intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh nhìn từ lí thuyết diễn ngôn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:120

36
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong khuôn khổ luận văn này, đi sâu tìm hiểu quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh nhìn từ lí thuyết diễn ngôn hiện đại với mong muốn góp thêm một góc nhìn mới về kiệt tác của dân tộc. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh nhìn từ lí thuyết diễn ngôn

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM MAI THỊ THÚY QUAN NIỆM NHÂN SINH CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU TRONG ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH NHÌN TỪ LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thái Nguyên - 2017
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM MAI THỊ THÚY QUAN NIỆM NHÂN SINH CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU TRONG ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH NHÌN TỪ LÍ THUYẾT DIỄN NGÔN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Dƣơng Thu Hằng Thái Nguyên - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh nhìn từ lí thuyết diễn ngôn” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi không sao chép của ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác. Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017 Tác giả luận văn Mai Thị Thúy i
  4. LỜI CẢM ƠN Luận văn đã được hoàn thành tại khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đại học Thái Nguyên. Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Dương Thu Hằng, người tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu, khoa Sau Đại học, khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu. Em cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè và những người thân đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017 Tác giả luận văn Mai Thị Thúy ii
  5. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan ......................................................................................................... i Lời cảm ơn. ........................................................................................................... ii Mục lục.. ..............................................................................................................iii MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 9 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 10 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 10 7. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 11 NỘI DUNG ........................................................................................................ 12 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................................................................ 12 1.1. Diễn ngôn và các mã cơ bản của diễn ngôn trong tiếp cận văn học .......... 12 1.1.1. Khái niệm diễn ngôn ............................................................................ 12 1.1.2. Khái niệm về mã và mã hệ tư tưởng, mã thể loại của lí thuyết diễn ngôn ........................................................................................................ 14 1.2. Quan niệm về nhân sinh trong văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX .......................................................................................................... 20 1.2.1. Quan niệm nhân sinh ............................................................................ 20 1.2.2. Quan niệm nhân sinh trong văn học thế kỉ X đến thế kỉ XVII ............ 22 1.2.3. Quan niệm nhân sinh trong văn học cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX ............................................................................................................. 25 1.3. Đôi nét về Nguyễn Du và các phát ngôn của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trƣờng tân thanh ...................................................................................... 28 iii
  6. 1.3.1. Đôi nét về Nguyễn Du .......................................................................... 28 1.3.2. Thống kê phát ngôn của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trƣờng tân thanh ......................................................................................................... 31 *Tiểu kết chƣơng 1:........................................................................................... 32 Chƣơng 2: QUAN NIỆM NHÂN SINH CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU QUA CÁC ĐỐI THOẠI ....................................................................... 33 2.1. Đối thoại chịu sự chi phối của tư tưởng phong kiến chính thống .............. 33 2.1.1. Quan niệm sống tròn chữ hiếu ............................................................. 33 2.1.2. Quan niệm sống giữ gìn trinh tiết......................................................... 38 2.2. Đặc điểm của các đối thoại chịu sự chi phối của thể loại truyện Nôm ...... 41 2.2.1. Số lượng ............................................................................................... 42 2.2.2. Đối tượng, hoàn cảnh thoại .................................................................. 43 2.2.3. Vị thế phát ngôn ................................................................................... 55 *Tiểu kết chương 2: .......................................................................................... 60 Chƣơng 3: QUAN NIỆM NHÂN SINH CỦA NHÂN VẬT THÚY KIỀU QUA ĐỘC THOẠI NỘI TÂM ........................................................................ 61 3.1. Độc thoại nội tâm chịu sự chi phối của quan điểm nhân văn thời đại ....... 61 3.1.1. Quan niệm sống hướng tới sự trong sạch, lương thiện ........................ 61 3.1.2. Quan niệm sống phù hợp với hoàn cảnh .............................................. 68 3.2. Đặc điểm độc thoại nội tâm trong sự chi phối của thể loại truyện Nôm ... 75 3.2.1. Số lượng ............................................................................................... 75 3.2.2. Hoàn cảnh chi phối độc thoại nội tâm .................................................. 77 3.2.3. Ưu thế của độc thoại nội tâm trong việc thể hiện quan niệm sống mới mẻ của nhân vật Thúy Kiều .................................................................... 79 *Tiểu kết chương 3............................................................................................ 81 KẾT LUẬN........................................................................................................ 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 85 PHỤ LỤC .......................................................................................................... 89 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong văn học Việt Nam, ít có tác phẩm văn học từ khi ra đời cho đến nay, trải qua khoảng thời gian rất dài vẫn luôn được người đọc yêu thích, tôn vinh như Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du. Tác phẩm đi sâu vào lòng người Việt Nam như một yếu tố tinh thần không thể thiếu. Nguyễn Du viết Đoạn trƣờng tân thanh dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Trên cơ sở cốt truyện, nhân vật có sẵn, Nguyễn Du đã có những sáng tạo cả về nội dung và nghệ thuật. Đoạn trƣờng tân thanh là “một tập đại thành” được nghiên cứu chi tiết và phong phú từ lâu. Trong đó quan niệm nhân sinh của Đoạn trƣờng tân thanh được khá nhiều các tác giả nghiên cứu dưới những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều từ lí thuyết diễn ngôn hiện đại chưa có công trình nào đề cập đến. So với các nhân vật truyện Nôm khác Thúy Kiều là nhân vật rất đặc biệt ở nhiều phương diện. Nếu so với nguyên tác Kim Vân Kiều truyện thì nhân vật Thúy Kiều đã được làm mới, đặc biệt phải kể đến những phát ngôn của nhân vật. Theo lí thuyết diễn ngôn thì lời nói của nhân vật tồn tại ở cả hai dạng đối thoại và độc thoại đều hàm chứa trong đó nhiều mã, nhiều tầng, bậc ẩn ý sâu xa và đó cũng chính là một trong mối quan tâm của lí thuyết diễn ngôn hiện đại. Với sự yêu quý di sản văn hóa của dân tộc, chúng tôi tiếp thu những ý kiến đi trước và tiếp cận nhân vật Thúy Kiều từ lí thuyết diễn ngôn. Với cách tiếp cận đó, chúng tôi hi vọng sẽ đem đến một góc nhìn mới trước một tác phẩm rất quen thuộc có bề dày nghiên cứu lâu nay. Bên cạnh đó, có thể thấy tác phẩm Đoạn trƣờng tân thanh được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường. Vì vậy khi lựa chọn đề tài này chúng tôi mong muốn hi vọng trau dồi thêm tri thức, góp phần nâng cao nghiên cứu giảng dạy trong nhà trường. 1
  8. Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh nhìn từ lí thuyết diễn ngôn” làm đề tài luận văn của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Việc nghiên cứu lí thuyết diễn ngôn vào trong các tác phẩm văn học những năm gần đây ở Việt Nam đang trên đà phát triển và được giới chuyên môn, những nhà khoa học rất quan tâm. Những cuộc luận bàn, hội thảo về vấn đề này diễn ra ngày càng nhiều và có quy mô lớn, thu hút nhiều người tham gia. Phải kể đến một số bài nghiên cứu về diễn ngôn của các nhà phê bình lí luận văn học, tiêu biểu như: Lí thuyết văn học hậu hiện đại của Phương Lựu [23], Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay của Trần Đình Sử [43], Về diễn ngôn trong truyện ngắn của Trang Thế Hy của Lâm Thị Thiên Lan [16], Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật của Trần Văn Toàn [45], Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn Nguyễn Thị Ngọc Minh [24], Diễn ngôn trong giao tiếp văn học Nguyễn Duy Bình [3]... Tuy nhiên nhìn nhận một cách tổng thể các bài nghiên cứu diễn ngôn về cơ bản chỉ đưa ra nhận định và phân tích lí thuyết, ít có những công trình nghiên cứu vận dụng kỹ, sâu trong tác phẩm văn học cụ thể đứng trên góc độ của lí thuyết văn học. Vì vậy việc nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này cần được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa. Ngay từ khi ra đời, Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du đã khẳng định được vị thế của mình trong tâm hồn dân tộc Việt Nam. Tác phẩm đã trở thành mảnh đất lí tưởng cho bao nhà nghiên cứu tìm tòi, “đào xới”. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: Năm 1949, Hoài Thanh với công trình Quyền sống của con ngƣời trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây được coi là công trình nghiên cứu sớm nhất về Đoạn trƣờng tân thanh theo quan điểm cách mạng. Theo Hoài Thanh, lí do để ông viết cuốn sách này bởi vì trong xã hội hiện đại có nhiều đổi mới sẽ có 2
  9. những giá trị xưa cũ không còn phù hợp với thực tại nữa. Vậy nên cần nhìn nhận lại những giá trị cũ xem cái nào cần giữ lại, cái nào cần vứt bỏ và cái nào để xem xét tiếp... Với hơn một trăm năm kể từ khi ra đời cho đến nay, Truyện Kiều vẫn tiếp tục được khẳng định và biết đến trong lòng người dân Việt Nam không chỉ học Kiều, thuộc Kiều, ngâm Kiều mà còn cả bói Kiều. Nhưng Truyện Kiều được hoan nghênh nhiều mà cũng bị bài xích nhiều. Số phận Truyện Kiều cũng long đong như số phận nàng Kiều. Kể từ khi nó ra đời, nó chưa bao giờ được ngồi một chỗ yên ổn. Người khen khen hết mực, người chê chê cũng hết lời. Vì vậy, cần phải có một sự nhìn nhận cho đúng, cho đủ để trả Truyện Kiều về đúng giá trị của nó. [48, tr.22]. Tác giả nhận thấy rằng tác phẩm này cần được xem xét trên rất nhiều phương diện. Tuy nhiên ông không có tham vọng để tìm hiểu hết tất cả mà chỉ xét riêng về một vấn đề căn bản - đó là quyền sống của con ngƣời. Trong cuốn này, tác giả đã đi sâu phân tích hai nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải. Với Thúy Kiều tác giả nhận xét: “Khi tạo ra nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gián tiếp và có lẽ cũng là vô tình đòi quyền sống cho con ngƣời trong xã hội phong kiến. Nhƣng Nguyễn Du thiếu một ý thức rõ rệt, một ý chí cƣơng quyết. Nguyễn Du đã không dám theo cho đến cùng cái khuynh hƣớng phản phong, Nguyễn Du đã nửa đƣờng lùi bƣớc” [48, tr.22]. Ngoài việc phân tích nhân vật, tác giả Hoài Thanh cũng đi vào phân tích xã hội phong kiến trong Đoạn trƣờng tân thanh, thời đại và thân thế nguyễn Du. Cuối cùng, ông cũng bàn qua về “Truyện Kiều đối với các lớp ngƣời qua các thời đại”. Nhà nghiên cứu đã phân tích khá sâu sắc về giá trị nội dung xã hội Đoạn trƣờng tân thanh. Lần đầu tiên từ khi ra đời nội dung ý nghĩa xã hội mới được khám phá và lí giải một cách đúng đắn. Năm 1956, Trương Tửu viết Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du. Tác giả cho rằng Truyện Kiều là một tác phẩm văn học cổ điển tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam vì bốn lí do: Thứ nhất, vì Truyện Kiều là một tác phẩm dân tộc. 3
  10. Thứ hai vì Truyện Kiều có tính đại chúng. Thứ ba vì Truyện Kiều đạt đến nghệ thuật tính cao độ. Thứ tư vì Truyện Kiều còn có tác dụng trong hiện tại. Những lí do ông đề cập ông chú trọng đến việc trong Truyện Kiều cách sáng tạo và kết cấu những nhân vật, cách xây dựng những hình ảnh, cách miêu tả những cảnh vật vừa có tính cách tạo hình vừa súc tích, tình cảm, cách vận dụng của âm thanh ngôn ngữ và nhịp điệu của lời nói, cách phô diễn trong sáng, gọn gàng, điều độ và chính xác, cách Việt hóa những điển tích mượn của nước ngoài... đều đã chứng tỏ Nguyễn Du am hiểu đến ngọn ngành lối cảm nghĩ, phô diễn của nhân dân còn lưu lại trong kho tàng văn thơ truyền thống. Thêm nữa vì Truyện Kiều còn có tác dụng trong hiện tại. Nên ngày nay, Truyện Kiều vẫn là món ăn tinh thần bổ ích của đại chúng. Đọc Truyện Kiều, chúng ta vẫn học tập lòng căm thù của Nguyễn Du đối với những chế độ xã hội bóc lột và đè nén con người. Nhà thơ vẫn truyền được cho chúng ta lòng khao khát, tự do, công bằng và nhân đạo [47, tr.210 - 212]. Theo tác giả, với bốn yếu tố trên, Truyện Kiều thật xứng đáng được mệnh danh là tác phẩm cổ điển tiêu biểu của văn học Việt Nam. Nó kết tinh được truyền thống văn học tiến bộ của dân tộc đã được biểu hiện trong văn chương truyền khẩu của nhân dân. Nó tập hợp một cách sáng tạo những nét tinh hoa của các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam xuất hiện trước đó. [47, tr.213]. Trần Đình Sử trong cuốn Những thế giới nghệ thuật thơ, ông đã bàn về mấy khía cạnh thi pháp Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du, ông khẳng định: “Sáng tạo của Nguyễn Du bắt đầu từ chủ đề tư tưởng mới, cái nhìn nghệ thuật mới về con người, đến các đặc trưng về không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, chân dung tác giả và màu sắc nghệ thuật... Truyện Kiều mới và độc đáo hoàn toàn không phải chỉ biết thêm vào các chi tiết này, lược bớt các chi tiết kia, biết dùng những từ đắt, viết được những câu hay, tả tình khéo, tả cảnh hệt... mà còn chủ yếu vì Nguyễn Du đã đặt vào đó một tư tưởng mới, một quan niệm khác về con người và thế giới...” [39, tr.295 – 296]. 4
  11. Phan Ngọc trong cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ông đã định hướng: “Phải tìm những cống hiến nghệ thuật của riêng nhà thơ Nguyễn Du mà trƣớc đó không ai làm đƣợc và sau đó cũng khó ai làm đƣợc” [30, tr.8]. Đây là một cuốn sách đã để cho người đọc nhiều dư âm về cách cảm, cách nghĩ mới về Truyện Kiều. Trong công trình này, Phan Ngọc đã cố gắng làm rõ phong cách riêng hoàn toàn của Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều. Trong đó, có nhiều phần so sánh với nguyên tác rất kĩ. Ông cho rằng: “Nguyễn Du đã đổi mới hoàn toàn bố cục của Kim Vân Kiều truyện. Truyện Kiều của Nguyễn Du đƣợc nhà nghiên cứu coi nhƣ “một tiểu thuyết phân tâm lí” và “nó đƣợc bố cục nhƣ một vở bi kịch lớn” [30, tr.183]. Phan Ngọc đã chứng minh rằng Truyện Kiều không chỉ biểu cảm bằng cảm nhận truyền thống mà còn được khai thác ở nhiều tầng bậc mới. Trong cuốn Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa của Lê Nguyên Cẩn. Tác giả cho rằng “Truyện Kiều” không chỉ đơn thuần là một câu chuyện về một con người, một cuộc đời, một số phận mà nó trải rộng ra với một tấm lòng, một cốt cách, một tinh thần Việt Nam. Truyện Kiều tạo ra cách nhìn dân tộc, làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam, làm đắm say lòng người độc giả mỗi thời đại [5,tr.3]. Tác giả đã “xác lập các mô hình thế giới được tạo ra trong tác phẩm để từ đó làm nổi bật thân phận và diện mạo nhân vật Thúy Kiều. Từ đó điểm lại những thăng trầm chìm nổi của nhân vật trong bể trầm luân suốt mười lăm năm. Rồi từ đó đưa ra nhận xét về một tấm lòng nhân hậu mang vẻ đẹp vị tha, thuần Việt xuyên suốt chiều dài tác phẩm” [5,tr.4]. Tác giả cũng cho rằng Truyện Kiều là sự tổng hợp của bốn mạch truyện gồm: Mạch thứ nhất là câu chuyện tình yêu đầy éo le, trắc trở giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Mạch thứ hai là cuộc chiến giữa tài sắc và xã hội, giữa thế giới các mĩ nhân và thế giới các tiện nhân. Kiều nổi lên trước hết là sắc đành đòi một tài đành họa hai mà hại thay mang lấy sắc tài làm chi. Mạch thứ ba là xung đột giữa tài và mệnh. Mạch thứ tư liên quan đến thân mệnh tương đố đi 5
  12. liền với thân. Các mạch truyện này đan lồng vào nhau, tạo ra tính chất tầng tầng lớp lớp, tạo ra tính chất phức tạp cho tác phẩm này [5,tr.258]. Thông qua những công trình này, chúng tôi phần nào nắm được thân thế, sự nghiệp và thời đại Nguyễn Du sống. Đồng thời chúng tôi hiểu được nội dung Đoạn trƣờng tân thanh cũng như những đánh giá khác nhau về tác phẩm và xã hội phong kiến đương thời. Bên cạnh đó, còn nổi lên những nghiên cứu về ngôn ngữ nhân vật có thể kể đến một số bài viết như: Trong bài viết Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Lộc đăng trên Tạp chí Văn học (tháng 11/1965), tác giả đã đề cập đến hai vấn đề chủ yếu của ngôn ngữ nhân vật đó là đặc điểm ngôn ngữ nhân vật và chức năng biểu hiện tính cách của ngôn ngữ nhân vật trong Đoạn trƣờng tân thanh. Về đặc điểm, ông đã chỉ ra: ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều một mặt có "yếu tố hiện thực chủ nghĩa", mặt khác, "có khá nhiều yếu tố có tính ước lệ" [21, tr.62] - một đặc điểm phổ biến của ngôn ngữ văn học thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Từ thực tiễn tác phẩm, tác giả rút ra nhận xét: nhân vật chính diện thiên về tính chất lý tưởng hóa, thuộc phạm trù cao cả, nên thường sử dụng ngôn ngữ ước lệ. Nhân vật phản diện khi ra vẻ chính diện cũng dùng nó. Đối với thành phần ngôn ngữ có tính chất hiện thực chủ nghĩa, ông chủ yếu phân tích về đặc điểm sử dụng: nó phần lớn được dùng cho nhân vật phản diện. Nhân vật chính diện lúc rơi vào những mâu thuẫn gay gắt, những biến cố phức tạp của cuộc đời, ngôn ngữ cũng tăng cường yếu tố này - khi mà những phương tiện nghệ thuật mang tính ước lệ không đủ sức dung nạp, biểu hiện. Tuy nhiên, tác giả chưa chú trọng đi sâu vào những nhân tố làm nên tính chất hiện thực này. Qua sự phân tích các đối tượng: Thuý Kiều, Tú Bà, Hoạn Thư, Thúc Sinh... Nguyễn Lộc đã chứng minh: ngôn ngữ nhân vật là một phƣơng tiện vô cùng quan trọng để bộc lộ tính cách, góp phần cá thể hóa nhân vật, thể hiện đặc sắc hình tƣợng tác phẩm. Ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều vừa kế thừa và 6
  13. phát huy truyền thống của thể loại truyện thơ Nôm, vừa là một bƣớc phát triển cao so với truyện Nôm đƣơng thời [21, tr.67]. Đặng Thanh Lê trong cuốn Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, tác giả đã nói đến ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Đặt ngôn ngữ đối thoại của Truyện Kiều trong cái nền ngôn ngữ đối thoại của truyện Nôm nói chung, tác giả khẳng định: nó đóng vai trò quan trọng trong "biểu hiện cảm nghĩ và quyết định hành động của nhân vật đứng trước một tình huống, một mâu thuẫn", và trong "trình bày bước phát triển của sự kiện, tình tiết" [18, tr.232]. Theo tác giả, ngôn ngữ đối thoại Truyện Kiều có hai đặc điểm lớn. Sự thống nhất cao giữa nội dung tư duy cảm xúc với hình thức ngôn ngữ là đặc điểm chi phối chủ thể sử dụng ngôn ngữ (nhân vật chính diện hay phản diện) và tính chất ngôn ngữ hội thoại (ngôn ngữ quý tộc hay ngôn ngữ nhân dân, ngôn ngữ công thức ước lệ hay ngôn ngữ có màu sắc hiện thực chủ nghĩa). Đặc điểm thứ hai là tính nhân dân trong ngôn ngữ nhân vật. Tính chất này được hình thành từ ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn học dân gian. Nó có mặt trong lời nói của hầu hết các nhân vật Truyện Kiều. Về ngôn ngữ độc thoại miêu tả nội tâm nhân vật, Đặng Thanh Lê xem đây là một yếu tố quan trọng để xây dựng tính cách, là nguyên nhân sự phát triển hành động của nhân vật, phát triển tình tiết diễn biến cốt truyện. Nó thường được Nguyễn Du sử dụng "ở những chặng đường có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh nhân vật, ở những trường hợp kịch tính cao của tình huống, của sự bộc lộ tính cách" [18, tr.251]. Có thể thấy, ngôn ngữ nhân vật trong Đoạn trƣờng tân thanh là tâm trạng biểu lộ thái độ của nhân vật. Nó xuất hiện như một kiểu lựa chọn, có cấu trúc nghệ thuật, lớp từ vựng và kiểu cú pháp riêng, ngoài sự giao tiếp thực tiễn còn là phương tiện bộc lộ tính cách. Như vậy, tìm hiểu cụ thể ngôn ngữ nhân vật Thúy Kiều chưa có một công trình nào tìm hiểu, nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. 7
  14. Từ những công trình nghiên cứu về Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du thì cũng đã có những công trình nghiên cứu nhân sinh nhìn nhận dưới góc nhìn Phật giáo. Tác giả Huyễn Ý trong Truyện Kiều qua cách nhìn của ngƣời học Phật cho rằng: “Nguyễn Du đã mƣợn những vần thơ để nói về những vấn đề của con ngƣời trong cuộc sống, cùng cách thoát khỏi vòng luẩn quẩn khổ đau để cõi lòng đƣợc trong lặng, thong dong” [57, tr.6]. Với kinh nghiệm sống, tình thương, sự thấu đạt Phật lí, Nguyễn Du đã chuyển Kim Vân Kiều truyện – một tập truyện bình thường của Thanh Tâm Tài Nhân – thành một Đoạn trƣờng tân thanh mang đậm tính dân tộc Việt Nam. Ngoài tính dân tộc ra, theo tác giả, Đoạn trƣờng tân thanh còn có nghĩa thâm sâu của Phật pháp. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra lời nhận xét: “Thúy Kiều đƣợc Nguyễn Du xây dựng với hình ảnh con ngƣời tài sắc tuyệt vời, hiện thân những tinh hoa con ngƣời - đó chính là cách mà Nguyễn Du muốn ám chỉ đến cái tâm chân thật” [57, tr.32]. Tác giả cũng tập trung nhiều về những hình thức biểu hiện của sự khổ đau cũng như những phương tiện để giải thoát những khổ đau ấy trong Đoạn trƣờng tân thanh. Để rồi, tác giả đi đến kết luận: Truyện Kiều quả là một kiệt tác, từ hình thức thi văn đến nội dung ý nghĩa... tác giả khéo léo mượn nhân vật Thúy Kiều trong từng tình tiết để diễn đạt sự chuyển hóa tâm linh. Theo đó, mọi sự hình thành đời sống đều nằm trong quy luật nhân quả, nghiệp báo và luân hồi. Con người tự cột trói thì phải tự tháo cởi chứ không có thể làm thay mình được. Tất cả hình thức, phương tiện và tri thức chỉ trợ duyên đánh thức để nội tâm ta bừng tỉnh, là điều kiện thiết yếu gợi cho ta tỉnh giấc. Có thức tỉnh rồi mới cảm thương những ai mê muội đắm chìm trong đêm tối – đoạn trƣờng ai có qua cầu mới hay [57, tr.283 - 284]. Trong cuốn Thả một bè lau của tác giả Thích Nhất Hạnh nhận xét: “Khi viết Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã sống trong da thịt của nhân vật Thúy Kiều, đã trở thành một với Kiều, cụ đã nói tâm sự của chính mình” [11, tr.5]. Tác giả 8
  15. cũng đưa ý kiến về sự bàn luận Đoạn trƣờng tân thanh. “Trong quá khứ, đã có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau về nội dung của Truyện Kiều. Có nhà Nho đã liệt Truyện Kiều vào loại dâm thư, vì trong truyện có tả đời sống của một cô gái bán dâm. Những nhà Nho ấy có thể đúng về đạo đức của Nho giáo nhưng nếu dùng con mắt quán chiếu của một thiền sư mà nhìn vào cuộc đời của Thúy Kiều, chúng ta có thể học từ một cuốn kinh. Và Truyện Kiều sẽ không phải là dâm thư mà là kinh điển, đọc Truyện Kiều với con mắt quán chiếu tức là chúng ta đang tu tập” [11, tr.5 - 6]. Nhìn chung, những công trình này dưới góc nhìn của Phật giáo để tiếp cận ở những góc độ chung: quan niệm về sự đau khổ, nguồn gốc của sự đau khổ, giải thoát... nhưng chưa đưa ra quan niệm rõ nét về nhân vật cụ thể. Có thể thấy, quan niệm nhân sinh trong Đoạn trƣờng tân thanh được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Nhưng khai thác quan niệm nhân sinh trên phương diện lí thuyết diễn ngôn thì chưa có một công trình nào đề cập đến. 3. Mục đích nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trƣờng tân thanh nhìn từ lí thuyết diễn ngôn hiện đại với mong muốn góp thêm một góc nhìn mới về kiệt tác của dân tộc. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như: Quan niệm nhân sinh, khái niệm diễn ngôn như một công cụ lí thuyết trong nghiên cứu tác phẩm văn học, thân thế, thời đại của Nguyễn Du và nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trƣờng tân thanh. - Khảo sát thống kê những phát ngôn đối thoại và độc thoại về quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du. 9
  16. - Phân tích, luận giải quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều theo lí thuyết diễn ngôn hiện đại. Từ đó chỉ ra tính chất mới mẻ trong ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tƣợng nghiên cứu Thực hiện luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều từ góc nhìn lí thuyết diễn ngôn hiện đại. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Đoạn trƣờng tân thanh có nhiều văn bản ra đời, khi thực hiện đề tài này chúng tôi dùng văn bản Nguyễn Du – Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp (1973). Bên cạnh đó, chúng tôi mở rộng phạm vi tìm hiểu tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để so sánh đối chiếu. Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu một số tài liệu nghiên cứu về diễn ngôn, về quan niệm nhân sinh của các nhà nghiên cứu, phê bình. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: 6.1. Phƣơng pháp khảo sát, thống kê Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để cung cấp những số liệu thống kê chính xác về diễn ngôn tạo cơ sở thực tế đáng tin cậy để từ đó đưa ra những nghiên cứu tiếp theo. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này chúng tôi đưa ra những con số thống kê về độc thoại và đối thoại của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du. 6.2. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm tìm hiểu các tài liệu có liên quan đến đề tài. Phân tích các lời đối thoại nhân vật Thúy Kiều với các nhân vật khác để thấy mối quan hệ giữa các nhân vật và nhận ra quan niệm nhân 10
  17. sinh, tính cách của Kiều. Phân tích độc thoại nội tâm để thấy được đời sống tinh thần phong phú, phức tạp của nhân vật. 6.3. Phƣơng pháp tiếp cận liên ngành Để làm rõ quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều chúng tôi đã sử dụng phương pháp liên ngành. Kết hợp khai thác các tri thức văn học với các tri thức thuộc nhiều lĩnh vực khác như: văn hóa, xã hội, Nho giáo,... trên cơ sở kế thừa và khai thác thế mạnh của các ngành khoa học khác, tìm hiểu mối quan hệ giữa các yếu tố đó và văn học. 7. Bố cục của đề tài Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung được triển khai trong 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài Chƣơng 2: Quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều qua các đối thoại Chƣơng 3: Quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều qua độc thoại nội tâm 11
  18. NỘI DUNG Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Diễn ngôn và các mã cơ bản của diễn ngôn trong tiếp cận văn học 1.1.1. Khái niệm diễn ngôn “Diễn ngôn” là thuật ngữ mới của lý luận phương Tây, có tính liên ngành, đa nghĩa và đang đóng vai trò nổi bật hiện nay trong ngôn ngữ học và khoa học nhân văn. Thực chất, khái niệm diễn ngôn ra đời từ rất sớm. Sở dĩ nó mới vì phải cho đến những năm gần đây giới nghiên cứu mới thực sự quan tâm tìm hiểu một cách thấu đáo. Đặc biệt, trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn “diễn ngôn” trở thành một trong những thuật ngữ mang tính chất chìa khóa. Nhìn nhận một cách tổng quát, diễn ngôn nhấn mạnh thực tiễn giao tiếp xã hội để phân biệt với lời nói cá nhân. Hoạt động diễn ngôn xã hội thể hiện một trạng thái ngôn ngữ, tri thức, quyền lực trong xã hội của diễn ngôn đó mà các cá nhân đều phụ thuộc vào. Khái niệm “diễn ngôn”, theo cách hiểu của chúng ta ngày nay, lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm của các nhà tư tưởng Marxist Liên Xô (như Bakhtin, Voloshinov, Medvedev…) trước khi được phát triển và hoàn thiện, dưới những tên gọi khác nhau, bởi các tác giả tiền 1968 và hậu 1968 như Barthes, Althusser, Foucault, Derrida… mà đa số là những trí thức theo chủ nghĩa bình dân, một số thực sự là Marxist. Ba nhà tư tưởng lớn của thế kỉ XX đó là F. De Saussure, M. Bakhtin và M. Foucault là những người đặt nền cho những hàm nghĩa mới của “diễn ngôn”. Vấn đề này đã được tổng thuật một cách chi tiết trong công trình “Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn” [24]. Đầu tiên, theo hƣớng tiếp cận về mặt cấu trúc, các nhà cấu trúc chủ nghĩa cho rằng, “diễn ngôn” chính là cấu trúc của ngôn ngữ, cụ thể nhìn nhận trong từng phát ngôn của con người, tức lời nói. Cấu trúc ở đây được hiểu là 12
  19. cần tuân theo những nguyên tắc nhất định về việc tổ chức, sắp xếp logic hệ thống ngôn từ theo một hệ chuẩn những quy tắc nhất định khi sử dụng ngôn ngữ. Nhìn nhận “diễn ngôn” theo hƣớng tiếp cận phong cách học, nhà nghiên cứu M. Bakhtin cho rằng diễn ngôn luôn thấm đẫm tư tưởng, cảm xúc, thái độ chủ quan của người nói, hay nói cách khác, luôn tồn tại dƣới dạng kép lời nói- tƣ tƣởng hệ. Từ cách nhìn nhận này, có thể thấy “diễn ngôn” có bản chất là đối thoại. Theo hƣớng xã hội học, nhà tư tưởng M. Foucault đã chỉ ra diễn ngôn có thể vừa là một công cụ, vừa là hệ quả của quyền lực; đồng thời, cũng là một vật cản, một khối chướng ngại vật, một mũi kháng cự và một điểm bắt đầu cho chiến lược đấu tranh. Diễn ngôn làm lan truyền và sản sinh quyền lực, nó củng cố chính nó, nhưng cũng hủy hoại nó và phơi bày nó, làm cho nó yếu đi và khiến nó có thể gây trở ngại cho chính nó. Foucault cho rằng tri thức là sản phẩm được tạo ra bởi các diễn ngôn. Và bởi đằng sau diễn ngôn là quyền lực, cho nên, tri thức mà chúng ta có là kết quả của các mâu thuẫn về quyền lực. Toàn bộ tri thức mà chúng ta có, thực chất là kết quả của quá trình chinh phục các đối tượng, dùng quyền lực để áp đặt thước đo chuẩn mực lên đối tượng. Từ ba tư tưởng này, người ta không chỉ thấy được sự phát triển và phân nhánh phức tạp của khái niệm diễn ngôn, mà còn quan sát được những bước chuyển lớn trong tư duy lý luận văn học nói riêng và khoa học xã hội nhân văn nói chung. Từ việc tóm lược những cách tiếp cận chính đối với diễn ngôn, có thể thấy các cách tiếp cận khái niệm tuy có khác nhau, song vẫn có một số những luận điểm chung như sau: Diễn ngôn là một ngôn ngữ/ lời nói trong giao tiếp. Vì là ngôn ngữ/ lời nói trong giao tiếp (theo Bakhtin, diễn ngôn là nơi diễn ra sự tranh biện của tư tưởng, theo Foucault, diễn ngôn là nơi xảy ra cuộc xung đột giữa các quyền lực), nên nó có vai trò thiết lập nên mối quan hệ giữa người nói và người nghe, giữa thông tin và kí hiệu. Do đó, muốn quá trình giao tiếp được thông 13
  20. suốt, người ta phải nắm được mã diễn ngôn, một hệ thống những đơn vị và cấu trúc chi phối việc vận hành của diễn ngôn đó. Muốn giải mã diễn ngôn, phải tìm ra những cấu trúc bề sâu bên trong các diễn ngôn. Tuy nhiên, mỗi học giả lại có một cách lí giải khác nhau về cấu trúc này. Các nhà cấu trúc chủ nghĩa như G. Genette, R. Barthes, T. Todorov, Greimas cho rằng, cấu trúc bề sâu của các diễn ngôn là một cấu trúc ngôn ngữ trừu tượng, khái quát, có thể phân tích thành các yếu tố như ngôi, thời, thể, thức, giọng (giống như các yếu tố ngôn ngữ trong một câu), và vì thế, họ dùng bộ mã này để phân tích các diễn ngôn. Theo Bakhtin, đơn vị cấu trúc nên các diễn ngôn (lời nói) là các phát ngôn. Các phát ngôn này lại được tập hợp và tổ chức một cách chặt chẽ trong cái mà ông gọi là thể loại lời nói. Theo M. Foucault, có những cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài chi phối việc tạo lập và vận hành diễn ngôn. Cấu trúc bên trong gồm có: tri thức hệ, nhân định, diễn ngôn/các diễn ngôn, thư khố, sự loại trừ bên trong diễn ngôn. Các cấu trúc bên ngoài của diễn ngôn bao gồm: bình luận, những nghi thức, tác giả. Trên cơ sở sự tổng hợp các quan niệm khác nhau của các học giả trong nghiên cứu diễn ngôn, dễ thấy có ít nhất hai mã chi phối việc tạo lập và vận hành các diễn ngôn: mã hệ tƣ tƣởng, mã thể loại. Vận dụng diễn ngôn - công cụ lý thuyết để nghiên cứu văn học, chúng tôi coi diễn ngôn như một phương tiện văn học để phân tích quan niệm nhân sinh của nhân vật Thúy Kiều. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sử dụng lí thuyết diễn ngôn để nghiên cứu các phát ngôn bao gồm có lời đối thoại trực tiếp, lời độc thoại nội tâm của nhân vật Thúy Kiều dựa trên mã hệ tư tưởng và mã thể loại. 1.1.2. Khái niệm về mã và mã hệ tƣ tƣởng, mã thể loại của lí thuyết diễn ngôn 1.1.2.1. Khái niệm về mã “Mã” có thể được hiểu là sự ẩn chứa những bí mật chuyên dụng thuộc một lĩnh vực nào đó mà nếu không có phương tiện, cách thức giải mã thì chúng ta không thể nào tiếp nhận một cách thấu đáo về lĩnh vực ấy. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2