intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Thơ Tuyết Nga

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

16
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn gồm 3 chương: Chương 1 - Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975 và sự xuất hiện của thơ Tuyết Nga; Chương 2 - Hiện thực và ảo giác trong thơ Tuyết Nga; chương 3 - Một số đặc sắc nghệ thuật thơ Tuyết Nga. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Thơ Tuyết Nga

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM -----------o0o---------- NGUYỄN THỊ THANH NGA THƠ TUYẾT NGA LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Thái nguyên, năm 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM -----------o0o---------- NGUYỄN THỊ THANH NGA THƠ TUYẾT NGA Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số : 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyên Đăng Điệp Thái nguyên, năm 2015 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết qủa nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong các công trình nghiên cứu khác. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015 Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNi http://www.lrc.tnu.edu.vn
  4. LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp- người đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của nhà thơ Tuyết Nga trong quá trình tôi thực hiện đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học, Ban chủ nhiệm và các thày cô giáo khoa Ngữ văn- Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, các thày cô giáo Viện văn học- Hà Nội, Trung tâm GDTX huyện Võ Nhai- Thái Nguyên cùng bạn bè gần xa và những người thân trong gia đình đã động viên và giúp đỡ em trong thời gian học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2015 TÁC GIẢ Nguyễn Thị Thanh Nga Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTNii http://www.lrc.tnu.edu.vn
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................... ii MỤC LỤC .................................................................................................................................iii 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................................... 2 3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................................. 5 4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................................... 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................................ 6 6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................................... 6 7. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................................... 6 CHƯƠNG 1: DIỆN MẠO THƠ VIỆT NAM SAU 1975....................................................... 7 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA THƠ TUYẾT NGA ................................................................... 7 1.1.Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975 .................................................................................. 7 1.1.1. Những mối quan tâm mới và những nguồn cảm hứng mới.................................. 7 1.1.2. Các chặng đường phát triển.................................................................................. 15 1.1.3. Lực lượng sáng tác ................................................................................................ 16 1.2. Sự xuất hiện của thơ Tuyết Nga ................................................................................. 20 1.2.1. Vài nét về con người Tuyết Nga........................................................................... 20 1.2.2. Hành trình sáng tác của nhà thơ Tuyết Nga........................................................ 21 CHƯƠNG 2: HIỆN THỰC VÀ ẢO GIÁC TRONG THƠ TUYẾT NGA ........................ 25 2.1. Quan niệm nghệ thuật ................................................................................................. 25 2.1.1. Quan niệm về nghề nghiệp ( thơ) ......................................................................... 25 2.1.2. Quan niệm về con người ....................................................................................... 35 2.2. Những miền mong chờ ẩn giấu ................................................................................... 44 2.2.1. Ảo giác hay tiếng gọi của ký ức ............................................................................ 44 2.2.2. Thơ như là một tự thú, tự bạch về con người ...................................................... 54 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT THƠ TUYẾT NGA ......................... 60 3.1. Cấu tứ ........................................................................................................................... 60 3.2. Thi ảnh .......................................................................................................................... 65 3.3. Các biện pháp tu từ ..................................................................................................... 72 3.3.1. Biện pháp so sánh.................................................................................................. 72 3.3.2. Biện pháp nhân hóa .............................................................................................. 76 3.3.3. Biện pháp ẩn dụ ..................................................................................................... 78 3.4. Giọng điệu .................................................................................................................... 79 3.4.1. Giọng thơ nồng nàn, sâu lắng, thiết tha ............................................................... 81 3.4.2. Giọng thơ nhân hậu, chan chứa yêu thương ....................................................... 85 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN iii http://www.lrc.tnu.edu.vn
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1.Từ sau 1975, thi ca Việt Nam chứng kiến sự góp mặt của rất nhiều các nhà thơ nữ như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Ý Nhi, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Phạm Thị Ngọc Liên, Đoàn Thị Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Trân Sa, Lê Thị Huệ, Tuyết Nga, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,…. Nhìn chung, thơ của giới nữ là tiếng nói chân thành của cái tôi cá nhân đầy nữ tính về thân phận, về tình yêu, hạnh phúc, về những chiêm nghiệm trong cuộc sống, cuộc đời. Và để nói lên tiếng lòng tha thiết ấy của mình, mỗi thế hệ nhà thơ nữ lại có những cách thể hiện khác nhau. Với các nhà thơ nữ trưởng thành trong chiến tranh như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ thì đó là sự tiếp nối nguồn mạch thơ nữ truyền thống có từ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan: thiết tha, sâu lắng, cháy bỏng và nhân hậu. Với các nhà thơ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh hoặc muộn hơn một chút như Phạm Thị Ngọc Liên, Dư Thị Hoàn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh thì họ theo đuổi một lối thơ mà ngôn ngữ nghiêng về tả thực, trong đó có cả những ngôn ngữ “thân thể”. Ngược lại, Tuyết Nga không tạo nên sự phá cách hoặc những rung chấn cho làng thơ, chị cũng không đi theo đường thơ êm mượt của đàn chị lớp trước mà Tuyết Nga sáng tác lặng lẽ, một mình ở góc khuất nói lên tiếng nói từ con tim, từ tâm hồn đôn hậu của người phụ nữ đã trải qua nhiều biến cố với những buồn vui của cuộc đời. Mặt khác thơ Tuyết Nga là tiếng nói vọng về từ ảo giác. Bởi vậy, người đọc khi đến với thơ chị phải đến bằng cả trái tim, cả những buồn vui từ sâu thẳm tâm hồn và nhiệt huyết sống của mình. Có lẽ điều đặc biệt ấy đã khiến thơ Tuyết Nga có một chỗ đứng riêng giữa dòng chảy xô bồ của thơ đương đại. 1.2. Tuy nhiên việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo, công phu và toàn diện về thơ Tuyết Nga cho đến nay vẫn còn khiêm tốn. Theo ghi nhận của chúng tôi thì hiện tại mới có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số phương diện của thơ chị cùng một số bài nghiên cứu về từng tập hoặc từng bài thơ Tuyết Nga của một số nhà nghiên cứu như Vũ Nho, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Quyên, Chu Thị Thơm, Vương Cường, Lê Thanh Nghị, Thạch Quỳ, Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN1 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  7. Linh...Chính vì vậy chúng tôi đã lựa chọn đề tài Thơ Tuyết Nga làm luận văn thạc sĩ văn học của mình. Qua luận văn, chúng tôi hi vọng có thể đem đến cho khoa học một cái nhìn tương đối đầy đủ, công bằng về thơ Tuyết Nga ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật cùng những đóng góp của chị cho sự vận động và phát triển của thơ ca hiện đại Việt Nam. 1.3 Việc lựa chọn đề tài Thơ Tuyết Nga cũng có một ý nghĩa rất quan trọng là thơ Tuyết Nga cũng là một trong những đại diện tiêu biểu của thơ đương đại- một nền thơ ca đang có những cách tân sâu sắc cả về nội dung lẫn hình thức. Bởi vậy, nếu đề tài được thực hiện thành công thì tác giả của đề tài hi vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp những người yêu thơ nói chung có thêm tài liệu khi tiếp cận, khám phá về thơ đương đại. Đồng thời đây cũng là một tài liệu để những người phụ nữ nói riêng hiểu hơn về thơ Tuyết Nga cũng như về chính tâm hồn mình. 2. Lịch sử vấn đề Trong những năm qua thơ Tuyết Nga đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu có uy tín, có quy trình nghiên cứu khoa học và được đăng trên các tạp chí văn hóa, văn nghệ. Sau đây, chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu thơ chị qua một số bài tiêu biểu: Đọc tập thơ “Ảo giác”, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Điệp viết bài “Tuyết Nga: Những giọt nắng chắt từ miền rong rêu”. Trong bài viết này, ông nghiêng về khai thác nội dung chính của tập thơ và chỉ ra rằng cái điểm tựa mà Tuyết Nga xác lập để triển khai cảm xúc và thi tứ trong ảo giác chính là tiếng gọi của thời gian. Ảo giác là bức chân dung tinh thần con người Tuyết Nga, ở đó có cả hạnh phúc và khổ đau. Đặc biệt ông đi sâu phân tích nỗi buồn trong thơ Tuyết Nga. Về mặt nghệ thuật ông khẳng định “Tuyết Nga đã làm được điều mà Viên Mai nói “thơ phải đạm nhưng nó là cái đạm sau khi đã nồng” [16, tr.328]. Chất “đạm” mà ông nói tới ở đây là độ đằm sâu của tình cảm, là cách nói ngắn gọn, kiệm lời, là sức ám ảnh, lay gợi bền chặt của những hình ảnh thơ. Đây là sự ghi nhận, khẳng định giá trị đích thực của thơ Tuyết Nga cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN2 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  8. Cũng viết về tập thơ “Ảo giác” tác giả Chu Thị Thơm có bài “ Có một thế giới thực trong cõi ảo”. Theo tác giả này thì Tuyết Nga đã tạo cho thơ mình một thế giới hình tượng thơ độc đáo, sâu sắc và tinh tế. Đó là sự đan xen, hòa nhập giữa hiện thực và ảo giác, giữa cái hiện hữu và cái vô hình, cái hữu hạn và cái vô hạn “Thế giới thi ca của Tuyết Nga là thế giới của một thế giới không phân định giữa ngày và đêm, giữa hư và thực, giữa hữu hạn và vô hạn…Tất cả đan chen vào nhau bởi lăng kính đa chiều, sâu sắc qua ngôn ngữ và hình tượng thơ”[59, tr.1]. Giá trị nhân bản trong thơ Tuyết Nga là ở chỗ trong khi không ít người trong chúng ta đang sống thiếu niềm tin, vô tình hoặc thơ ơ, lãnh đạm với thế giới xung quanh và với chính mình thì Tuyết Nga đã đem đến cho người đọc niềm tin, lòng nhân ái, bao dung, vị tha “Đi qua thế giới của yêu thương, hờn giận, vui buồn, lo âu, trăn trở trong thơ Tuyết Nga, ta sẽ gặp một thế giới của đức tin nếu con người thực sự sùng đạo- đạo của lòng vị tha, tin cậy và bao dung, nhân ái. Điều đó rất cần không chỉ riêng cho người cầm bút mà cho tất cả mọi người” [59, tr.3]. Tác giả Đỗ Quyên khi đọc Hạt dẻ thứ tư đã nhận thấy “Tuyết Nga có thơ thuộc vào sắc tộc thơ-vì-sao-hay giữa “đại gia đình các dân tộc” thi ca Việt Nam đương đại. [50, tr.50]. Trong bài viết này Đỗ Quyên cũng chia thơ ra làm 3 loại: loại thơ dành cho người đọc nói chung; loại thơ không chỉ dành cho người đọc mà cả người viết; và loại thơ sáng tác dành cho người viết nói chung, cho những người phê bình nói riêng. Trong đó loại thứ ba nên gọi là “Thơ-cho-các- nhà-thơ, và thơ-cho-các-nhà-phê-bình”.Trong 3 loại trên thì thơ Tuyết Nga thuộc loại thứ ba. “Đó là thơ của tất cả, vì tất cả. Không chỉ ở khía cạnh đọc để thưởng thức mà cả ở hành động đọc tạo tương tác” [50, tr.49]. Thơ Tuyết Nga là thơ của “thế hệ thi sĩ- tiến sĩ”. Bình Nguyên Trang trong bài “Tuyết Nga một mình góc khuất” khẳng định “Thơ của chị giống như hương của một loài hoa, rất khiêm nhường ẩn sâu trong đám lá, cần tri âm của những người đủ bình tĩnh trong cuộc kiếm tìm” [64, tr.1]. Nhận định này cho chúng ta một định hướng khi tiếp cận thơ Tuyết Nga. Quả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN3 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  9. thực đó không phải là thứ thơ đọc một lần có thể chiếm lĩnh được ngay. Có nhiều bài thơ, câu thơ ta phải đọc đi, đọc lại. Bùi Văn Kha trong “ Nữ thi sĩ “ Ảo giác” Tuyết Nga và thơ nguyên nghĩa” đã đánh giá khá cao về phong cách nghệ thuật thơ Tuyết Nga “ Có thể nói, mọi tìm tòi của Tuyết Nga là muốn khẳng định thơ đương đại Việt Nam: trước hết là ngôn từ, sau là tinh hoa đa phong cách, quyết liệt chứ không dĩ hòa, mà không thái quá, vẫn “ nữ quyền” mà không “ nữ tính”- tươi trẻ dịu mát những gồ ghề” [25, tr.2]. Nguyễn Trọng Tạo trong “Thơ Tuyết Nga- Ảo giác vết thương chìm” lại tìm thấy ở thơ Tuyết Nga tiếng nói của tâm hồn đa cảm “ Thơ Tuyết Nga thường buốt nhói những cái rùng mình của một tâm hồn đa cảm: từng trải mà ngây thơ, khát khao và tuyệt vọng, thông minh và dại khờ, khắt khe mà vị tha, trong trẻo mà cuộn xiết”[52, tr.42]. Đồng thời ông cũng cho rằng với Tuyết Nga thơ cũng chính là đời chị “Đấy là thơ của người biết hóa thân vào con chữ để hiện ra hình ảnh của chính mình, hay nói cách khác, người thi sĩ biết đứng lặng lẽ ở ngoài, thơ để ngắm nhìn và nghĩ ngợi về bản thân mình hiện diện trong thơ. Phải chăng, thơ, đấy là cuộc đối thoại xuất thần của tâm tưởng” [52, tr.43]. Nhận định về vai trò của đề tài trong sáng tác của Tuyết Nga, nhà nghiên cứu Vũ Nho cho rằng “Ngòi bút thơ của Tuyết Nga dường như muốn thoát ra khỏi các đề tài để hướng thẳng vào tình yêu và thân phận” [41, tr.15]. Như vậy, theo ông vấn đề chính trong thơ Tuyết Nga không phải là viết về cái gì mà quan trọng là đề tài cũng chỉ là cái cớ để Tuyết Nga bộc bạch chính mình mà thôi. Đặc biệt, Inrasara khi đọc “Hạt dẻ thứ Tư” đã viết bài “Tuyết Nga và hạt dẻ thứ tư tìm thấy” khẳng định “Thơ Tuyết Nga cứ chới với, hụt hẫng. Hụt hẫng mà đẹp. Hụt hẫng và đẹp. Cái đẹp giữa bộn bề cuộc thơ hôm nay, vẫn khả năng cứu chữa vết thương tâm hồn chúng ta, khi trái tim chúng ta tưởng hóa đá, chai cứng, trơ lì” [24, tr.15]. Ngoài ra còn một số các tác giả nghiên cứu về thơ Tuyết Nga như Lê Thanh Nghị với bài “Bản lĩnh nữ trác ẩn và suy tưởng”; Thạch Quỳ với “Bên ngọn lửa mỏng manh vừa cháy sáng”; Đình Nam Khương với “Đắm say với Ảo giác”; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN4 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  10. Nguyễn Thụy Kha với “Một rỗng lặng đến độc điệu” hay Vũ Nho với “ Người đàn bà không nhìn đời bằng ảo giác”; Hà Linh với “Mùa nồng nàn” và “ Tháng mười- tình yêu gửi lại”; Nguyễn Cường với “Nỗi buồn khuê các” và “Tuyết Nga treo đèn lồng vào ngọn gió”; Trúc Thông với “Về bài thơ “Nói với con về bà ngoại””;… Như vậy, có thể nói thơ Tuyết Nga đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của khá nhiều người yêu thơ và các nhà nghiên cứu. Qua các bài viết chúng tôi nhận thấy hầu hết các tác giả đều tập trung vào nghiên cứu, chỉ ra nội dung cơ bản và một số đặc điểm nổi bật về thi pháp của thơ Tuyết Nga ở hai tập thơ Ảo giác và Hạt dẻ thứ tư. Cùng với đó, các tác giả cũng khá thống nhất quan điểm rằng thơ Tuyết Nga là thơ của sự tinh khiết, của sự nghiêm túc và đầy trách nhiệm với cuộc đời, với nghệ thuật đích thực. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có quy mô và toàn diện về toàn bộ ba tập thơ đã xuất bản của chị. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập chung nghiên cứu, làm rõ một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật thơ Tuyết Nga, vì vậy đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là cả 3 tập thơ của nhà thơ Tuyết Nga, gồm: - Viết trước tuổi mình (1992) - Ảo giác (2002) - Hạt dẻ thứ Tư (2008) Ngoài ra chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm của một số nhà thơ nữ khác trước và cùng thời với chị để so sánh, đối chiếu, đồng thời chúng tôi cũng tham khảo một số sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu của mình. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp hệ thống 4.2. Phương pháp thống kê, phân loại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN5 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  11. 4.3. Phương pháp phân tích (tác phẩm) 4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu 4.5. Ngoài ra chúng tôi còn vận dụng hướng tiếp cận thi pháp học. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn cần phải giải quyết được hai nhiệm vụ cơ bản sau: - Chỉ ra được diện mạo cơ bản của nội dung thơ Tuyết Nga - Chỉ ra một số đặc sắc về nghệ thuật của thơ Tuyết Nga, từ đó đánh giá được những đóng góp của thơ Tuyết Nga cho nền thơ Việt đương đại. 6. Đóng góp của luận văn Nghiên cứu thơ Tuyết Nga luận văn nhằm mục đích: - Chỉ ra một số điểm chính về nội dung trong thơ Tuyết Nga, qua đó khẳng định những phát hiện, những sáng tạo độc đáo mang dấu ấn phong cách của nhà thơ trong dòng chảy thơ Việt đương đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975 và sự xuất hiện của thơ Tuyết Nga Chương 2: Hiện thực và ảo giác trong thơ Tuyết Nga Chương 3: Một số đặc sắc nghệ thuật thơ Tuyết Nga Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN6 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  12. CHƯƠNG 1: DIỆN MẠO THƠ VIỆT NAM SAU 1975 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA THƠ TUYẾT NGA 1.1.Diện mạo thơ Việt Nam sau 1975 1.1.1. Những mối quan tâm mới và những nguồn cảm hứng mới Từ 1975 trở lại đây do hiện thực cuộc sống thời hậu chiến và thời kinh tế thị trường phong phú, đa dạng; sự nở rộ về số lượng các cây bút cũng như sự bùng nổ của hệ thống truyền thông và nhu cầu thưởng thức thơ ca của quần chúng, nhu cầu được khám phá phần bản thể hồn mình của chính người cầm bút cũng như nhu cầu đổi mới của chính văn học mà thơ ca có sự chuyển hướng rõ nét trên nhiều phương diện trong đó phải đặc biệt chú ý đến là sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo. Qua các bài viết của các nhà nghiên cứu văn học như Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Long, Lê Lưu Oanh hay các bài viết của Đặng Thu Thủy chúng tôi xin được khái quát lại sự vận động trong tư duy nghệ thuật của các nhà thơ sau 1975 bằng bốn xu hướng nổi bật là: Xu hướng nhìn lại lịch sử và viết về chiến tranh với cái nhìn phi sử thi; xu hướng trở về với cái tôi cá nhân với những lo âu của đời sống thường nhật; xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, vô thức của con người; xu hướng hiện đại và hậu hiện đại. * Xu hướng nhìn lại lịch sử và viết về chiến tranh với cái nhìn phi sử thi Trong bối cảnh chiến tranh, cũng như văn xuôi thơ mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Khuynh hướng sử thi biểu hiện ở cả ba phương diện là đề tài- chủ đề, khắc họa hình tượng và giọng điệu. Về đề tài- chủ đề thơ ca ba mươi năm này là thơ ca của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng, thơ ca của những niềm vui lớn trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa với những đỉnh cao như Việt Bắc, Ra trận, Máu và Hoa của Tố Hữu, Riêng chung, Tôi giàu đôi mắt, Cầm tay của Xuân Diệu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên, Trời mỗi ngày lại sáng của Huy Cận,… Về khắc họa hình tượng, hình tượng thơ được khắc họa là hình ảnh những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của toàn dân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN7 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  13. tộc. Đó là những con người có khả năng đáp ứng được đòi hỏi của dân tộc và thời đại, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc như hình ảnh cô thanh niên xung phong, cô du kích, anh chiến sĩ giải phóng quân, hình ảnh người mẹ, vị lãnh tụ Hồ Chí Minh,… Về giọng điệu, đó là giọng điệu mang tính sử thi, giọng anh hùng ca, ngợi ca: Anh là chiến sỹ giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi Anh giải phóng quân! Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. (Dáng đứng Việt Nam- Lê Anh Xuân) Đứng trên tư thế của người chiến thắng, cả dân tộc hân hoan ca khúc ca khải hoàn. Nhưng khi chiến tranh đi qua, có thời gian để chiêm nghiệm, chúng ta nhận ra rằng để có ngày chiến thắng chúng ta đã phải hy sinh biết bao máu xương, bao nước mắt. Và bao nỗi đau vẫn còn đó, bao vết thương cũng chưa thể chữa lành. Từ cảm hứng sử thi, văn học chuyển mình sang cảm hứng phi sử thi. Sự chuyển mình ấy cũng thể hiện ở ca ba phương diện là chủ đề- đề tài; khắc họa hình tượng và giọng điệu. Ở chủ đề- đề tài, trở về với lịch sử, tổ quốc vốn thiêng liêng, uy nghiêm và trang trọng “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, gắn liền với đỉnh cao muôn trượng nhưng giờ đây, với cái nhìn phi sử thi nhiều nhà thơ lớp trước (như Chế Lan Viên, Nguyễn Duy, Thanh Thảo) và nhiều nhà thơ trẻ (như Dư Thị Hoàn, Vi Thùy Linh, Nguyễn Huy Hoàng,…) thấy trong những trang sử hào hùng ấy bao điều mới mẻ. Chế Lan Viên- người đã từng ngợi ca về đất nước “Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm! Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất. Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Khi Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn” nay trong Sử cũng ngậm ngùi: Ở đất nước ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong đời thường. Chế Lan Viên dường như nhìn thấy từ lịch sử ngàn năm của dân tộc ít Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN8 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  14. nhiều những đau thương, mất mát ngay trong những ngày đầu dựng nước. Hay trong Trước tượng đài Ki-ép, Nguyễn Duy viết: Lịch sử dấu tro tàn trong cẩm thạch dấu cơn mưa nước mắt thấm trên đồng người chết trận chết oan và chết đói hồn hiện về làm hoa dại bên sông. Và rồi trong những trang trường ca của Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Hoàng Trần Cương,Phùng Khắc Bắc tự do, hạnh phúc của dân tộc gắn liền với số phận, sự hi sinh của từng cá nhân: Cha đi vắng Những người đàn ông miền Trung thường đi vắng Vài năm tạt qua nhà một lần Để lại đứa con Để lại mùi rạ thơm trên mái nhà vừa dọi Để lại những nỗi buồn không biết nói Rồi biệt tăm. (Trầm tích- Đặng Trần Cương) Nhìn về dáng hình chữ S của đất nước Vi Thùy Linh- nhà thơ của tình yêu thấy hình đất nước giống như dáng người đàn bà hơi khuỵu chân, ngửa mặt, còn Đặng Trần Cương thì thấy: Đất nước Tượng hình xương cá Đêm úp Ngày đơm Nhảy vật lên bờ Thân gầy đét. Cong mình chống nắng Lưng phồng rộp Thâm cả trời đông (Trầm tích- Đặng Trần Cương) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN9 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  15. Viết về chiến tranh cũng là một đề tài lớn của thơ Việt Nam giai đoạn này. Trong chiến tranh, với cái nhìn lãng mạn, đậm chất sử thi anh hùng ca, các nhà thơ nhìn thấy muôn người Việt Nam như một, dồn tất cả cho tiền tuyến,cho miền Nam với tinh thần kiên cường, bất khuất: Tuốt gươm không chịu sống quỳ Tuổi xanh chẳng tiếc, sá chi bạc đầu. (Tiếng hát sang xuân - Tố Hữu) Chiến tranh vốn được coi là thước đo phẩm giá của mỗi người Việt Nam chân chính. Khi chiến tranh đi qua, thời gian không dừng lại và thời gian chính là khoảng lặng thẩm mỹ để mỗi người Việt Nam nhìn lại những cuộc chiến và nhìn lại chính mình, đặc biệt là những người lính. Tuổi trẻ của họ hi sinh cho độc lập, tự do của tổ quốc, nay trở về họ phải đối mặt với biết bao khó khăn của thời hậu chiến như sự mất mát về thể xác, nguy cơ nghèo đói hay sự đụng độ với muôn mặt của đời sống. Thơ viết về chiến tranh, viết về người lính cụ Hồ giai đoạn này đã tập chung đi sâu vào những khó khăn ấy. Các tác phẩm tiêu biểu như Ngày hòa bình đầu tiên, Bài thơ riêng cho những người đã chết, Ra đi của Phùng Khắc Bắc, Nhìn từ xa…Tổ quốc của Nguyễn Duy, Ai? Tôi! của Chế Lan Viên hay Thím Hai Vui của Trần Nhuận Minh. Nhìn lại lịch sử và viết về chiến tranh như một vết thương chìm là một khuynh hướng thể hiện cái nhìn phi sử thi của thơ giai đoạn này. Điều này cũng làm nên sự khác biệt của thơ giai đoạn này so với giai đoạn trước. * Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân với những lo âu đời thường Theo tác giả Nguyễn Đăng Điệp đây là xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975. Nếu như trước đây các nhà thơ ngại nói về cái tôi cá nhân thì đến giai đoạn này nhiều nhà thơ đã công khai bày tỏ nỗi buồn nhân sinh, chỉ có điều đó không phải là nỗi buồn thoát li thực tại như đã từng xuất hiện trong thơ mới (Ta là con nai bị chiều giăng lưới, Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối) mà đó là nỗi buồn gắn liền với thực tại. Ở đó có nỗi buồn từ ý thức tự đánh mất mình: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 10 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  16. - Người diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi Chỉ một vai không đóng nổi. - Vai mình. …Anh đóng giỏi trăm vai lại đánh mất mình. (Thơ về thơ- Chế Lan Viên) - Tôi chưa từng đi lạc Nên chẳng ai tìm thấy tôi Có phải trong bóng tối Tôi đã hóa đêm rồi? (Chìm- Nguyễn Thế Hoàng Linh) Đến nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý đến chuyện tồn tại mà “ xa dần truyện bớt dần thơ” (Nguyễn Duy) và có những trắc ẩn về riêng tư, về đôi lứa “ Em chết trong nỗi buồn- Chết như từng giọt sương- Rơi không thành tiếng” (Lâm Thị Mỹ Dạ), hay nỗi buồn của tình yêu không kết dính, thiếu mặn mà, thắm thiết kiểu hiện đại: Chúng ta là cá và nước Cá bơi và nước trôi Chúng ta là bánh mì và chả lụa Bán riêng và ăn chung. (Gửi VB- Phan Thị Vàng Anh) Song song với nỗi buồn là sự cô đơn. Sự cô đơn ấy xuất hiện dày đặc trong sáng tác của các nhà thơ nữ như : Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Đỗ Bạch Mai, Đoàn Thị Lam Luyến, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi, Phạm Thị Ngọc Liên,... Nhiều khi nỗi buồn của tôi như sợi len dài Quấn xiết vào trái tim hỗn loạn ...Nhiều khi nỗi buồn của tôi xanh biếc như rêu Cứ nảy nở lan tràn dưới vực sâu tâm thức. (Nỗi buồn của chiếc bóng- Phạm Thị Ngọc Liên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 11 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  17. Trong giai đoạn này cái tôi cũng xuất hiện rất nhiều trên trang thơ, xong điều đáng buồn là cái tôi thường xuất hiện trong tư thế một mình, buồn, cô đơn, trống trải: Vẽ tôi mực rượu giấy trời Nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau Vẽ tôi thơ viết nửa câu Nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về… (Tự họa- Nguyễn Trọng Tạo) Vẽ tôi một nét môi cười Một dòng nước mắt một đời phù du (Vẽ tôi- Hoàng Phủ Ngọc Tường) Trong các nhà thơ có lẽ người cảm thấy hẫng hụt nhất, thấm thía nhất về nỗi buồn chính là Tố Hữu- nhà thơ với những trang thơ đã từng đi cùng lịch sử Việt Nam trong thế kỉ XX. Từ giọng thơ trữ tình ngọt ngào mang đậm tính sử thi và tính dân tộc với Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa nay Tố Hữu phải trở về với Một tiếng đờn, Ta với ta và với những nỗi đau như xát muối“ Có khổ đau nào đau khổ hơn, Trái tim tự xát muối cô đơn” hoặc “ Mới bình minh đó đã hoàng hôn, Đang nụ cười tươi bỗng lệ tuôn.” Sự trở về với cái tôi cá nhân với những lo âu đời thường của thơ sau 1975 là hệ quả tất yếu của xu hướng đào sâu vào nội tâm vì vậy cái tôi trong thơ hiện đại là cái tôi đa dạng, phong phú và phức tạp như chính bản thân đời sống và thế giới nội tâm của con người thời hiện đại. * Xu hướng đi sâu khai thác những vùng mờ tâm linh, vô thức của con người Tâm linh là gì? Có lẽ ai cũng đã từng một lần trong đời nhắc đến hai chữ này nhưng hiểu về nó một cách chính xác và đầy đủ thì có lẽ không nhiều bởi đây là một vấn đề đang gây nhiều tranh cãi và là một thách thức lớn với người nghiên cứu văn hóa hiện đại. Với nhiều người tâm linh là đời sống tinh thần đầy bí ẩn của con người, nó bao gồm cả cái tiềm thức, vô thức,bản năng thiên phú hay những khả năng bí ẩn của con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 12 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  18. Do những đặc trưng riêng của thơ ca cùng sự nhạy cảm của người thi si, thơ ca sau 1975 đã thực sự có những đột phá trong việc khám phá thế giới bí ẩn này. Các tác giả tiêu biểu có thể kể đến là Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng. Đến với Hoàng Cầm, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định “Thơ Hoàng Cầm thuộc phạm trù siêu thơ…Một thứ thơ hướng nội ở độ sâu thẳm nhất. Nó đi hẳn vào cõi tiềm thức, vô thức và diễn tả bằng chính ngôn ngữ mông lung vô thức”[35, tr.158]. Hoàng Cầm viết nhiều về những người đã khuất, những mối tình đã trở thành kỉ niệm, những người tình đã trở thành thiên cổ. Tập thơ 99 tình khúc chính là cuộc trò chuyện giữa thi nhân với 13 người con gái đã đi qua cuộc đời ông mà mỗi thi phẩm đều như một giá đồng. Trong tập Về Kinh Bắc ta cũng bắt gặp giọng nguyện khấn- một kiểu giọng đặc trưng trong thơ Hoàng Cầm, có lẽ đây là cách để ông gọi những người thân yêu của ông trở về: Khấn thầm như gặp Chị Mắt nứa cứa tay Em vẫn đón đầu làng Khấn thầm như Mẹ lỡ đò ngang Miệng hé hạt na nhòa bến vắng cổ tay tròn đẫn mía gie. (Đợi mùa) Còn Lê Đạt lại chủ trương “ Những con chữ trong câu thơ dẫn dắt trên con đường tâm thức ra khỏi lối đi ngữ nghĩa “ tiêu dùng””. Với Hoàng Hưng, ta sẽ bắt gặp sự cô đơn tuyệt đối, nhiều khi là tuyệt vọng: Sống chỉ còn như một thói quen; Ước nằm mơ mưa rơi rồi chết. (Mùi mưa hay bài thơ của M.) Ta đói mặt người ta khát mặt ta... Đi tạc mặt vào đêm. Đêm hút . (Người đi tìm mặt) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 13 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  19. Với Nguyễn Quang Thiều đi sâu vào những vùng mờ tâm linh còn là sự hòa hợp giữa đời sống tâm linh và tôn giáo. Chính vì vậy hình tượng trẻ em trong thơ ông là một biểu tượng của cái thuần khiết, thánh thiện, thường gắn với sự phục sinh của một thế giới mới tốt đẹp hơn : Trong hoang tàn của những lăng tẩm một bầy trẻ ùa vào Với gương mặt không dấu vết gì của thời đại suy tàn Chúng đuổi nhau, nô đùa, cười vang và hát Dưới bầu trời lớn lao ngập ánh sáng vĩnh hằng. (Bài ca những con chim đêm) Qua các vần thơ đi sâu khám phá những vùng mờ tâm linh của con người của các nhà thơ chúng ta cũng nhận thấy một điều: các nhà thơ không đến với thế giới tâm linh mờ ảo để tránh xa cõi đời mà ngược lại, đó cũng là một cách để các thi sĩ gắn bó với đời, với cõi người và với chính mình. * Xu hướng hiện đại và hậu hiện đại Những đại diện tiêu biểu của xu hướng này là các nhà thơ sinh ra trong chiến tranh nhưng trưởng thành trong những năm đầu của thời hậu chiến, họ là Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Huyền Thư và một số các nhà thơ trẻ thuộc thế hệ 8X như Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Thị Vàng Anh,...Với cái nhìn hiện đại, họ đã đưa vào thơ màu sắc hiện đại và hậu hiện đại. Một mặt họ muốn được phơi trần những khao khát, đam mê “ Em yêu anh điên cuồng/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung kí ức” ( Vi Thùy Linh), mặt khác cũng có khi họ muốn đưa vào thơ những dung tục, những sex trần trụi, thẳng thừng (Lê Minh Quốc- Chiếc giường ngủ của tôi tự bạch, Kí ức, Gọi mãi tên em; Phan Huyễn Thư-Thị Mầu 1997) và những cách tân nghệ thuật kiểu như những câu thơ lên dòng, xuống dòng, vắt dòng, những cách dùng từ đậm chất phương Tây. Không thể phủ nhận khả năng làm mới, lạ hóa và gây tranh cãi khi xu hướng này xuất hiện nhưng trong khi mải mê chạy theo những cái mới, cái lạ, cái gây sốc trong thơ thì không ít người đã rơi vào trạng thái quá đà, trở thành tự nhiên chủ nghĩa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 14 http://www.lrc.tnu.edu.vn
  20. 1.1.2. Các chặng đường phát triển * Mười năm sau chiến tranh (1975-1985) Bước sang thời hậu chiến xã hội đã có những thay đổi lớn mà nổi bật là sự đa diện, đa chiều của đời sống, sự trở về với cái tôi cá nhân vì vậy cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn cũng dần trở nên mờ nhạt. Có thể khái quát sự vận động của tư duy thơ giai đoạn này theo hai mạch chính. Thứ nhất là sự tiếp nối của cảm hứng sử thi. Biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một loạt các trường ca và các bài thơ lớn tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Tuy vẫn mang âm hưởng hào hùng, sâu lắng nhưng các nhà thơ đã bắt đầu chú ý hơn đến những suy tư của con người như «Một mình một mân cơm, Ngồi bên nào cũng lệch, Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền »(Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh). Và đặc biệt là những khó khăn của những người lính thời hậu chiến (Ngày hòa bình đầu tiên, Ra đi- Phùng Khắc Bắc ; Ai ? Tôi- Chế Lan Viên). Điều này phần nào đã bộc lộ cái nhìn sâu hơn, toàn diện hơn của thơ giai đoạn này. Bên cạnh mạch thơ tiếp nối cảm hứng sử thi là mạch « thơ đời thường » xuất hiện trong những năm cuối thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chưa bao giờ trong thơ người ta lại chứng kiến nhiều bi kịch về con người đến thế. Tiêu biểu như bi kịch về sự nghèo đói, bất hạnh (Nhìn từ xa...Tổ quốc- Nguyễn Duy ; những khó khăn của những người lính trở về sau chiến tranh cùng những bế tắc của họ trong cuộc sống (Tản mạn thời tôi sống- Nguyễn Trọng Tạo, Thím Hai Vui- Trần Nhuận Minh), bi kịch đánh mất mình của con người (Thơ về thơ - Chế Lan Viên, Chìm- Nguyễn Thế Hoàng Linh). Bằng cái nhìn tỉnh táo, suy tư và chiêm nghiệm sâu sắc nhiều nhà thơ đã chỉ ra những mặt trái của đời sống, những suy thoái, lệch lạc trong đạo đức, lối sống của con người. Đây cũng là điểm mới nổi bật của thơ ca mười năm đầu sau chiến tranh so với 30 năm của giai đoạn trước (1945- 1975). * Giai đoạn từ đổi mới (1986) đến nay Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI diễn ra vào tháng 12 năm 1986 đời sống xã hội nước ta đã có những thay đổi căn bản, toàn diện và sâu sắc. Từ tình trạng khủng hoảng, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, quan liêu và chủ quan duy ý trí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 15 http://www.lrc.tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1