intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn hoá và Văn học Việt Nam: Thế giới loài vật trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:128

43
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài chỉ ra những đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong truyện viết về loài vật của nhà văn Vũ Hùng. Từ những tìm hiểu về sự thành công của Vũ Hùng trong dòng văn học này, tìm ra những hướng tiếp cận của văn chương dành cho đối tượng thiếu nhi trong giai đoạn hiện nay. Luận văn góp phần làm tư liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về văn học thiếu nhi và mảng đề tài truyện loài vật. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn hoá và Văn học Việt Nam: Thế giới loài vật trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng

  1. i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC PHẠM THỊ LUYẾN THẾ GIỚI LOÀI VẬT TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên – 2018
  2. ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Luyến
  3. iii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới nhà văn Vũ Hùng và giảng viên hướng dẫn TS. Lê Thị Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Luyến
  4. iv MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... iii MỤC LỤC ............................................................................................................ iv MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5 5. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 6. Bố cục ............................................................................................................ 5 7. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 6 NỘI DUNG ........................................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ NHÀ VĂN VŨ HÙNG ................................................................................................................... 7 1.1. Văn học thiếu nhi ở Việt Nam .................................................................... 7 1.1.1. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi.................................... 7 1.1.2. Thực trạng văn học thiếu nhi và truyện viết về loài vật dành cho thiếu nhi ở Việt Nam ............................................................................................. 10 1.2. Nhà văn Vũ Hùng – cuộc đời và sự nghiệp .............................................. 20 1.2.1 Cuộc đời nhà văn Vũ Hùng ................................................................. 20 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vũ Hùng.......................................... 23 CHƯƠNG 2: THIÊN NHIÊN KỲ THÚ VÀ NHỮNG BÀI HỌC CUỘC SỐNG TRONG CÁC TÁC PHẨM VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG 29 2.1. Tình yêu và cuộc sống .............................................................................. 29 2.1.1. Những trật tự rừng xanh ..................................................................... 29 2.1.2. Phong tục tập quán những vùng miền đi qua ..................................... 35 2.2. Đời sống của loài vật ................................................................................ 44
  5. v 2.2.1. Bản năng sinh tồn ............................................................................... 44 2.2.2. Thế giới nội tâm ................................................................................. 49 2.3. Những triết lí mang bóng dáng con người ............................................................ 65 CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA NHÀ VĂN VŨ HÙNG ............................................ 73 3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật .......................................................... 73 3.1.1. Không gian nghệ thuật ....................................................................... 73 3.1.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................... 83 3.2. Phương thức xây dựng nhân vật ............................................................... 99 3.2.1. Cách đặt tên các nhân vật loài vật ...................................................... 99 3.2.2. Xây dựng chân dung nhân vật loài vật ............................................. 102 3.3. Giọng điệu............................................................................................... 105 3.3.1. Giọng điệu triết lí, suy tư ................................................................. 105 3.3.2. Giọng điệu trữ tình ........................................................................... 111 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 118 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 120
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học thiếu nhi là một bộ phận thiết yếu của nền văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung. Với vai trò trong việc nuôi dưỡng tâm hồn và định hình nhân cách cho trẻ thơ, văn học thiếu nhi ngày càng trở nên quan trọng. Nằm trong văn học thiếu nhi, truyện viết về loài vật luôn là đề tài thu hút và gây ấn tượng mạnh mẽ đối với bạn đọc nói chung và trẻ em nói riêng. Mảng đề tài truyện viết về loài vật có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển đa dạng và phong phú của văn học thiếu nhi. Tâm hồn trẻ thơ luôn hướng tới những điều kì diệu và huyền bí. Chính vì lẽ đó, chúng luôn cảm thấy thích thú trước sự mới mẻ. Như Hwang – sun – mi – nhà văn Hàn Quốc nổi tiếng về truyện thiếu nhi đã từng chia sẻ: “Loài vật gần gũi, thân thuộc với trẻ nhỏ nhưng cũng lại là một thế giới bí mật mà các em muốn khám phá... Những cảm xúc, tình yêu thương và ứng xử trong cộng đồng loài vật luôn có nét tương đồng với con người. Động vật nếu biết cách khai thác luôn có thể truyền tải những cảm xúc rất mạnh mẽ...”.[57]. Thiên nhiên kỳ ảo với những loài vật sống động là điểm sáng để phát triển trí tưởng tượng và thu hút khả năng tìm tòi, khám phá của trẻ thơ. 1.2. Trong quá trình phát triển, Văn học thiếu nhi xuất hiện với nhiều nhà văn tên tuổi như: Nguyễn Nhật Ánh, Phạm Hổ, Võ Quảng... Mỗi nhà văn mang cho mình những đề tài, đối tượng và phương thức phản ánh riêng. Nếu như Nguyễn Nhật Ánh được coi là “Hoàng tử bé” trong thế giới trẻ thơ với bức tranh đa màu sắc của tình yêu thương và gắn bó nghĩa tình; Phạm Hổ là những vần thơ tươi mát, trẻ trung cùng nhiều yếu tố bất ngờ, ngộ nghĩnh; Võ Quảng với hồn thơ sôi động và mang ý nghĩ giáo dục mạnh mẽ, thì văn chương Vũ Hùng là những chiêm nghiệm và triết lí…. 1.3. Nhưng xét về mặt nhu cầu của trẻ thơ và những gì văn học đã dành cho lứa tuổi thần tiên này, trong bối cảnh xã hội và văn học hiện nay, văn học viết cho thiếu nhi nói chung và truyện viết về loài vật nói riêng hầu như chưa được sự quan tâm và đầu tư đúng như nó cần phải có. Các cây bút dường như ít để
  7. 2 tâm đến thế giới trẻ thơ đầy màu sắc. Chính vì lẽ đó, văn học thiếu nhi với mảng đề tài loài vật đã và đang để lại nhiều khoảng trống cần lấp đầy. 1.4. Nhà văn Vũ Hùng với những tác phẩm văn học thiếu nhi nổi danh từ những năm 60 của thế kỷ XX đã và đang hấp dẫn được thế hệ trẻ thơ bằng những hình ảnh về thế giới thiên nhiên vừa kỳ ảo vừa chân thực nhưng lại làm lay động trái tim con người. Một khoảng trời lung linh, rực rỡ sắc màu với cuộc sống sôi động và náo nhiệt của thiên nhiên, muôn thú. Qua những tác phẩm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã tạo cho độc giả thiếu nhi nói riêng và chúng ta nói chung hiểu biết thêm về một thời thiên nhiên, đất nước tươi đẹp và hiền hòa. Trong bối cảnh văn học hiện nay, những trang văn của Vũ Hùng dành cho thiếu nhi thật đáng trân trọng. 1.5. Bằng tâm huyết và tình cảm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã gắn bó và dành cho thiếu nhi những tác phẩm mang dấu ấn riêng. Việc đánh giá và ghi nhận vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng là thực sự cần thiết. Nó không chỉ ghi nhận vị trí của Vũ Hùng trong dòng văn học dành cho thiếu nhi, mà còn làm rõ hơn những tâm tư nguyện vọng của trẻ thơ qua sự say mê tác phẩm của ông để tìm ra những hướng tiếp cận đối tượng đặc biệt này của văn học. Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định triển khai đề tài nghiên cứu: Thế giới loài vật trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nhà văn Vũ Hùng và các tác phẩm của ông đã được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm: - Bài “Nguyễn Thị Châu Giang xúc động khi đọc sách Vũ Hùng”của nhà báo Dương Vân. Bà Nguyễn Thị Châu Giang là người biên soạn trực tiếp cho bộ truyện của nhà văn Vũ Hùng. Bà nhận xét: “Càng đọc, tôi càng bất ngờ. Từng trang sách dẫn tôi vào một thế giới thiên nhiên đầy hấp dẫn. Văn phong của ông nhẹ nhàng, bảng lảng chuyển tải được lối sống gần gũi, giao hòa giữa con người và tự nhiên. Đó là lối sống chậm, tuy có khi khó khăn vất vả nhưng rất bình yên, sâu sắc. Tôi nghĩ nếu các đầu sách này đến được với bạn đọc nhỏ tuổi hôm nay sẽ góp phần giúp ích cho các em rất nhiều trong việc hình thành
  8. 3 trí tưởng tượng, óc sáng tạo, hình thành tư duy ngôn ngữ, cũng như giữ gìn một tâm hồn đẹp”[58] - Bài “Nhà văn Vũ Hùng ẩn sau thiên nhiên là những bài học cuộc đời” đăng trên báo An ninh thủ đô ngày 26/9/2015 của nhà báo Mai Anh đã khẳng định: “Vũ Hùng là một con người với trái tim nhân ái, đôn hậu và có tình yêu sâu sắc với thiên nhiên”. Bà cũng dẫn lời nhận xét của nhà nghiên cứu Vân Thanh: “truyện của Vũ Hùng hấp dẫn thiếu nhi vì ông đã tạo nên cả thế giới vừa kỳ ảo, vừa rất thực, đủ sức lay động trái tim của độc giả. Còn nhà báo Nguyễn Như Mai thì cho rằng, đọc sách Vũ Hùng thấy cả một thế giới động vật cựa quậy, sống động trong đó”[59]. Và ẩn sau thế giới của muông thú, những bầy hươu nai, bầy voi, những con bò tót hùng dũng, lũ báo gấm uyển chuyển… là cả những bài học sâu sắc của cuộc đời, dạy trẻ em yêu thiên nhiên, yêu quê hương và yêu đất nước. - Bài “Vũ Hùng: Nhà văn của rừng – thiên nhiên – muôn thú” của nhà báo Tân An đã đưa ra các nhận xét của một số nhà văn: Trần Đức Tiến, Nguyễn Như Mai, Trần Quốc Toản, Vương Trí Nhàn. Tất cả các lời nhận xét đều khẳng định Vũ Hùng là một nhà văn có một vị trí đặc biệt trong mảng văn học thiếu nhi. - Bài “Những bài học cuộc sống qua thiên nhiên trong các tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng” của nhà văn Tuyết Loan đăng trên báo Nhân dân ngày 28/9/2015 cũng đưa ra nhiều ý kiến đánh giá của các nhà văn về Vũ Hùng. Nhà văn Viết Linh đánh giá cao sự hiểu biết của Vũ Hùng về phong tục của nhiều dân tộc, về tập tính và cuộc sống thiên nhiên nhiều loài thú. Nhà văn Hà Phạm Phú nhận xét: “Cuốn sách đầu tiên của Vũ Hùng mà tôi được đọc là “Mùa săn chim”, và tôi đã có ấn tượng rất mạnh mẽ. Cách viết về thiên nhiên, về con vật trong các tác phẩm của ông rất tinh tế và luôn có những bài học sâu sắc”[61]. Bà Lê Thị Dắt, nguyên Tổng Biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng chỉ ra bài học về tình yêu thiên nhiên, đất nước đối với thiếu nhi qua những tác phẩm về muông thú của nhà văn Vũ Hùng. Nhà văn Lê Phương Liên đưa ra một nét đặc biệt của Vũ Hùng: để cho nhân vật của mình có cái nhìn trẻ em trong một môi trường người lớn với cách kể chuyện rất bình dị nhưng rất hấp dẫn. - Bài “Nhà văn Vũ Hùng – Người lưu giữ ký ức thiên nhiên Việt Nam” đăng trên tạp chí Văn nghệ ngày 30/9/2015của nhà báo Phi Hà đã khẳng định rằng chính
  9. 4 những năm tháng sống tại đất nước Lào đã cho nhà văn Vũ Hùng những trải nghiệm thực tế và vốn sống dồi dào để viết nên được những tác phẩm về thiên nhiên, loài vật có giá trị sâu sắc. - Bài “Tượng đài văn học thiếu nhi Vũ Hùng tái xuất” của nhà báo Tiểu Quyên đăng trên báo Phụ Nữ online ngày 19/3/2015 đã chỉ ra bằng việc quan sát thiên nhiên và tiếp cận thường xuyên với nhiều loài động vật nơi hoang dã, nhà văn Vũ Hùng đã có được những câu chuyện về loài vật đầy sức cuốn hút. - Bài “Nhà văn Vũ Hùng - Người kể chuyện thiên nhiên và muôn thú” đăng trên báo Đại đoàn kết ngày 6/10/2015 của nhà báo Thư Hoàng, bài “Thiên nhiên bí ẩn và kỳ thú qua trang sách của nhà văn Vũ Hùng”của báo Tin tức đăng ngày 24/9/2015 của nhà báo Mỹ Bình cũng đã đề cập tới vấn đề về tình yêu thiên nhiên của nhà văn Vũ Hùng, lòng nhân ái và cuộc sống bình dị . Các bài viết trên đưa ra nhiều ý kiến đánh giá tác phẩm của nhà văn Vũ Hùng mới chỉ ở góc độ sơ lược về thiên nhiên và thế giới động vật mà chưa thành hệ thống và chưa có cái nhìn tổng thể về sự nghiệp sáng tác cũng như nét riêng trong mảng truyện viết về thế giới loài vật của nhà văn Vũ Hùng so với các nhà văn khác. Tuy nhiên, đây là những ý kiến hết sức quí giá của những nhà văn, nhà nghiên cứu, giúp cho tác giả đề tài có thêm sự định hướng trong quá trình nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về thế giới loài vật trong sáng tác của nhà văn Vũ Hùng và những triết lý cuộc sống được ông gửi qua những hình tượng nhân vật đó. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Những tác phẩm đã xuất bản của nhà văn Vũ Hùng: - Chú ngựa đồng cỏ, Nxb Kim Đồng, 2015 - Giữ lấy bầu mật, Nxb Kim Đồng, 2015 - Mái nhà xưa, Nxb Kim Đồng, 2015 - Bầy voi đen, Nxb Kim Đồng, 2015 - Con culi của tôi, Nxb Kim Đồng, 2015 - Sao sao, Nxb Kim Đồng, 2015
  10. 5 - Sống giữa bầy voi, Nxb Kim Đồng, 2015 - Con voi xa đàn, Nxb Kim Đồng, 2015 - Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Nxb Kim Đồng, 2015 - Những kẻ lưu lạc, Nxb Kim Đồng, 2015 - Biển bạc, Nxb Kim Đồng, 2015 - Các bạn của Đam Đam, Nxb Kim Đồng, 2015 - Phía Tây Trường Sơn, Nxb Kim Đồng, 2015 - Chim mùa, Nxb Kim Đồng, 2015 - Bí mật của rừng già, Nxb Kim Đồng, 2015 - Mùa săn trên núi, Nxb Kim Đồng, 2015 - Phượng hoàng đất Nxb Kim Đồng, 2015 - Vườn chim, Nxb Kim Đồng, 2015 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, tổng hợp: trên việc phân tích các văn bản và từ các ý kiến nhận xét để tổng hợp và đưa ra nhận định về từng vấn đề. - Phương pháp liên ngành (Văn học – Văn hóa học): để thấy được tính liên kết giữa văn học và đời sống thực tiễn. - Thao tác nghiên cứu tài liệu, giải thích, bình giảng, phân tích để khám phá vẻ đẹp và ý nghĩa của các tác phẩm. 5. Mục đích nghiên cứu Với đề tài nghiên cứu như trên, luận văn hướng đến mục đích nghiên cứu sau đây: - Tìm hiểu về văn học thiếu nhi nói chung, truyện viết về thế giới loài vật nói riêng và quá trình sáng tác của nhà văn Vũ Hùng - Chỉ ra được những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật mà nhà văn Vũ Hùng đưa ra trong tác phẩm của mình. Trên cơ sở đó, đánh giá và khẳng định những đóng góp của ông trong nền văn học nước nhà. Đặc biệt là văn học thiếu nhi với mảng đề tài truyện viết về loài vật. 6. Bố cục Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được chia làm ba chương: Chương 1: Khái lược về văn học thiếu nhi và nhà văn Vũ Hùng
  11. 6 Chương 2: Thiên nhiên kỳ thú và những bài học cuộc sống trong các tác phẩm viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng Chương 3: Những đặc trưng nghệ thuật trong sáng tác viết cho thiếu nhi của nhà văn Vũ Hùng 7. Đóng góp của đề tài Đề tài chỉ ra những đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong truyện viết về loài vật của nhà văn Vũ Hùng. Từ những tìm hiểu về sự thành công của Vũ Hùng trong dòng văn học này, tìm ra những hướng tiếp cận của văn chương dành cho đối tượng thiếu nhi trong giai đoạn hiện nay. Luận văn góp phần làm tư liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về văn học thiếu nhi và mảng đề tài truyện loài vật.
  12. 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VÀ NHÀ VĂN VŨ HÙNG 1.1. Văn học thiếu nhi ở Việt Nam 1.1.1. Những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi Theo Từ điển thuật ngữ văn học, văn học thiếu nhi được hiểu là: “Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành cho thiếu nhi. Tuy vậy khái niệm văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường cho người lớn đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi”[12;385]. Ở đây, khái niệm văn học thiếu nhi được đưa ra một các mơ hồ, mới chỉ xác định được đối tượng đó là thiếu nhi. Theo cuốn Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam do hai tác giả Vân Thanh và Nguyên An biên soạn, văn học thiếu nhi được hiểu như sau: “Văn học thiếu nhi bao gồm: - Những tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và nhiều khi cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một loài vật, hay một đồ vật, một cái cây… Tác giả của văn học thiếu nhi không chỉ là chính các em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi. - Những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy ở trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ cảm và cách hành động của chính các em, hơn thế, các em còn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích... trong quá trình hoàn thiện tính cách của mình. Như thế, văn học thiếu nhi là người bạn thông minh, mẫn cảm của thiếu nhi [49;68]. Theo cách hiểu này, đối tượng của văn học thiếu nhi cũng đã được xác định và mục đích của văn học thiếu nhi là giáo dục, bồi dưỡng, định hướng cho các em thiếu nhi. Người sáng tác văn học thiếu nhi là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi. Trong chuyên luận Thi pháp văn học thiếu nhi (2007), Bùi Thanh Truyền cho rằng, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm là thiếu nhi hoặc được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, với tất cả những xúc cảm, tình
  13. 8 cảm mãnh liệt, tinh tế, ngây thơ, hồn nhiên. Tác giả đã nhận định nhân vật trung tâm trong văn học thiếu nhi là trẻ em và mục đích của văn học thiếu nhi là giáo dục, bồi dưỡng và hoàn thiện tính cách. Vậy hai khía cạnh mà ông chỉ ra đó là thẩm mỹ và giáo dục. Vậy qua rất nhiều định nghĩa về văn học thiếu nhi, chúng ta có thể rút ra được những đặc điểm chung như sau: Đối tượng tiếp nhận của văn học thiếu nhi đó là trẻ em, đối tượng sáng tác là người lớn và trẻ em, mục đích sáng tác là giáo dục, nuôi dưỡng tâm hồn, định hình tính cách cho trẻ em, điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn của thiếu nhi, thành phần bao gồm văn học viết cho thiếu nhi văn học dành cho thiếu nhi, viết về thiếu nhi hoặc văn học được thiếu nhi lựa chọn. Văn học thiếu nhi đa dạng về thể loại và nội dung, nó cũng mang đầy đủ những đặc điểm của sáng tác nghệ thuật ngôn từ và thực hiện các chức năng chung của văn học. Do đối tượng tiếp nhận của văn học thiếu nhi chủ yếu là trẻ em nên nó có những đặc trưng riêng dành cho trẻ em. Những đặc trưng này được quy định bởi lứa tuổi trẻ em. Tổng hợp tài liệu ở các nguồn khác nhau, một là Giáo trình Văn học hiện đại Việt Nam do tác giả Nguyễn Văn Long chủ biên, hai là bài viết Đặc trưng của văn học cho thiếu nhi từ góc độ tiếp nhận (trích từ sách Văn học cho thiếu nhi của hai tác giả Châu Minh Thùy và Lê Nhật Ký), ba là Giáo trình văn học thiếu nhi của tác giả Lã Thị Bắc Lý, bốn là “Văn học thiếu nhi và những yêu cầu đổi mới của sinh viên cao đẳng sư phạm”, chúng tôi xin tổng hợp đưa ra các đặc trưng cơ bản nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam như sau: - Sáng tác cho trẻ em phải được “nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ” phải xuất phát từ cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, tự nhiên và trí tưởng tượng mãnh liệt của trẻ em. - Văn học thiếu nhi là tác phẩm mà các em “thấy” mình trong đó hoặc “nói hộ mình”. Cách viết và cái hồn trong từng lời văn, từng câu thơ mới là nhịp cầu thực sự để các em bước vào tác phẩm, bước vào thế giới của chính mình. Phải viết bằng ngôn ngữ của các em thì các em mới dễ hiểu, dễ thuộc và ghi nhớ lâu bền. - Văn học thiếu nhi “có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ em về cả đạo đức, trí tuệ và tình cảm thẩm mĩ”. Chính vì lẽ đó, Văn học thiếu nhi không chỉ xây dựng nhân cách, nâng cao trí tuệ, tình cảm
  14. 9 thẩm mĩ mà còn giáo dục thiếu nhi về tư tưởng, rèn luyện lập trường kiên định, vững chắc thông qua các câu truyện từ đời sống xã hội. - Văn học thiếu nhi mang tính định hướng. Đời sống xã hội, tự nhiên là tất cả những gì mới mẻ đối với trẻ em. Vì tâm lý các em về cơ bản là rất yêu cái đẹp, cái tốt, cái thực nên các nhà văn cần nắm bắt tâm lí của các em để định hướng các em thỏa mãn nhu cầu khám phá của mình một các tự nhiên nhất. Tâm hồn trẻ thơ sẽ được gây ấn tượng bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị nhân văn từ đó tác động đến nhận thức, tư tưởng và quan điểm của trẻ em. - Bắt nguồn từ bản chất ngây thơ, ngộ nghĩnh của trẻ em, văn học thiếu nhi không thể thiếu đặc trưng về sự hồn nhiên, vô tư và trong sáng. Đặc tính này tồn tại vĩnh cửu trong thế giới trẻ thơ, nếu mất đi trẻ thơ không còn là trẻ thơ nữa. Những tác phẩm thơ, truyện do chính các em sáng tác bao giờ cũng thể hiện những xúc cảm chân thành, hồn nhiên, trong trẻo,…như chính bản tính của trẻ thơ. - Trẻ em nào cũng thơ mộng và lãng mạn. Đó là thiên tính rõ nét nhất của lứa tuổi từ ấu thơ cho đến lúc thành niên. Chính vì vậy, Văn học Thiếu nhi sẽ phản ánh đặc tính thơ mộng và lãng mạn đó của trẻ em một cách gần gũi với hiện thực nhất. - Một đặc trưng quan trọng đối với văn học thiếu nhi là tính li kỳ, ấn tượng bởi trẻ em rất thích tìm tòi, khám phá, hiếu kì và phiêu lưu. M.Gorki đã từng nhận định “bản chất của trẻ em là đặc biệt yêu thích những cái gì chói lọi, phi thường”. Dưới con mắt trẻ thơ, chúng luôn yêu thích và muốn khám phá những điều mới lạ. Văn học thiếu nhi mang tính li kỳ và ấn tượng sẽ rèn luyện cho trẻ em khả năng tìm tòi và phát hiện cái mới. Đồng thời kích thích trí tưởng tượng của trẻ thơ, đưa trẻ thơ đến với thế giới nhiều màu sắc của chân - thiện – mĩ và nhiều ý nghĩa. - Văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy tiếp xúc với văn học thiếu nhi, trẻ em sẽ được học tập một lượng ngôn ngữ dồi dào. Từ đó các em sẽ hình thành và phát triển khả năng diễn đạt của mình theo hướng tự hoàn chỉnh. - Để có sức lôi cuốn và hấp dẫn trẻ em, Văn học thiếu nhi phải mang đậm chất thơ và truyện. Những điều kì lạ sẽ có sức cảm hóa các em bởi chất thơ lấp lánh
  15. 10 và chất truyện thu hút. Tâm hồn, tình cảm, ước mơ và khát vọng của các em sẽ được bồi dưỡng từng ngày theo tính thơ và tính truyện trong mỗi tác phẩm. - Văn học thiếu nhi phải có tính hài hước, dí dỏm. Mỗi một tác phẩm viết cho các em đều chứa đựng những tiếng cười hóm hỉnh và tinh nghịch, hồn nhiên và trong sáng. - Văn học thiếu nhi phải ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu. Nếu như thơ, văn viết cho người lớn thường hướng tới cái gì đó cao xa, trừu tượng thì thơ, văn viết cho trẻ em phải ngắn gọn, súc tích, trong sáng, dễ hiểu. Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ. Trong văn xuôi thường sử dụng những câu đơn, ngắn, vừa sức với khả năng tiếp nhận của trẻ nhỏ; còn trong thơ, các nhà văn thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, rất gần với đồng dao, vui nhộn, vừa dễ đọc, dễ thuộc, dễ nhớ. - Văn học thiếu nhi phải giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu. Những hình ảnh đẹp, rực rỡ cùng với vần điệu, nhạc điệu vui tươi sẽ làm cho tác phẩm thêm sinh động và có sức lôi cuốn, hấp dẫn các em. Với các tác phẩm của mình, nhà văn Vũ Hùng đã đưa đến cho thiếu nhi những tác phẩm có giá trị sâu sắc, đúng với những đặc trưng cơ bản của văn học thiếu nhi. Qua đó giáo dục, định hướng phát triển tâm hồn và nhân cách của trẻ thơ. 1.1.2. Thực trạng văn học thiếu nhi và truyện viết về loài vật dành cho thiếu nhi ở Việt Nam 1.1.2.1. Thực trạng văn học thiếu nhi Đối với mọi dân tộc, văn học thiếu nhi luôn là một bộ phận không thể thiếu của văn học dân tộc. Trải qua thời gian, bộ phận văn học này dần dần thay đổi toàn diện về cả nội dung lẫn hình thức. Theo nhà nghiên cứu Bùi Thanh Tuyền có dẫn: “Văn học hiện đại viết cho thiếu nhi Việt Nam bắt đầu manh nha từ những năm 20 của thế kỷ XX nhưng thực sự phát triển và trở thành một bộ phận của văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiến trình văn học thiếu nhi hiện đại có thể phân chia thành các giai đoạn chính sau đây: - Trong những ngày đầu cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, lực lượng viết cho các em mới chỉ có một số nhà văn chuyên nghiệp thỉnh
  16. 11 thoảng có sách cho thiếu nhi như nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân... - Từ năm 1954, đội ngũ viết cho thiếu nhi ngày càng phát triển nhanh... Đây là chặng đường mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam”. Có thể nói rằng, cùng với sự thay đổi của điều kiện xã hội, văn học thiếu nhi cũng có những khởi sắc mới mẻ và đạt được nhiều thành tựa to lớn.”. [55;42] Các nhà nghiên cứu khoa học khác cũng khẳng định, văn học thiếu nhi manh nha từ những năm trước cách mạng tháng Tám: “Văn học trẻ em Việt Nam thực sự được hình thành và phát triển với tư cách là một bộ phận của văn học Việt Nam từ khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhưng sự chuẩn bị thì có từ trước đó” [23;38]. Dựa vào các tài liệu tham khảo tìm hiểu được, văn học thiếu nhi chia làm các giai đoạn sau đây: a. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 Đây là giai đoạn manh nha của văn học thiếu nhi. Trước khi có chữ quốc ngữ, văn học dân gian có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển tâm lí của trẻ em. Những câu truyện thần thoại, cổ tích như: Tấm Cám, Cây khế, Thạch Sanh... đã đưa trẻ thơ đến với một thế giới tưởng tượng giàu sắc màu và lý thú. Bên cạnh đó, những lời hát ru của mẹ cũng góp phần không nhỏ để nuôi dưỡng tâm hồn thế hệ thiếu nhi. Sau khi chữ quốc ngữ ra đời và được sử dụng rộng rãi, văn học thiếu nhi có điều kiện để phát triển:“Từ lâu đã có một bộ phận sáng tác văn học dành riêng cho thiếu nhi. Những cuốn sách đầu tiên thuộc loại này là những cuốn sách có nội dung khoa giáo và đạo lí: Sách học vần, sách bách khoa, sách về các quy tắc ứng xử trong xã hội, xuất hiện ở Châu Âu thế kỷ XIV – XVI và đặc biệt phát triển ở thời khai sáng. Tính giáo huấn được người ta coi là những đặc điểm quan trọng của văn học thiếu nhi. Bởi vậy, cho đến giữa thế kỷ XIX, những tác phẩm viết dành riêng cho thiếu nhi vẫn nằm ngoài phạm vi của văn học. Trong khi đó, những tác phẩm văn học viết cho người lớn lại đi vào phạm vi đọc của trẻ em, nhất là loại truyện viết theo các môtip dân gian, loại cổ tích, một số tiểu thuyết và truyện thuộc thể loại phiêu lưu” [55;58]. Nhà nghiên cứu Lã Thị Bắc Lý cũng khẳng định rằng, trong chế độ phong kiến, nước ta chưa có sáng tác văn học dành cho thiếu nhi. Mãi đến đầu thế kỷ XX, dưới chế độ thực dân phong kiến, qua những cuộc cách tân văn học theo xu hướng hiện đại hóa, văn học cho trẻ em mới bắt đầu được chú ý. Một số tác phẩm văn học nước ngoài được dịch
  17. 12 ra tiếng Việt như: Thơ ngụ ngôn của La Phôngten, truyện ngắn Peron... trong nước cũng bắt đầu xuất hiện một vài tác phẩm như: Lên sáu, Lên tám (Tả Đà), Đông Tây ngụ ngôn; Nhi đồng lạc viên (Nguyễn Văn Ngọc)... Những cuốn sách này đều đưa ra những đạo lí làm người và định hướng nhân cách cho trẻ em. Đến những năm 30 của thế kỷ XX, hai khuynh hướng văn học viết cho trẻ em được hình thành. Thứ nhất là nhóm của Tự lực văn đoàn với các loại sách: Hoa hồng, Hoa mai, Hoa xuân... nhưng những tác phẩm này gặp nhiều hạn chế trong phạm vi phản ánh và xa rời thực tế. Thứ hai là nhóm hiện thực với các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Tú Mỡ, Nam Cao... với các tác phẩm như: Tấm lòng vàng của Nguyễn Công Hoan; Đám cưới chuột, Võ sĩ bọ ngựa, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài; Người thợ rèn, Bài học quét nhà của Nam Cao... Nhóm hai đã có ý thức viết cho trẻ em những tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nhìn chung, trước cách mạng tháng Tám, các tác phẩm viết cho thiếu nhi mới xuất hiện tản mạn, lẻ tẻ và chưa có phong trào. Nền văn học thiếu chi lúc này chưa được hình thành mà mới chỉ đang ở những bước sơ khai ban đầu. b. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) Văn học thiếu nhi được quan tâm phát triển từ sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Đảng và nhà nước đã định hướng cho văn học thiếu nhi đạt được những thành tựu đầu tiên. Trong tờ Thiếu sinh – tiền thân của báo Thiếu niên tiền phong, ra số đầu tiên vào 1946, bác Hồ đã chỉ đạo rõ: “Báo trẻ em ra đời, báo đó là của trẻ em. Vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi tin tức, tranh vẽ và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho báo phát triển”. Tháng 12/1946, số báo đặc biệt của báo Thiếu sinh ra đời với chủ đề “Các em viết, các em vẽ”. Tờ báo này đã đánh dấu một dấu mốc quan trọng cho lịch sử của văn học thiếu nhi Việt Nam. Bắt đầu từ đây, trẻ em đã có tờ báo dành riêng cho mình. Tiếp theo đó là sự ra đời của một số tờ báo khác như: Thiếu niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng non, sách Kim Đồng, Hoa kháng chiến... những người bạn mới nhưng thân thiết của các em nhỏ, góp phần bồi dưỡng, rèn luyện và giáo dục tư tưởng, tình cảm, vốn sống, đức tính và nhân cách cho thiếu nhi. Với một nền văn học thiếu nhi non trẻ, sự ra đời của những tờ báo dành cho trẻ em có giá trị to lớn. Trong giai đoạn văn học thiếu nhi vẫn còn thô sơ và ít ỏi, nội dung chủ yếu hướng đến tấm gương thiếu nhi dũng cảm trong kháng chiến.
  18. 13 Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu như: Khen tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến khu II (1947); Thư Trung thu (1952), Gửi các cháu nhi đồng nhân dịp tết Trung thu (1953) của chủ tịch Hồ Chí Minh; Chiến sĩ canô của Nguyễn Huy Tưởng, Hoa Sơn của Tô Hoài, Dưới chân cầu Mây của Nguyên Hồng; Đời em đến của Đỗ Cao Đáng; Phác Kim Tố của Nguyễn Xuân Sanh… Gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình phát triển nhưng giai đoạn này là chặng đường mở đầu quan trọng và ý nghĩa đồng thời khẳng định văn học thiếu nhi sẽ phát triển vượt bậc trong giai đoạn tiếp theo. c. Giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1955 – 1964) Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc tiến vào thời kì khôi phục kinh tế, hàn gắn viết thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa Xã hội, miền Nam thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chống lại đến quốc Mỹ và tay sai. Miền Bắc được hòa bình, đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn học thiếu nhi nói riêng và văn học nước nhà nói chung. Một tiểu ban Văn học thiếu nhi trong Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật được thành lập. Ngày 17/6/1957, nhà xuất bản Kim Đồng được thành lập. Chính điều đó đã mở ra bước ngoặt mới cho văn học thiếu nhi. Đội ngũ sáng tác có chỗ dựa về tinh thần. Vấn đề sáng tác các tác phẩm giá trị cho thiếu nhi cũng được quan tâm. Từ đây, đã xuất hiện những tác phẩm văn học có giá trị như: Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Hai làng Tà Pình và Động Hía của Bắc Thôn, Em bé bên bờ sông Lai Vu của Vũ Cao, Cái Thăng của Võ Quảng, Vừ A Dính của Tô Hoài… Đội ngũ sáng tác lẫn số lượng tác phẩm viết cho các em cũng đông đảo hơn, phong phú hơn. Bên cạnh đề tài kháng chiến, đề tài lịch sử (Lá cờ thêu sáu chữ vàng – Nguyễn Huy Tưởng, Sóng gió Bạch Đằng – An Cương, Quận He khởi nghĩa – Hà Ân,…) các tác giả còn khai thác đề tài sinh hoạt, lao động, học tập (Ngày công đầu tiên của cu Tí – Bùi Hiển, Những mẩu chuyện về bé Ly – Bùi Minh Quốc, Đàn chim gáy – Tô Hoài…). Trong thời kì này, đội ngũ nhà thơ viết cho các em rất hùng hậu, đặc biệt là Võ Quảng và Phạm Hổ. Nhìn chung, trong thời kì này, văn học thiếu nhi Việt Nam đã phát triển khá toàn diện và phong phú. Vào năm 1961, tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi lần đầu xuất bản. Đó là tín hiệu mừng, báo hiệu sự khởi sắc của văn học thiếu nhi nước nhà. Số lượng các tác phẩm ngày càng phong phú với các đề tài đa dạng:
  19. 14 + Đề tài lịch sử: Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Kể chuyện Quang Trung của Nguyễn Huy Tưởng; Sóng gió Bạch Đằng và Bố cái đại vương của An Cương; Nhụy Kiều tướng quân của Yến Hồng, Hoài Ban... + Đề tài sinh hoạt, lao động, học tập: Đàn chim gáy của Tô Hoài; Nơi xa của Văn Linh; Tổ tâm giao của Trần Thanh Địch; Ngày công đầu tiên của cu Tí của Bùi Hiển... + Truyện đồng thoại: Cái tết của Mèo con của Nguyễn Đình Thi; Chú đất nung của Nguyễn Kiên; Bê và sáo của Phạm Hổ... Ngoài ra, một đội ngũ hùng hậu về thơ thiếu nhi cũng xuất hiện: Vũ Ngọc Bình, Huy Cận, Nguyễn Bá Dậu, Thanh Hải, Tế Hanh, Thái Hoàng Linh, Võ Quảng, Xuân Tửu, Nhược Thủy, Phương Hoa... Năm 1961, Nhà xuất bản văn học cho ra đời Tuyển tập thơ văn cho thiếu nhi 1945 – 1960 tuyển chọn và giới thiệu 50 tác giả tiêu biểu, xuất sắc. d. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975) Trong bối cảnh đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng máy bay, văn học thiếu nhi bước vào chặng đường mới và phát triển mạnh mẽ. Nhiều cây bút tài năng và các tác phẩm có giá trị xuất hiện nhằm mục đích biểu dương, khích lệ, cổ vũ tinh thần học tập và chiến đấu của thiếu nhi. Các đề tài không chỉ gói gọn như ở giai đoạn trước mà mở rộng và phong phú hơn. - Đề tài kháng chiến chống Pháp: Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách; Quê nội của Võ Quảng; Kim Đồng của Tô Hoài... - Đề tài kháng chiến chống Mỹ: Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi; Chú bé Cả Xên của Minh Khoa; Đàm Văn Luyện của Phạm Hổ; Út Tám của Ngô Thông; Em bé sông Yên của Vũ Cận... - Đề tài lịch sử: Sát Thát của Lê Văn, Nguyễn Bích; Trăng nước Chương Dương của Hà Ân... - Đề tài cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động: Chú bé sợ toán của Hải Hồ; Mái trường thân yêu của Lê Khắc Hoan; Năm thứ nhất của Minh Giang; Những tia nắng đầu tiên của Lê Phương Liên; Hoa cỏ đắng của Nguyễn Thị Như Trang; Tập đoàn san hô của Phan Thị Thanh Tú...
  20. 15 - Đề tài nông thôn: Cơn bão số bốn của Nguyễn Quỳnh; Xã viên mới của Minh Giang; Những cô tiên áo nâu của Hoàng Anh Đường; Kể chuyện nông thôn của Nguyễn Kiên; Hai ông cháu và đàn trâu của Tô Hoài... - Truyện đồng thoại: Chú gà trống choai của Hải Hồ; Cô bé 20 của Văn Biển... - Mảng sách khoa học: Ông than đá và quả trứng vuông của Viết Linh; Thảm xanh trên ruộng của Thế Dũng; Bí mật một khu rừng của Hoàng Bình Trọng... - Thơ cho trẻ em cũng tiếp tục phát triển mạnh mẽ với các tác giả mới như: Đinh Hải, Xuân Quỳnh, Ngô Viết Dinh, Trần Nguyên Đào... e. Thời kỳ đất nước thống nhất và đổi mới (sau năm 1975) Xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới có nhiều tác động lớn đến văn học thiếu nhi. Toàn Đảng toàn dân bắt tay xây dựng lại đất nước. Ở giai đoạn này, văn học thiếu nhi phát triển mạnh mẽ và phong phú, đặc biệt từ dấu mốc năm 1986 khi Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam kêu gọi “cởi trói” đã tạo điều kiện cho sự phát triển tự do, thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Qua mỗi giai đoạn phát triển, văn học thiếu nhi có những đặc trưng riêng nhưng luôn kế thừa những thành tựa ở giai đoạn trước. Trong giai đoạn 1975 – 1985, văn học thiếu nhi với những kiếm tìm và chuẩn bị cho sự đổi mới. Đề tài kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mĩ vẫn chiếm ưu thế: Quê nội của Võ Quảng; Cơn giông tố của Thu Bồn; Đội thiếu niên tình báo Bát Sát của Phạm Thắng, Hồi đó ở Sa Kì của Bùi Minh Quốc; Cát cháy của Thanh Quế... Bên cạnh đó, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, các nhà văn chú trọng đế vấn đề đạo đức con người. Một số tác phẩm như: Tình thương của Phạm Hổ; Bến tàu trong thành phố của Xuân Quỳnh; Chú bé có tài mở khóa của Nguyễn Quang Thân; Hành trình ngày thơ ấu của Dương Thu Hương... Đề tài lịch sử ở giai đoạn trước thường khai thác lịch sử gắn với nhân vật anh hùng và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm nay được nhà văn Tô Hoài mở ra một hướng nghiên cứu mới là hướng khai thác lịch sử gắn với huyền thoại, phong tục, tập quán. Về thơ, giai đoạn này gần như bế tắc khi không tìm được hướng đi mới. Bước sáng giai đoạn năm 1986 đến nơi, nhiều cây bút trẻ xuất hiện: Trần Thiên Hương, Nguyễn Quang Thiều, Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2