Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ, văn hóa và văn học Việt Nam: Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài từ góc nhìn văn hóa
lượt xem 10
download
Luận văn nhằm chỉ ra những giá trị về văn hóa được thể hiện trong tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. Từ đó góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật và đóng góp của Tô Hoài đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, cũng như việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ, văn hóa và văn học Việt Nam: Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài từ góc nhìn văn hóa
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC LÊ THỊ THU CHUYỆN CŨ HÀ NỘI CỦA TÔ HOÀI TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Diệu Linh
- Thái Nguyên, tháng 5 2018
- 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Diệu Linh. Nội dung đề tài nghiên cứu của luận văn chưa được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018 Tác giả luận văn Lê Thị Thu
- 4 MỤC LỤC
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là hướng nghiên cứu ngày càng được sử dụng phổ biến. Danh nhân người Pháp E.douard Herriot đã nói: “Văn hóa là những gì còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả”. Mỗi một dân tộc, một đất nước, một vùng đất trên thế giới đều có cho riêng mình những bản sắc văn hóa không thể pha lẫn. Văn học nằm trong văn hóa, là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc. Mối quan hệ văn hóa văn học là mối quan hệ gắn bó khăng khít không thể tách rời. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa giúp chúng ta có khả năng khai thác sâu giá trị nội tại của tác phẩm, có cái nhìn bao quát, sâu sắc toàn diện đời sống văn hóa của cả cộng đồng dân tộc. ̉ 1.2. Tô Hoài không chi là nhà văn l ớn của nền văn học hiện đại Việt Nam mà ̀ ̀ ̣ ́ ơn. Trên hành trình sáng t ông con la môt nha văn hoa l ̀ ́ ạo hơn 60 năm không ngừng nghỉ, Tô Hoài đã trải qua những mốc lịch sử và văn học đặc biệt: trước và sau Cách mạng tháng Tám; trong chiến tranh và trong hoà bình; trước và sau thời kỳ đổi mới văn học. Sáng tác của Tô Hoài đa dạng về đề tài và thể loại: từ đề tài miền xuôi đến đề tài miền núi, từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện đồng thoại đến kịch bản phim, tiểu luận...Ở đề tài và thể loại nào, ông cũng đê lai nh ̉ ̣ ững dấu ấn riêng rõ nét thể hiện bản lĩnh va tai năng c ̀ ̀ ủa người cầm bút. Đề tài Hà Nội trong văn Tô Hoài là mảng sáng tác độc đáo, có những thành công và tạo được dấu ấn riêng, đậm nét trong lòng độc giả. Cùng với Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng...Tô Hoài đã để lại nhiều trang văn xuất sắc, vì câu chữ của ông không những thể hiện được văn hóa, phong tục mà còn thể hiện được “hồn vía” của người Hà Nội. Tô Hoài là người Hà Nội, mảnh đất và con người nơi đây đã tạo cảm hứng và định hướng nghệ thuật cho nhà văn từ những ngày đầu cầm bút.
- 1.3. Trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội không đơn thuần là một tập ký sự mà còn được đánh giá như là“một tư liệu văn hoá dân tộc, một chứng từ thời đại và là tác phẩm văn học có giá trị cao về ba mặt nghệ thuật, sử liệu và nhân đạo” [62]. Tác phẩm được coi “là một Vũ trung tùy bút thời hiện đại” [54]. Với tư cách một chứng nhân, Tô Hoài đã ghi lại “muôn mặt đời thường” của Hà Nội thời thuộc Tây, một giai đoạn quá khứ tuy không quá xa nhưng cũng khiến người đọc phải ngỡ ngàng, lạ lẫm. Tuy nhiên, Phong Lê đã từng phải ngậm ngùi khi cho rằng Chuyện cũ Hà Nội là “tác phẩm rất quý giá về tư liệu và vui hóm trong cách kể...nhưng lại ít có bài bàn và bình” [20, tr. 18]. 1.4. Tác phẩm của Tô Hoài đa đ ̃ ược đưa vào giảng dạy và học tập trong nhà trường phổ thông nhiều năm nay. Vì vậy việc tìm hiểu Chuyện cũ Hà Nội một tác phẩm độc đáo của Tô Hoài sẽ góp phần giúp cho các thế hệ độc giả có cái nhìn toàn diện về sáng tác của nhà văn, có thêm nguồn tư liệu phục vụ cho công tác học tập và giảng dạy. Từ những lí do nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài từ góc nhìn văn hóa. Đây chính là hành trình trở về với văn học, văn hóa truyền thống khi mà vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa đang đặt ra bức thiết như hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Những công trình nghiên cứu về Tô Hoài và đề tài Hà Nội trong văn Tô Hoài Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn học dân tộc, do đó đã có nhiều công trình nghiên cứu về ông. Với một số lượng tác phẩm lớn, thời gian sáng tác lâu dài, nhiều mảng đề tài, nhiều nội dung đặc sắc cùng với những nét nghệ thuật độc đáo...có thể thấy rằng việc nghiên cứu về Tô Hoài là vấn đề khoa học mà ở đó mỗi người có thể khám phá và tìm thấy những đặc sắc riêng. Đó cũng là lý do mà từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài ở nhiều góc độ, nội dung khác nhau.
- Hà Minh Đức trong bài giới thiệu khái quát về các nhà văn Việt Nam đã dành những lời nhận xét trân trọng, xác đáng, nhà văn Tô Hoài là “ cây bút sung sức, giàu sáng tạo” và đặc biệt nhấn mạnh giá trị văn hóa qua những trang văn Tô Hoài “Ông viết về đất nước, quê hương, con người qua những bức tranh chân thực và lắng đọng với thời gian để làm nổi lên những giá trị vật chất và tinh thần bền vững” [7, tr 9]. Phong Lê là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều tâm đắc với Tô Hoài. Trong bài Tô Hoài, sáu mươi năm viết khi tổng kết toàn bộ hành trình sáng tác bền bỉ, liên tục của nhà văn, Phong Lê cho rằng: “ Đề tài Hà Nội cũ và mới vốn là mạch sống quen thuộc ở Tô Hoài” [20, tr18]. “Một Hà Nội quê hương trong ba chiều thời gian, quả đã làm nên vóc dáng một Tô Hoài, có giống và có khác với Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng cái “bộ tứ” làm nên khuôn hình và chất lượng “Người Hà Nội văn Hà Nội” [20, tr37]. Trong một bài viết khác mang tên Ngót sáu mươi năm văn Tô Hoài, Phong Lê cũng khẳng định: Tô Hoài là nhà văn “Lực lưỡng và liên tục đến già”. Đặc biệt phong cách Tô Hoài “không lẫn với ai. Một Tô Hoài hết mình. Hóm hỉnh và thông minh. Nhẹ nhõm mà có sức nặng. Cứ như đùa mà thật nghiêm chỉnh. Nhũn nhặn, khiêm nhường mà thật dũng cảm ” [20, tr 179]. Trong bài Tô Hoài, người sinh ra để viết, Nguyễn Đăng Điệp đã cho rằng “Tô Hoài mang phẩm chất của một cây bút chuyên nghiệp”, “là một pho từ điển bách khoa về đời sống” [49]. Nhà nghiên cứu cũng rất tinh tế khi cho rằng cảm hứng chính trong những trang văn của Tô Hoài chính là lấy từ “ hai vùng đất: con người, phong thổ ngoại ô Hà Nội và vùng đất Tây Bắc”. Trong đó riêng về đề tài Hà Nội, Tô Hoài là “một cây bút cự phách”. Những trang văn xuất sắc của Tô Hoài không những thể hiện được văn hóa, phong tục mà còn thể hiện được “ hồn vía của người Hà Nội” [49]. Cũng nhận xét về đề tài Hà Nội trong văn Tô Hoài, Trần Hữu Tá viết: “ Có thể coi ông là nhà văn của Hà Nội” [31, tr. 150]. Đồng thời nhà nghiên cứu cũng chỉ ra nét riêng độc đáo của Tô Hoài khi viết về mảnh đất đã được quá nhiều người “ cày
- xới” và “canh tác” thành công này: “Nguyễn Huy Tưởng viết rất gợi cảm về rừng bàng Yên Thái, bến trúc Nghi Tàm…Nguyễn Tuân lại có những trang đặc sắc tả khu trung tâm thành phố…Tô Hoài có riêng một vùng ngoại thành cần lao nhưng thơ mộng gắn bó với ông từ thuở lọt lòng” [31, tr. 158]. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã dành khá nhiều bài viết về các sáng tác của Tô Hoài. Trong bài Cuộc phiêu lưu giữa trần ai cát bụi, tác giả đã cho rằng đời văn hơn 60 năm của Tô Hoài là quá trình lao động nghệ thuật sung sức, bền bỉ và nghiêm túc: “Đó là một sự kéo dài đường hoàng chứ không phải lê lết , tẻ nhạt”. Và “đời văn của Tô Hoài gợi ra hình ảnh một dòng sông miên man chảy và mang trong mình cả cuộc sống bất tận” [29, tr. 180]. Trong một bài viết khác mang tên Tô Hoài với muôn mặt nghề văn, Vương Trí Nhàn đã dẫn lời nhà thơ Tế Hanh khi so sánh “Có những người như Picasso sinh ra để vẽ, ở một mức độ nào đó cũng có thể nói Tô Hoài sinh ra để viết” [20, tr. 582]. Điều đó càng khẳng định mối lương duyên bền chặt giữa Tô Hoài và văn chương. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, người bạn thân thiết của Tô Hoài cũng đã nhận xét: “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không học giả nào có thể sánh được. Tôi đã có dịp tò mò hỏi ông về Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngờ ông hiểu Hà Nội sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là Nhà Hà Nội học, dù ông không nghiên cứu” [52]. Tác giả Hoài Anh trong bài viết Tô Hoài, nhà văn viết về Hà Nội đặc sắc và phong phú cho rằng “Đề tài Hà Nội luôn luôn trở đi trở lại trong tác phẩm của Tô Hoài: Vỡ tỉnh, Người ven thành, Chuyện cũ Hà Nội, Quê nhà…”. Tác giả cũng chỉ ra đặc trưng riêng của văn phong Tô Hoài đó là lối viết “ hóm hỉnh, sắc sảo, giàu chất tạo hình và chất thơ, nhất là trong những đoạn miêu tả thiên nhiên, cảnh sắc” [1, tr. 175]. Như vây, co thê noi đa co rât nhiêu nh ̣ ́ ̉ ́ ̃ ́ ́ ̀ ững bai viêt, công trinh nghiên c ̀ ́ ̀ ứu vê sang ̀ ́ ́ ̉ ̀ ̀ ̀ ̀ ̀ ̣ ̀ ́ ̀ ̀ ̃ ̉ ̣ tac cua Tô Hoai va đê tai Ha Nôi trong văn Tô Hoai. Điêu đo phân nao đa khăng đinh ̀
- tai năng văn ch ̀ ương va nh ̀ ưng công hiên to l ̃ ́ ́ ơn cua Tô Hoai v ́ ̉ ̀ ới văn hoa, văn hoc ́ ̣ nươc nha. ́ ̀ 2.2. Những công trình nghiên cứu về Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài là một tác phẩm hấp dẫn, có giá trị cả về mặt lịch sử, văn hoá lẫn giá trị nghệ thuật văn chương. Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác giả Tô Hoài nói chung, nhưng riêng hai tập Chuyện cũ Hà Nội của ông lại ít được đề cập đến. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể kể tên một số công trình sau: Nguyễn Thị Chiến trong bài Nét văn hóa Thăng Long xưa trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài đã cho rằng: “Tác phẩm là một tập ký sự độc đáo, hấp dẫn người đọc bởi một lối kể chân thực, một cách nhìn thấu đáo hồn hậu, thấm đẫm tình yêu sâu lắng, xót xa mà vẫn tràn trề hy vọng về mảnh đất Thăng Long xưa” [46]. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra nội dung chính của tác phẩm là “dựng lên diện mạo Hà Nội từ hai phương diện: Văn hoá vật chất với cảnh sống cực khổ của người dân nô lệ mất nước và văn hoá tinh thần với vẻ đẹp của phong tục tập quán, lễ hội, văn học dân gian và sức mạnh tinh thần bền vững” [46]. Tuy nhiên bài viết chưa tái hiện đầy đủ bức tranh văn hóa Hà Nội mà tác giả dừng lại bàn về một số nét văn hóa như lễ hội, tết… Vương Trí Nhàn nhận xét: “Từ các làng xóm chung quanh nội thành, người đi viết văn, viết báo xưa nay không phải ít, nếu kể ra các vùng quê mới cắt từ Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông để nhập vào Hà Nội, thì số tác giả của Thủ đô thật là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang được cái chất riêng của vùng đất mà mình đã từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời cầm bút” [29, tr. 180]. Tác giả bài viết Tô Hoài người Hà Nội khẳng định: “Nói đến Tô Hoài người ta cũng không thể không nói đến những tác phẩm văn chương mang đậm dấu ấn Hà Nội của ông. Hà Nội trong những trang viết của Tô Hoài hiện lên rất bình dị,
- mộc mạc mà gần gũi nhưng không vì thế mà mất đi nét hào hoa, lãng tử và dí dỏm vốn có của một nhà văn gốc người Hà Nội” [59]. Cũng đồng tình với các quan điểm trên, nhưng đứng trên cương vị của một người đọc để thấu cảm tác phẩm, tác giả Đặng Tiến trong bài Đọc Chuyện cũ Hà Nội lại khá tinh tế khi nhận ra rằng: “ Chuyện cũ Hà Nội là niềm hoài cựu miên man về một thành phố, đồng thời là khối trầm tư ray rứt một đời người về thân phận làm người” [62]. Tác giả cũng nhấn mạnh giá trị văn hóa của tác phẩm khi cho rằng “Tô Hoài đã mở rộng đề tài Hà Nội sang địa hạt văn hoá dân tộc trên cả hai chiều lịch sử và thời sự”. Cuối cùng Đặng Tiến đánh giá “Chuyện cũ Hà Nội, ký sự địa phương, là một tư liệu văn hoá dân tộc, một chứng từ thời đại và là tác phẩm văn học có giá trị cao về ba mặt nghệ thuật, sử liệu và nhân đạo” [62]. Tác giả Quế Lam trong bài biết Nhà văn Tô Hoài với Chuyện cũ Hà Nội đã đánh giá: “Chuyện cũ Hà Nội được nhận xét là một tập ký sự về lịch sử…một tập điều tra xã hội học của thời nửa đầu thế kỷ XX bằng văn chương ” [54]. Ở đó, nhà văn Tô Hoài đã vẽ nên một Hà Nội đang trong quá trình đô thị hóa với những thay đổi “nửa Tây nửa Ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê” [54]. Đồng thời người viết cũng điểm qua đôi nét về nghệ thuật: “ngòi bút sắc sảo và sự hiểu biết phong phú”, “năng lực quan sát và kỹ thuật phân tích sâu rõ” [54]. Mỗi mẩu chuyện tuy ngắn nhưng đều đọng lại trong lòng độc giả nhiều cảm xúc, vui có, buồn có và cả sự thương cảm. Trong một bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học & Công nghệ, hai tác giả Lê Thị Như Nguyệt và Phạm Kim Thoa lại nghiên cứu Đặc điểm cú pháp trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. Tác giả rút ra đặc điểm chủ yếu cua câu văn Tô Hoài là s ̉ ử dụng nhiều kiểu câu “như câu đơn hai thành phần, câu đặc biệt (câu đặc biệt danh từ, câu đặc biệt vị từ), câu dưới bậc (câu ẩn chủ, câu khuyết chủ, câu dưới bậc có tính vị ngữ lâm thời), câu phức, câu ghép, trong đó nhà văn chủ yếu sử dụng câu đơn, câu đặc biệt và câu dưới bậc” [57], tạo ra sự mộc mạc, dung dị, dễ hiểu vốn là phong cách đặc trưng của văn Tô Hoài.
- Ngoài ra, Chuyện cũ Hà Nội cũng là đề tài của một số luận văn trong những năm gần đây. Tác giả Ngô Chiến Thắng (Đại học Vinh, 2009) trong luận văn Ngoại ô Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám qua Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài đã khám phá bức tranh chung về ngoại ô Hà Nội trước Cách mạng, thế giới nhân vật với những cảnh ngộ khác nhau, màu sắc văn hóa Hà Nội thể hiện qua những phong tục, tập quán...Bên cạnh đó, tác giả còn khám phá những nét đặc sắc nghệ thuật riêng cua Tô Hoai trong tác ph ̉ ̀ ẩm như: khả năng quan sát, miêu tả tinh tế, sắc sảo; khả năng phân tích thế giới và con người qua sự hiểu biết chân thành và nhân hậu; ngôn ngữ sống động, giọng điệu phong phú ...Qua đó, tác giả Ngô Chiến Thắng đánh giá: “Chuyện cũ Hà Nội là một tập truyện có giá trị về xã hội học, giàu kiến thức về lịch sử Hà Nội nhưng hơn tất cả đó là một tác phẩm văn chương đặc sắc, gây ấn tượng” [36, tr. 60]. Trong một luận văn thạc sĩ khác, tác giả Đỗ Thị Hồng Vân (Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên, 2013) lại khám phá góc độ Cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài một cách tỉ mỉ sâu sắc. Tác giả luận văn đã cho người đọc thấy được cảm quan hiện thực của Tô Hoài thông qua cảm quan về xã hội, con người và phong tục. Qua quá trình tìm hiểu tác phẩm, người viết đã đưa ra những kết luận khá xác đáng: “Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài là một tác phẩm hấp dẫn, có giá trị cả về mặt lịch sử, văn hoá lẫn giá trị nghệ thuật văn chương. Xuất phát từ quan niệm viết văn độc đáo, từ tình yêu thiết tha dành cho Hà Nội, Tô Hoài đã viết nên những trang văn với cảm quan hiện thực sâu sắc , tiếp nối những trang văn về cảm hứng Hà Nội. Đó là cảm nhận riêng của Tô Hoài về thủ đô , trong đó chứa đựng những quan niệm và cách cắt nghĩa riêng về không gian nghệ thuật này của người nghệ sĩ” [45, tr. 78]. Năm 2013, Nguyễn Thị Út Hà (Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên) dưới sự hướng dẫn của GS. Phong Lê đã tiến hành nghiên cứu thành công luận văn thạc sĩ với đề tài Chuyện cũ Hà Nội trong văn Tô Hoài. Tác giả đã chỉ ra bối cảnh xã hội trong những năm 1941 1945, giá trị và đặc trưng của Chuyện cũ Hà Nội
- thông qua bức tranh đô thị hóa, người và cảnh, nếp sống và phong tục, ẩm thực, thú chơi, đô thị, ven đô trong Chuyện cũ Hà Nội cùng với những đặc sắc nghệ thuật và phong cách Tô Hoài. Như vậy, có thể thấy rằng, Chuyện cũ Hà Nội là một tác phẩm xứng đáng để nghiên cứu và đã bước đầu được quan tâm, khảo sát, tìm tòi. Chúng tôi coi đây là những gợi ý quan trong trong quá trình nghiên c ̣ ứu đề tài của mình. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về Chuyện cũ Hà Nội một cách công phu và toàn diện từ góc nhìn văn hóa. Vì lẽ đó, trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả mà nhưng ng ̃ ười đi trước đã đạt được, chúng tôi mở rộng, khơi sâu và làm rõ những giá trị văn hóa trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. 3. Đối tượng, muc đich ̣ ́ và pham vi nghiên c ̣ ưu. ́ 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu những dấn ấn văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. 3.2. Mục đich nghiên c ́ ứu Luận văn nhằm chỉ ra những giá trị về văn hóa được thể hiện trong tác phẩm Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài. Từ đó góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật và đóng góp của Tô Hoài đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, cũng như việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam . Luận văn cũng góp phần cung cấp cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về nhà văn Tô Hoài phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy tác gia này trong nhà trường. 3.3. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hai tập Chuyện cũ Hà Nội (1998), Nhà xuất bản Hà Nội va co s ̀ ́ ự so sanh, đôi chiêu v ́ ́ ́ ới môt sô tac phâm cung đê tai cua cac ̣ ́ ́ ̉ ̀ ̀ ̀ ̉ ́ ̀ ́ ư: Thach Lam, Nguyên Tuân, Vu Băng… nha văn khac nh ̣ ̃ ̃ ̀
- 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu liên ngành: tìm hiểu hoàn cảnh văn hóa lịch sử xã ̣ ảnh hưởng đến nhà văn và tác phẩm. hôi Phương phap nghiên c ́ ưu thi phap hoc. ́ ́ ̣ Phương phap nghiên c ́ ưu hinh th ́ ̀ ưc. ́ ́ ̀ ử dung cac thu phap: so sanh, đôi chiêu, thông kê, phân Ngoai ra, chung tôi con s ̀ ̣ ́ ̉ ́ ́ ́ ́ ́ ̣ loai, phân tich… ́ 5. Đóng góp của luận văn Luận văn chỉ ra những giá trị văn hóa kết tinh và thể hiện trong tác phẩm từ đó góp phần nào đó giáo dục ý thức tự hào, giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc trong bối cảnh giao lưu và hội nhập văn hóa hiện nay. Thông qua những kết quả nghiên cứu, luận văn cũng góp phần cung cấp cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về nhà văn Tô Hoài. Luận văn cũng co thê là tài li ́ ̉ ệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy nhà văn Tô Hoài trong nhà trường. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2. Những giá trị văn hóa trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài Chương 3. Nghệ thuật thể hiện văn hóa Hà Nội trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài NỘI DUNG
- CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tiêp cân văn hoc t ́ ̣ ̣ ư goc nhin văn hoa ̀ ́ ̀ ́ 1.1.1. Mối quan hệ văn hóa văn học Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau. Cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về Văn hoá. Trên thế giới hiện nay có khoảng hơn 400 định nghĩa về Văn hoá. Theo từng góc độ tiếp cận, có định nghĩa xuất phát từ bình diện lịch sử, chính trị, xã hội; có định nghĩa xuất phát từ những đặc trưng, chức năng, cấu trúc…Tuỳ theo mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi nhà khoa học lại có một cách định nghĩa khác nhau. Điều này đã tạo nên sự phong phú cho khái niệm Văn hoá. Về nguồn gốc thuật ngữ Văn hoá, theo các nhà ngôn ngữ học phương Tây, Văn hoá (culture) với tư cách là một danh từ độc lập chỉ bắt đầu được sử dụng vào cuối thế kỉ XVII. Ở phương Đông, từ Văn hoá được sử dụng rất sớm. Theo tư liệu ghi chép của Trung Hoa cổ đại, từ “Văn” có nghĩa gốc là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Từ nghĩa gốc này, “Văn” có nghĩa là hình thức đẹp trong lễ, nhạc, trong cách cai trị, trong ngôn ngữ cũng như trong cách cư xử…“Hoá” có nghĩa là làm thay đổi, làm cho trở nên tốt đẹp, hoàn thiện. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ xin đưa ra một số định nghĩa tiêu biểu, đáng chú ý về Văn hoá. Trước hết, theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc thì “Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác” [25, tr. 20]. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm lại đưa ra một định nghĩa khác về văn hóa dựa trên cái nhìn cấu trúc hệ thống và loại hình: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
- động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [37, tr. 10]. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về Văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” [63]. Từ những định nghĩa về Văn hoá trên đây, ta có thể hiểu một cách khái quát như sau: Con người trong quá trình sống đã sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần. Văn hoá chính là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần ấy. Văn hóa được sáng tạo ra nhằm phục vụ con người trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, được con người lưu giữ và truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng thời, văn hóa là hoạt động mang tính biểu tượng và mang những giá trị được kết tinh thành những bản sắc riêng, đặc thù riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hoá gắn liền với cuộc sống con người, với sự phát triển và hoàn thiện của con người, xã hội. Bên cạnh khái niệm văn hóa thì văn học là một loại hình sáng tác tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Văn học hiểu theo nghĩa rộng là thuật ngữ gọi chung mọi hành vi ngôn ngữ nói viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Theo cách hiểu này thì các tác phẩm chính trị, triết học, tôn giáo…cũng có thể được gọi chung là Văn học. Theo nghĩa hẹp mà ngày nay chúng ta thường dùng thì khái niệm Văn học bao gồm các tác phẩm ngôn từ phản ánh những vấn đề đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả đã đưa ra một định nghĩa khá đầy đủ về văn học như sau:“Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ...Văn học là sự phản ánh của đời sống xã hội thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người (…).Văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức
- trung tâm. Văn học nhận thức con người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó trên phương diện thẩm mĩ. Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ nhận thức chân lý khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng của mình đối với con người và cuộc sống. Do đó, nội dung của văn học là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện chủ quan và phương diện khách quan” [11, tr. 401 402]. Như vậy, văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù và có vị trí quan trọng trong nền văn hoá của một dân tộc. Cũng như màu sắc đối với hội hoạ, âm thanh đối với âm nhạc, ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ được đưa vào sử dụng trong văn học không phải ngôn ngữ bình thường ta vẫn dùng hằng ngày mà phải là “ngôn ngữ nghệ thuật”. Theo M. Gorki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói “nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được những “người thợ tinh xảo nhào luyện”. Mỗi nhà văn lớn đều là những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. Ngôn ngữ cũng là phương tiện để nhà văn xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật. Thông qua các hình tượng nghệ thuật của mình, nhà văn thể hiện lập trường, quan điểm, suy nghĩ của mình trước hiện thực cuộc sống. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là mối quan hệ hữu cơ giữa cái riêng và cái chung, giữa cái bộ phận và cái toàn thể. Văn học là một bộ phận của văn hoá. Văn học, cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán... là những thành tố hợp thành cấu trúc tổng thể bao trùm lên tất cả là văn hoá. Vì vậy, cũng như các thành tố kia, văn học luôn chịu sự chi phối từ môi trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc. Mặt khác, nói tới văn hoá của một dân tộc ta thường nghĩ tới văn học, bởi văn học có một vị trí không thể thiếu trong mỗi nền văn hoá. Văn học là sự “tự ý thức” của văn hóa. Văn học không những là một bộ phận của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng và chi phối trực tiếp của văn hóa, mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa. Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc. Mặt khác, nhà văn chủ thể sáng tác
- phải là con đẻ của một cộng đồng, thuộc về một cộng đồng nhất định, muốn hay không nha văn đo cũng đã ti ̀ ́ ếp nhận những thành tố văn hóa của cộng đồng mình. Có thể khẳng định, không thể có nền văn học nằm ngoài tổng thể văn hoá nhân loại. Nếu văn hoá trong quá trình hình thành và phát triển đã trải qua những chặng đường tìm kiếm, lựa chọn, đấu tranh và sáng tạo để hình thành nên những giá trị trong xã hội thì văn học chính là nơi lưu giữ những thành quả giá trị xã hội đó. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói văn học là “tấm gương phản chiếu” văn hoá bằng nghệ thuật ngôn từ. Văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật. Một điều dễ nhận thấy là cả văn hoá và văn học đều lấy con người làm trung tâm. Con người chính là chủ thể sáng tạo và đồng thời cũng là cái đích hướng tới của văn hoá và văn học. Do đó, văn hoá và văn học đều có những tác động chi phối lẫn nhau. Sự tác động chi phối thể hiện trước nhất ở việc, văn học làm nên diện mạo cho văn hóa. Mặt khác, văn hoá lại chính là “chất liệu” của văn học, là “chìa khoá” mở ra “cánh cửa” nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Trong mỗi tác phẩm văn học, bao giờ ta cũng tìm thấy những hình ảnh của một nền văn hoá qua sự tiếp nhận và phản ánh của chủ thể sáng tạo văn học. Đó có thể là hình ảnh của một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước qua kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam; đó là những vẻ đẹp văn hoá Việt của Vang bóng một thời trong những trang tuỳ bút tài hoa của Nguyễn Tuân; hay bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc trong truyện ngắn của Tô Hoài, Cao Duy Sơn, Ma Văn Kháng…Tác phẩm văn học mang bóng dáng của văn hoá là hệ quả tất yếu bởi bản thân người nghệ sy sáng t ̃ ạo văn học cũng là một sản phẩm văn hoá; cách suy nghĩ, quan điểm, lối viết của họ bị chi phối bởi một nền văn hoá nhất định. Đồng thời, văn hoá cũng chi phối cách đánh giá, thưởng thức của người đọc trong quá trình tiếp nhận, bởi đối tượng người đọc này đã được rèn luyện về thị hiếu thẩm mĩ trong một môi trường văn hoá nhất định. Do vậy, nếu muốn tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại, người ta có thể căn cứ vào những dữ liệu có trong các tác phẩm văn học. Nói cách khác, thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa học
- nghiên cứu văn hoá. Nếu như văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học thì ngược lại, văn học cũng có những tác động nhất định đến đời sống văn hoá. Trước hết, văn học là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá nhân loại. Có những giá trị văn hoá từ lâu, nay đã không còn nữa nhưng người ta có thể biết đến nó trong các tác phẩm văn học. Văn học dân gian chính là nơi lưu giữ văn hoá dân gian truyền thống, những tập tục, những tín ngưỡng, phong tục, lễ hội…từ ngàn xưa, nay chỉ còn đọng lại bóng dáng trong những tác phẩm văn học. Văn học góp phần khẳng định, định hướng những giá trị văn hoá nhân loại. Các nhà văn đích thực đồng thời cũng là những nhà văn hoá. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ khẳng định những giá trị văn hoá của dân tộc, bảo lưu và góp phần tuyên truyền đến mọi người những nét đẹp văn hoá. Đồng thời họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện phi văn hoá, góp phần “thanh lọc” tạo nên một nền văn hoá lành mạnh, tốt đẹp. Thậm chí, các nhà văn thông qua các tác phẩm văn học của mình còn đi tiên phong, định hướng cho sự phát triển một lí tưởng thẩm mỹ, một lối sống văn hoá mới mẻ. Tác phẩm văn học tác động vào tình cảm của con người, qua đó điều chỉnh cách sống, cách suy nghĩ, cách ứng xử trong văn hoá. Như vậy, văn học và văn hoá gắn bó với nhau trong mối quan hệ hữu cơ mật thiết không thể tách rời. Nhà văn sáng tác tác phẩm văn học là một hoạt động văn hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là người hưởng thụ văn hoá. 1.1.2. Nghiên cưu văn hoc d ́ ̣ ươi goc nhin văn hoa trong văn hoc Viêt Nam hiên đai ́ ́ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ̣ Trong lịch sử nghiên cứu văn học, có rất nhiều con đường, nhiều phương thức khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học như: xã hội học, thi pháp học, nghệ thuật học…Trong đó, phương thức tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đã ngày một khẳng định được thế mạnh cũng như tính ưu việt của mình, nhất là trong bối cảnh giao lưu văn hóa mạnh mẽ như hiện nay.
- Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá chính là việc đặt tác phẩm văn học trong không gian văn hoá đã tác động đến tác phẩm văn học ấy, từ đó mà hiểu đúng, sâu sắc nội dung phản ánh của tác phẩm văn học. Phương pháp tiếp cận này dùng văn hóa là hệ quy chiếu để cảm nhận văn học. Đồng thời, văn học cũng được xem như là một hiện tượng của văn hóa, sản phẩm của văn hóa chứ không đơn thuần là sản phẩm của đạo đức, chính trị…Phương pháp này “ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hoá trong đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người, cũng như sự chi phối của các phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội sống động hiện thực…từng tồn tại trong một không gian văn hoá xác định” [39]. Hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa phải được tiến hành theo những nguyên tắc cụ thể: 1/ Phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn của văn hóa xã hội hoặc trong sự ảnh hưởng qua lại của văn học đối với các hiện tượng văn hóa khác. 2/ Xem văn học là bộ phận của văn hóa thì văn bản văn học cũng là một sản phẩm văn hóa, vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hóa. 3/ Văn học là một trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới cả mạch ngầm sâu thẳm của đời sống văn hóa cũng như chiều sâu tư tưởng của người nghệ sỹ. Vì vậy cần chú ý đến sự tác động của văn hóa đến với thế giới quan, tâm hồn người nghệ sỹ. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là hướng tiếp cận ngày càng được chú trọng và mở rộng phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Có hướng nghiên cứu nhằm nhận diện và miêu tả các biểu hiện văn hóa có trong các tác phẩm văn học; cũng có hướng nghiên cứu thiên về giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hoá lịch sử của chúng; lại có hướng nghiên cứu trên phương diện ngôn ngữ của các văn bản nghệ thuật, đi tìm hiểu nghĩa và cơ chế kiến tạo nghĩa của nội dung hình thức của các tác phẩm văn học từ bối cảnh văn hóa xã hội…
- Phương pháp tiếp cận văn hoá học từ lâu đã được giới nghiên cứu vận dụng hoặc là tự giác, hoặc là tự phát trong một số công trình nghiên cứu văn học. Những năm đầu thế kỉ XX ở nước ta, hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đã được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Từ việc đưa ra những quan điểm về mặt nhận thức, lí luận dựa theo lý thuyết phương Tây áp dụng vào thực tiễn Việt Nam đến việc thực nghiệm trên một số tác phẩm của các tác gia tiêu biểu, giới nghiên cứu đã tạo nên một bức tranh nghiên cứu văn hóa văn học dưới sự soi rọi của ánh sáng văn hóa. Năm 1985, trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nhà văn hóa học Phan Ngọc đã sớm nhận ra và vận dụng những yếu tố văn hóa xã hội để tìm ra những đặc trưng của phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Năm 1994, trong cuốn sách Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Phan Ngọc cũng đã đưa ra những quan điểm về văn hóa, cách tiếp cận văn hóa trong văn học, gợi mở nhiều hướng nghiên cứu khác nhau cho các học giả sau này. Và khi một số công trình của M.Bakhtin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng được thuyết phục. Đến năm 1995, Trần Đình Hượu với công trình Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại nghiên cứu văn học Việt Nam từ Nho giáo đã chỉ ra được đặc điểm của giai đoạn văn học kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn, mối quan hệ giữa Nho giáo và văn học Việt Nam trung đại và đưa ra những hình mẫu nhà nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử) như là một giả thuyết làm việc. Điều này, về sau, được Trần Ngọc Vương cụ thể hóa bằng một cái nhìn loại hình học trong Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam (1995). Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã thấy được và lý giải những biểu tượng đa nghĩa, lấp lửng trong thơ Hồ Xuân Hương bằng tín ngưỡng phồn thực, còn Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (2003) đã đi một bước tiến mới khi đưa ra quan điểm nghiên cứu văn học trung đại từ những phạm trù cơ bản của văn hóa trung đại để tránh hiện đại hóa văn học dân tộc. Như vậy, các tác giả như: Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, nhà phê bình văn học Hoài Thanh, Phan Ngọc, Trần Đình Hượu, Phạm Vĩnh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p | 681 | 93
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
199 p | 379 | 78
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p | 676 | 73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p | 308 | 65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p | 153 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p | 203 | 48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p | 248 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng)
175 p | 180 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p | 171 | 42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p | 170 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p | 165 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p | 169 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p | 208 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt
148 p | 158 | 31
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng Việt
154 p | 172 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p | 122 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Yếu tố giới trong lời chê và hồi đáp chê (trên cứ liệu giao tiếp của sinh viên tại tp.HCM)
123 p | 130 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p | 159 | 19
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn