví dụ 4 Hai cách thức hội thoại thể hiện một đích ngôn trung mời mọc, thúc giục người cùng bàn hãy ăn uống thoải mái, tự nhiên của người Việt Nam và người Trung Quốc. Người Việt: Ăn tự nhiên nhé.
  13. Người Trung: Nĩmen màn chi. Dịch sát nghĩa bề mặt của câu chữ, câu tiếng Trung có ý đối nghịch với câu tiếng Việt. “Màn” có nghĩa là chậm, do đó, có thể hiểu là các bạn hãy ăn với tốc độ chậm lại, nhìn ở một phương diện cụ thể, là đối ngược với cách thức ăn “tự nhiên” trong câu tiếng Việt, tức cứ ăn nhiều, ăn thoải mái. Tuy nhiên, đích ngôn trung cuối cùng trong câu tiếng Trung lại thống nhất với câu tiếng Việt, biểu lộ ý ngược lại nghĩa thực trên bề mặt câu chữ, là mời mọc các bạn hãy cứ ăn uống tự nhiên đi. Do đó, trong khi thực hiện các hành động ngôn từ, ta không thể bỏ qua các yếu tố ngữ cảnh xung quanh, bao gồm yếu tố về môi trường, văn hóa và đặc trưng cộng đồng nơi câu nói được thực hiện. Dễ dàng nhận thấy hành động ngôn từ trong hoạt động giao tiếp nói chung, và đặc biệt hay được nhắc tới trong các tác phẩm văn chương, thường bao hàm hai tầng ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là “ý tại ngôn trung” tức ý ở trong lời, là ý tường minh của phát ngôn, được nói ra trực tiếp nhờ các yếu tố ngôn ngữ như từ vựng, ngữ âm, câu, văn bản… Ý nghĩa thứ hai là “ý tại ngôn ngoại” tức ý ở ngoài lời, là những tầng ý nghĩa mà người nghe phải dùng đến các thao tác suy ý và phải dựa vào những yếu tố khác ngoài ngôn ngữ, vào văn cảnh, vào các quy tắc điều khiển hành động ngôn từ, điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại… mới nắm bắt được. Ngoài ra, lý thuyết hành động ngôn từ của Searle còn đề cập đến các điều kiện khác như: điều kiện xuất phát và tới đích, điều kiện nội dung mệnh đề… Những điều kiện này có tác động không nhỏ vào hiệu quả giao tiếp trong hội thoại. 1.2. LÝ THUYẾT HỘI THOẠI 1.2.1. Khái niệm lý thuyết hội thoại Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, là một trong những yếu tố cơ bản dùng để phân tách con người ra khỏi những loại động vật khác trong tự nhiên. Giao tiếp ngôn ngữ có hai dạng: giao tiếp một chiều, hay còn gọi là độc thoại; giao tiếp hai chiều: có bên nói bên nghe và có sự phản hồi ngược trở lại lẫn nhau, đó là hội thoại. Hội thoại là hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người. Vấn đề hội thoại được ngữ dụng học đặc biệt quan tâm. Hội thoại bao gồm ba loại chính. - Song thoại (dialogue) - Tam thoại (trilogue) - Đa thoại (polylogue)
  14. Lý thuyết về hội thoại được các nhà ngôn ngữ học, ngữ dụng học nghiên cứu chủ yếu tập trung vào loại song thoại, vì loại hội thoại này có tính chất bao quát và mang hầu hết những đặc trưng cơ bản của các loại hội thoại còn lại. Song thoại, đa thoại dù xảy ra ở quy mô như thế nào đi nữa, cũng luôn được giữ ở trạng thái song phương đối thoại, tức có song song hai nguồn phát tín hiệu và nguồn tiếp nhận tại cùng một thời điểm nói. 1.2.2. Những đặc điểm khái quát của cuộc hội thoại (1) Những đặc điểm nội tại - Tương tác qua lại: Sacks và Schegloff nêu nguyên tắc: trong cuộc thoại, mỗi lúc có người nói và không nói đồng thời. Những người nói sẽ nói luân phiên nhau. Đó là nguyên tắc luân phiên lượt lời. - Sự liên kết: các lượt lời có liên kết với nhau và tạo ra sự liên kết hội thoại. Đó là nguyên tắc liên kết hội thoại. Nguyên tắc này ảnh hưởng tới sự luân phiên lượt lời. Do đó, luân phiên lượt lời không phải đi theo một thứ tự máy móc đơn thuần, hay lần lượt giữa những người tham gia hội thoại, mà được xác định tự động, tự nhiên giữa những người tham gia trên cơ sở tạo ra những lượt lời có sự liên kết. - Tính mục đích: mọi cuộc thoại đều có mục đích, đều chứa đựng một hoặc nhiều chủ đề. Ở mỗi một cá nhân lại tìm thấy những mục đích riêng. - Tôn trọng nguyên tắc: Muốn cho cuộc thoại thành công, mỗi bên phải tôn trọng nguyên tắc hội thoại và nguyên lý tế nhị. (2) Những đặc điểm bên ngoài Những đặc điểm bên ngoài được thể hiện ở ba phương diện: số lượng, quan hệ và chu cảnh. - Về số lượng người tham dự. Mỗi cuộc thoại đều có một số người nhất định tạo thuận tiện cho sự trao đổi. Số người tham dự hội thoại càng đông, thì tính chất tập trung vào một chủ đề chính và không khí bổ sung, tán thưởng càng rõ nét. - Về quan hệ giữa những người tham dự. Nguyễn Đức Dân cho rằng, “trong hội thoại, nói một cách khái quát, không cần trước một quan hệ cá nhân. Quá trình hội thoại sẽ làm nên quan hệ” (14 – tr.81). Chúng tôi nhận thấy quan hệ cá nhân không quyết định việc xảy ra hay không xảy ra một hoạt động hội thoại, mà nó chỉ ảnh hưởng tới cấu trúc bên trong của cuộc hội thoại: nội dung, không khí hội thoại v.v… - Về chu cảnh của những cuộc hội thoại. Có hai phương diện chính là thời gian và không gian. Về thời gian, những người tham dự có cùng một thời lượng. Thời lượng đó có thể không xác
  15. định, cũng có thể được quy định nghiêm ngặt tùy vào từng ngữ cảnh. Ví dụ, một cuộc họp bình bầu trong công ty có thể kéo dài cả ngày, hoặc một buổi tùy theo sự đơn giản hay phức tạp của những nội dung đang bàn xét, nhưng một buổi làm thủ tục hành chính có thể quy định thời lượng được phép đối với mỗi cuộc hội thoại giữa nhân viên nhà nước và mỗi một công dân. - Về không gian. Có những không gian khác nhau cho mỗi cuộc hội thoại, tuy nhiên, hầu như không có hàng rào về không gian. Cuộc hội thoại có thể diễn ra trực diện khi hai người đối diện nói chuyện trực tiếp với nhau, cũng có thể diễn ra ở một khoảng cách rất xa mà nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, người ta có thể thực hiện được như giữa người và người cách xa nhau nửa vòng trái đất, giữa người ở mặt đất và người ngoài không gian vũ trụ… 1.2.3 Cấu trúc hội thoại (1) Lượt lời Lượt lời được đa số các nhà nghiên cứu coi như một đơn vị của hội thoại. Đó là một lần nói xong của một người trong khi những người khác sẽ không nói, để rồi đến lượt một người tiếp theo nói. Nếu có nhiều người khác nhau nói cùng một lúc, sẽ không xảy ra lượt lời, ngoại trừ những hành vi xưng tụng, thề nguyền trong các lễ nghi tôn giáo. Ví dụ 5 - Tôi nói đồng bào nghe rõ không? - Rõ. (Trích Tuyên ngôn độc lập) Do mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở lượt lời trước đó nên ta có sự luân phiên lượt lời trong cấu trúc hội thoại. Cơ chế hoạt động của chúng chính là sự tranh lời và trao lời. Trao lời là sự chuyển lời tự nhiên có ý thức chủ động của người đang giữ lời. Mỗi một người đều có thể trực tiếp chuyển giao lượt lời cho một đối tượng xác định hoặc không xác định. Trái với trao lời gọi là tranh lời hay ngắt lời, là những lời nói “xen ngang” vào giữa lượt lời của người đang nói. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự nhầm tưởng họ đã nói xong, hoặc một phản ứng tâm lý tức thời (tích cực hay tiêu cực). Lối nói tranh lời liên quan tới văn hóa, tập tục và quy ước của từng dân tộc, chúng thường phản ánh những quan hệ tôn ti, những cương vị nào đó. Ví dụ thầy cô có quyền ngắt lời học sinh, cha mẹ có quyền ngắt lời con, thủ trưởng có quyền ngắt lời nhân viên nhưng hiếm khi có trường hợp ngược lại ngoại trừ cuộc hội thoại đang nằm trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó (quá bức xúc hoặc quá tức giận chẳng hạn). Trong một số ngữ cảnh đặc biệt,
  16. tranh lời là cần thiết và được cho là không vi phạm các nguyên tắc về tính lịch sự, hay chất lượng giao tiếp. Chẳng hạn, trong các phiên tòa tại Mỹ, luật sư bên nguyên, trong quá trình chất vấn nhân chứng, có thể tranh lời nhân chứng ngay tại một nội dung thông tin mà anh ta cho là quan trọng để có thể thuyết phục tòa và bảo vệ ý kiến bào chữa của anh ta. Trong hội thoại, khoảng cách giữa các lượt lời cũng được chú ý làm sao để không quá kéo dài, tạo ấn tượng trống rỗng và ngắt quãng quá trình giao tiếp. Thường khi giai đoạn “im lặng” này kéo dài lâu hơn mức thường lệ, nó lại được xem như một chiến thuật giao tiếp được áp dụng một cách cố ý vào trong quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, nguyên tắc im lặng kiểu Nhật Bản, hoặc kiểu Phần Lan trong đàm phán thương mại thường dễ làm cho người đối thoại cảm thấy bối rối, lúng túng. (2) Mở thoại - thân thoại - kết thoại Mở thoại là những lời nói được sử dụng trong một lúc nào đó để người khác cảm nhận được là sẽ có một hoặc một chuỗi những lời nói tiếp theo. Ví dụ 6 Người vợ nói với chồng: - Anh ạ. Điều đó có nghĩa là người vợ đang có câu chuyện gì đó muốn nói với người chồng. Tuy nhiên, lời mở thoại này có thực sự thành công hay không, tức có hoàn thành được vai trò mở thoại của mình hay không lại còn phụ thuộc vào mức độ sẵn lòng của người tiếp nhận lời mở thoại. Đối với lời mở thoại trên, ba người chồng khác nhau có thể có ba cách phản ứng khác nhau như sau: Người thứ nhất: - Có chuyện gì vậy em? -> Lời mở thoại được xem là thành công, vì người chồng đã chấp nhận lời mở thoại và đang giữ cho cuộc thoại tiếp diễn. Người thứ hai: - Anh đang bận bù đầu đây.-> Lời mở thoại được xem là thất bại, vì người chồng có thái độ bất hợp tác và đã có hành động kết thúc cuộc thoại. Người thứ ba: - Anh đang bận nhưng có chuyện gì quan trọng không hả em? -> Người chồng này có thái độ lấp lửng, nửa muốn tiếp tục cuộc thoại, nửa lại muốn kết thúc cuộc thoại. Thái độ nước đôi
  17. này cho thấy cuộc thoại có tiếp diễn hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào người mở thoại, hay cụ thể hơn, là tầm quan trọng của nội dung vấn để sẽ được người mở lời nói tiếp sau đó trong cuộc thoại. Mở thoại - thân thoại - kết thoại được coi là một cấu trúc hoàn chỉnh, đầy đủ nhất của một cuộc thoại. Tuy nhiên, trong thực tế, các cuộc thoại không phải khi nào cũng diễn ra một cách trình tự và bài bản như vậy. Tùy vào mục đích giao tiếp và nội dung chuyển tải, cuộc thoại có thể đi đến hoàn thiện một quy trình cũng có thể ngắt quãng tại một thời điểm nào đó của cuộc thoại. (3) Cặp thoại Khái niệm cặp thoại được hình thành từ chính bản chất của các lời thoại trong hội thoại. Các hành động ngôn ngữ không đứng biệt lập nhau, hành động này kéo theo hành động kia, lượt lời này tiếp ứng lượt lời kia trong một sự tương tác hội thoại. Chúng ta hay bắt gặp các cặp thoại như sau: hỏi - đáp, chào - chào, đề nghị - đáp ứng, đề nghị - bác bỏ… Sau hoạt động mở thoại, người mở thoại sẽ mong đợi hành động tiếp nối cuộc thoại ngay sau đó. Vai trò của lời mở thoại sẽ là định hướng nội dung ngữ nghĩa cho người thứ hai. Những trường hợp đặc biệt như người ta cố ý vi phạm các phương châm hội thoại sẽ là những trường hợp ngoại lệ không được tính đến ở đây. Lời mở thoại thường là câu hỏi, câu đề nghị, để tương ứng với câu trả lời, câu đồng ý hay bác bỏ tạo thành một cặp thoại tương đối hoàn chỉnh và phổ biến. Trong công trình nghiên cứu mang tên Ngữ dụng học (1988), tác giả Nguyễn Đức Dân có đề cập đến hai yếu tố cấu trúc khác của cuộc thoại là lượt lời ưa dùng và lời chêm xen và coi đó cũng là một chiến thuật giao tiếp. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định trên, và nhận thấy đây cũng là một vấn đề thú vị cần được nghiên cứu trong một dịp khác. Lời chêm xen, trong một số ngữ cảnh đặc biệt, cũng là một cách thức tạo ra sự bác bỏ. Ví dụ 7 Khách: - Cháu ngoan quá, mai cô cho cháu sang nhà chị chơi nhé. Chủ nhà: - Sáng ngày mai hả chị. Để em xem. Linh, sao lại vẽ đầy tường nhà thế kia. Mẹ nhắc hoài mà vẫn chứng nào tật đấy. Đấy chị xem, đi đâu cũng phá thế đấy.
  18. Theo logic thông thường, thì câu trả lời đã có sự xen ngang đột ngột của nội dung và đối tượng tiếp nhận ngôn ngữ. Trong một lượt lời, vừa hướng đến hai cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, đó chính là chiến thuật “một mũi tên trúng hai đích”, vì người mẹ vừa nhắc nhở đứa con, vừa bày tỏ thái độ từ chối không muốn cho đứa bé đi chơi. 1.3. KHÁI NIỆM BÁC BỎ, HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ Bác bỏ là một trong những loại hành động ngôn từ đặc trưng thường được sử dụng phổ biến trong các quá trình giao tiếp. Tuy nhiên, vai trò của nó có phần ít được chú ý hơn so với các hoạt động ngôn từ được phân chia theo mục đích nói khác như nghi vấn, cầu khiến, trần thuật, cảm thán. Trên cơ sở những công trình nghiên cứu trước đây, chúng tôi cố gắng hệ thống một số vấn đề lý thuyết về hành động bác bỏ, làm căn cứ cơ sở cho các bước nghiên cứu cụ thể hơn của chúng tôi ở các phần sau. 1.3.1. Khái niệm Bác bỏ là một phương thức lập luận đã được chú ý ngay từ thời của Aristote. Nó gắn liền với nghệ thuật hùng biện. Bác bỏ có mối quan hệ hữu cơ với lập luận và sự bảo vệ quan điểm của cái tôi. Đó là một hành động phức tạp, phức hợp và có sự liên quan với nhiều hành động khác như cầu khiến, nghi vấn, giải thích, cấm đoán, cảm thán… Chính sự phức tạp nội tại của hành động này, mà người ta khó có thể sắp xếp bác bỏ vào làm một trong số những kiểu câu tiêu biểu theo đích ngôn trung. Bác bỏ là một vấn đề được nhiều bộ môn khoa học xã hội quan tâm và cũng là đối tượng nghiên cứu quan trọng của một số ngành khoa học như Logic học, Ngữ dụng học. Logic học rất quan tâm đến phủ định và bác bỏ và mối quan hệ của chúng với vấn đề lập luận. Tuy nhiên, bác bỏ chỉ trở thành đối tượng chính thống của ngôn ngữ học kể từ khi có sự ra đời của ngành Ngữ dụng học và bộ môn Phân tích diễn ngôn. Bác bỏ về mặt giao tiếp, là một loại hành động có nguy cơ đe dọa thể diện của người nói khá cao, vì bác bỏ, dưới góc độ nhẹ nhàng nhất, cũng là cách thức phủ định một vấn đề nào đó mà người nói đồng tình, đặt ra nhưng người nhận không chấp thuận. Dưới áp lực này, khi thực hiện hành động bác bỏ, người ta có nhiều hình thức bác bỏ khác nhau nhằm phù hợp với mục đích giao tiếp, ngữ cảnh giao tiếp và đảm bảo khả năng bảo toàn thể diện cho cả đôi bên. Khái niệm bác bỏ hiện nay cũng được sử dụng không nhất quán. Lý do là tùy theo đối tượng khảo sát, mục đích khảo sát mà thuật ngữ này được các nhà logic học, logic học ngôn ngữ và ngữ dụng học nhìn nhận rất khác nhau.
  19. Phân tích theo phương thức chiết tự dựa trên từ điển Hoàng Phê, bác là gạt bỏ bằng lý lẽ quan điểm, ý kiến của người khác, còn bỏ là không giữ lại, coi là đối với mình không có giá trị. Cũng theo Hoàng Phê, bác bỏ là bác đi, gạt đi, không chấp thuận, ví dụ như bác bỏ ý kiến. Cùng trường nghĩa với bác bỏ, chúng ta có các từ phản bác, phủ định, phủ nhận, phủ quyết, cãi… Có thể hình dung, bác bỏ là một hành động ngôn từ, ở đó người ta sử dụng lý lẽ của mình để gạt bỏ quan niệm, nhận xét, đánh giá của người khác. Một số nhà nghiên cứu có ý phân biệt hành động bác bỏ và hành động từ chối. Trong bài nghiên cứu “Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại” (Nguyễn Thị Hai, Ngôn ngữ số 1-2001- trang 1), tác giả cho rằng “Sự bác bỏ, chối, cãi chỉ xảy ra khi trước đó có sự khẳng định. Do vậy, trong mối quan hệ với hành động hỏi, hành động bác bỏ, chối, cãi có liên quan với các câu có hình thức hỏi mang nội dung khẳng định. Còn hành động từ chối không liên quan tới những câu hỏi loại này”. Tuy nhiên, tác giả cũng thấy được sự nhập nhằng của hai loại hành động này khi chỉ rõ “Mặt khác, hành động từ chối lại cũng có thể liên quan đến hành động bác bỏ nói chung. Bởi vì khi thực hiện hành động từ chối, người đáp lời không tránh khỏi việc phải nêu lý do từ chối. Những tham thoại có nội dung chỉ ra các lý do ấy chính là tiền đề kích thích hành động bác bỏ nảy sinh, có thể là, tiếp ngay sau đó”. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đã bắt gặp không ít các hiện tượng thuần tính phủ định, tuy nó cũng nằm trong cặp thoại nhưng lại không có dấu hiệu của hành động bác bỏ. Ví dụ 8 Bỗng anh người nhà về, nói: - Thưa cụ, đích là chết rồi. - Mày thấy tiếng khóc chưa? - Chưa. - Sao mày biết là chết? - Con hỏi thăm. - Thăm ai? - Ngay chị cu Sứt ạ. - Tốt. Thế mày không xui chị ta biện cái gì để đi trình làng à?
  20. - Không ạ. (21-tr.419) Đoạn hội thoại chỉ đơn thuần là việc người mẹ đưa ra đề nghị mang tính lựa chọn và không hề khẳng định bất cứ một điều gì, đưa ra một nhận định chủ quan nào. Do đó, lời thoại trả lời của đứa con chỉ đơn thuần mang ý nghĩa phủ định nội hàm, tức thông báo, miêu tả một tình huống chứ không hề có sự bác bỏ ý kiến của người mẹ trước đó. Chúng tôi nhận thấy bên cạnh một số trường hợp nhập nhằng, thì yếu tố quan trọng nhất phân biệt hành động bác bỏ và hành động từ chối là ở chỗ hành động bác bỏ chỉ xảy ra khi câu trước hành động đó có ẩn chứa một ý kiến, một suy nghĩ, một quan điểm nào đó, có thể hiện thực trên bề mặt câu chữ, có thể tiềm tàng trong các nội dung hàm ý, còn hành động từ chối xuất hiện trong những lời thoại có tính lựa chọn. Trong những lời thoại ấy, chúng ta gần như không thể tìm ra được bất cứ một sự khẳng định, một quan niệm hay một ý kiến cá nhân nào. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp rất nhập nhằng không thể phân tách trên bề mặt câu chữ, mà phải dựa vào văn cảnh hoặc chỉ có những người trong cuộc đối thoại biết được. Ví dụ 9 Tôi vừa nhai đậu phộng vừa trầm trồ: - Nhà mày đẹp quá há? - Ừ. - Ba mẹ mày hiền quá hả? - Ừ. - Mày là con một hở? - Không. Tao còn một đứa em gái. Nó học lớp mười một. Đông Anh hí hửng khoe: - Em tao dễ thương lắm. Người đẹp mà tên cũng đẹp. Tên nó là Đinh Lăng. Tôi liếc vào trong nhà: - Em mày ở đằng sau hở? - Không. Nó đi mua đồ, lát về. (11-tr.68)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2