Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân
lượt xem 7
download
Đề tài nghiên cứu đã làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của loại truyện yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân, xác định những giá trị của nó trong sự phát triển loại truyện truyền kì hiện đại; từ việc khẳng định những đặc sắc của thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà văn như một truyền thống hòa nhập vào văn xuôi đương đại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN --------------------- NGUYỄN THỊ THANH VÂN ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. VŨ TUẤN ANH Thái Nguyên, năm 2007
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN --------------------- NGUYỄN THỊ THANH VÂN ĐẶC SẮC THỂ TÀI YÊU NGÔN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thái Nguyên, năm 2007
- MỤC LỤC Trang Phần mở đầu I. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1 II. Lịch sử vấn đề 2 III. Phạm vi nghiên cứu 3 IV. Phương pháp nghiên cứu 4 V. Đóng góp của luận văn 4 VI. Cấu trúc luận văn 4 Nội dung Chương 1: Yêu ngôn - một thế giới nghệ thuật huyền kỳ 5 1.1. Một cõi riêng trong văn chương Nguyễn Tuân và văn chương 5 đương thời 1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù 14 Chương 2: Đặc trƣng thi pháp Yêu ngôn 19 2.1. Không gian - thời gian nghệ thuật của Yêu ngôn 19 2.1.1. Không gian nghệ thuật 19 2.1.2. Thời gian nghệ thuật 33 2.2. Thế giới nhân vật với số phận dị biệt và tính cách phi thường 37 2.3. Phương thức nghệ thuật tạo dựng thế giới Yêu ngôn 54 2.3.1. Nghệ thuật trần thuật 54 2.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật 66 2.3.3. Giọng điệu 74 Chương 3: Sự dung hợp, thăng hoa của cái đẹp và những giá trị 77 nhân bản 3.1. Cái đẹp và những giá trị văn hoá 78 3.2. Triết lý nhân sinh, chiều sâu nhân bản 85 Phần kết luận 96 Thƣ mục tham khảo 100 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- PHẦN MỞ ĐẦU I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 1. Nguyễn Tuân là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại.Sự nghiệp sáng tác của ông trải ra trên hai chặng đường: Trước năm 1945 ông là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu và sau năm 1945 ông đứng trong đội ngũ những nhà văn gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Sáng tác của Nguyễn Tuân thuộc nhiểu thể loại: tùy bút, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, phóng sự, tự truyện, bút kí phê bình… Về truyện ngắn ông là cây bút xuất sắc. Vang bóng một thời của ông được đánh giá như một tác phẩm “gần đạt đến độ toàn thiện, toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện ngắn Nguyễn Tuân tồn tại một thể tài – thể tài yêu ngôn như cách ông đã từng định danh cho nó. Đây là một thể tài đặc biệt, in đậm dấu vết sáng tạo của Nguyễn Tuân. Sau một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới và từ những năm chín mươi thế kỉ XX mới được tập hợp đầy đủ, được nhìn nhận như một mảng tác phẩm có những nét riêng độc đáo trong toàn bộ sáng tác của ông. 2. Yếu tố kì ảo, chất huyền kì đang là một hướng đi, một hướng tìm tòi tạo nên những đột phá quan trọng của nghệ thuật tự sự đương đại. Chất kì ảo quái dị từng làm nên một dòng truyện đặc sắc nửa đầu thế kỉ XX trong đó có Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đang được tiếp tục dòng chảy của nó vào văn học đương đại, tạo nên sự khởi sắc của văn xuôi hôm nay. 3. Chọn đề tài “ Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân” luận văn mong muốn làm rõ một thế giới nghệ thuật độc đáo trong văn Nguyễn Tuân, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, vốn được nhìn nhận chủ yếu ở thể tùy bút cùng với thành tựu đỉnh cao của tập truyện ngắn Vang bóng một thời. Đồng thời nghiên cứu Yêu ngôn cũng là để làm rõ những giá trị, những kinh 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- nghiệm và truyền thống của loại “truyện kỳ ảo” mà cây bút bậc thầy Nguyễn Tuân đã từng khai phá và sáng tạo đang tiếp tục được vận dụng trong văn học đương đại, và cũng qua đó hiểu thêm và đánh giá đúng hướng đi này của văn học đương đại . 4. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên cứu toàn diện hoặc nhiều khía cảnh nội dung, nghệ thuật tác phẩm Nguyễn Tuân: quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu, đặc trưng kí, tùy bút. Tuy vậy, mảng truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ như một chỉnh thể, một thể tài riêng với các khía cạnh nội dung và nghệ thuật có tính đặc thù. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng khảo sát còn mới mẻ này. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Trong dòng chảy văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, yếu tố kì ảo đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong diện mạo văn học. Trong giai đoạn 1930 – 1945 gắn liền với thực tiễn sáng tạo, vấn đề truyện truyền kì, yếu tố kì ảo đã được đề cập đến trong phê bình văn học. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã có các bài phê bình tác giả, tác phẩm Lan Khai , Tchya , Nguyễn Tuân… Trong khoảng mười năm trở lại đây, song song với sự phát triển chất kì ảo, truyền kỳ trong văn học đương đại cùng với việc in lại các truyện truyền kì, ma quái (Đêm bướm ma, Chuyến xe ma quái, Hồn hoa trở lại, Truyện không nên đọc vào lúc giao thừa…) đã có các bài giới thiệu, phê bình loại truyện này. Song song với sự phát triển chất kì ảo, truyền kì trong văn học đương đại, đã có nhiều bài phê bình, luận án đề cập đến vấn đề này. Có thể kể các bài viết chuyên sâu, các luận án đề cập đến vấn đề này: Truyện kì ảo 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- hiện đại – dư ba của truyện truyền kì truyền thống (Bùi Thị Thiên Thai), Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì Việt Nam (Phạm Văn Thắm), Huyền thoại , một điều thú vị (Trần Duy Châu) , Phương thức huyền thoại trong văn học Việt Nam từ sau 1975 (Lê Thị Hường), Truyện thần linh ma quái và vấn đề giáo dục con người (Vũ Ngọc Khánh), Ma và vô thức – bức tranh sáng tối của hương hồn (Trần Thanh Ngoạn). Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in Yêu ngôn, một tuyển tập những đoản thiên có tính huyền bí nhưng chưa kịp làm. Nhiều năm sau khi Nguyễn Tuân qua đời, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm, giới thiệu và cho in Yêu ngôn (Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1998). Sau khi Yêu ngôn được xuất bản, đã có một vài bài của các nhà nghiên cứu, phê bình đề cập đến tác phẩm: Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Như Mai, Vương Trí Nhàn, Thụy Khuê, Trương Chính...ở những bài viết này thường tập trung nói về những nét độc đáo của một số truyện mà chưa có sự đánh giá khái quát về toàn bộ những sáng tác có tính chất yêu ngôn của Nguyễn Tuân. Lời giới thiệu Yêu ngôn của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng chỉ dừng lại ở chỗ phác họa diện mạo cơ bản của yêu ngôn. Một số bài viết của các nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài cũng chú ý tới một số vấn đề trong Yêu ngôn. Nhìn chung mỗi người mỗi thế mạnh riêng, góp phần dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhưng chưa hoàn toàn tập trung vào việc xem Yêu ngôn như một thế giới nghệ thuật đặc thù trong văn chương Nguyễn Tuân. III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Tập Yêu ngôn do Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm tuyển chọn-nhà xuất bản Hội nhà văn, 1998, gồm tám truyện: Khoa thi cuối cùng, Trên đỉnh non Tản, Đới roi, Xác ngọc lam, Rượu bệnh, Lửa nến trong tranh, Loạn âm, Tâm sự của nước độc (tức Chùa Đàn). 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- - Một số truyện ngắn khác của Nguyễn Tuân gần gũi với Yêu ngôn (Tóc chị Hoài, Bữa rượu máu, Vườn xuân lan tạ chủ…) - Một số truyện của các tác giả khác thuộc thể loại này: Thần Hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Tchya), Suối đàn (Lan Khai)… IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Thi pháp học thể loại: Vận dụng thi pháp thể loại (các yếu tố không gian- thời gian nghệ thuật, nhân vật, nghệ thuật và hình thức tự sự), để làm sáng tỏ thể tài Yêu ngôn. 2. Phương pháp phân tích tác phẩm: Nhằm làm rõ nội dung và nghệ thuật trong các truyện Yêu ngôn 3. Phương pháp hệ thống: Xem xét thể tài yêu ngôn như một hệ thống hoàn chỉnh với những đặc điểm riêng như một thế giới nghệ thuật đặc thù trong văn Nguyễn Tuân. 4. Phương pháp so sánh đối chiếu: Các truyện Yêu ngôn sẽ được nhìn nhận và đánh giá trong sự so sánh đối chiếu với nhau và với các loại truyện kỳ ảo đương thời của các tác giả đương thời để làm rõ những đặc sắc riêng trong tương quan chung. V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Làm rõ đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của loại truyện yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân, xác định những giá trị của nó trong sự phát triển loại truyện truyền kì hiện đại. - Từ việc khẳng định những đặc sắc của thể tài yêu ngôn trong sáng tác của Nguyễn Tuân, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà văn như một truyền thống hòa nhập vào văn xuôi đương đại. VI. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được viết theo 3 chương sau: Chương 1: Yêu ngôn – Một thế giới nghệ thuật huyền kỳ. Chương 2: Đặc trưng thi pháp yêu ngôn. Chương 3: Sự thăng hoa của cái đẹp và những giá trị nhân bản. 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Chương 1: YÊU NGÔN - MỘT THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT HUYỀN KỲ Huyền kì, kì ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề chết đi khi bước sang thế kỉ XX” [53, tr25 ]. Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như một phạm trù tư duy nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc sống nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định. Thế giới nghệ thuật là “sản phẩm sáng tạo mang tính cảm tính, có thể cảm thấy được của người nghệ sĩ, một kiểu tồn tại đặc thù, vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, là sự thống nhất của mọi yếu tố đang dạng trong tác phẩm” [53, tr28]. Với tư cách là thủ pháp nghệ thuật chủ đạo, yếu tố huyền kì, kì ảo đã tác động đến mọi phương diện của truyện, mang lại cho nó những đặc trưng riêng tạo nên một thế giới nghệ riêng, làm nên sự phong phú, đa dạng của đời sống văn học. Yêu ngôn của Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài những đặc điểm ấy. 1.1. Một cõi riêng trong văn chƣơng Nguyễn Tuân và văn chƣơng đƣơng thời 1.1.1. Tính riêng biệt độc đáo của Yêu ngôn trong loại truyện truyền kì, ma quái đương thời Yếu tố kì ảo không hề xa lạ với văn học Việt Nam từ xa xưa của lịch sử cho tới bây giờ. Ngay từ lúc mới hiện diện, văn học Việt Nam đã gắn liền với kì ảo: “Kì ảo là một trong những đặc trưng của truyện dân gian, không có kì ảo thì không thể có truyện dân gian vậy” [50, tr55]. Khả năng tiềm tàng của thần thoại, cổ tích là dưỡng chất nuôi dưỡng nền văn hóa hiện 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- đại. Với tư cách là “văn hóa gốc”, nguồn mạch dân gian bất tận suốt bao đời vẫn không ngừng nghỉ bồi đắp cho dòng chảy của văn học, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc tạo nên tâm thức cộng đồng dân tộc: gần gũi và có xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, biểu hiện thế giới quan thần linh, tư duy huyền thoại trong quan điểm của người sáng tác văn học mọi thời đại. Bên cạnh đó, đặc điểm của một xã hội nông nghiệp phương Đông là nơi “tràn đầy những màu sắc lãng mạn thần kì”, cũng là môi trường thuận lợi để yếu tố kì ảo này sinh, trường tồn. Những truyện kì lạ, hoang tưởng còn được nâng cánh bởi cái nhìn thế giới với một niềm tin hồn nhiên là có sự tương thông, tương giao giữa người sống và người chết, giữa thế giới thực tồn và thế giới siêu nhiên. Người ta xem những chuyện quái dị, hoang đường là có thật. Niềm tin mang tính chât tâm linh vào những lực lượng thần bí, siêu nhiên này đã góp phần tạo thành dòng tín ngưỡng ghi dấu ấn sâu đậm vào mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Nghĩa là trong mỗi con người Việt Nam hiện đại vẫn tiềm ẩn một tâm hồn phương Đông cổ xưa, đây chính là cơ sở tạo ra “tầm đón đợi” thuận lợi đối với bộ phận văn học tiếp cận cuộc sống bằng những yếu tố kì lạ, siêu nhiên nói trên. Thời kì văn học 1930 – 1945 vẫn tiếp tục dòng chảy kì ảo của văn học truyền thống, với xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, với những câu chuyện li kì, ma quái. Trong văn chương hiện đại đã hình thành một kiểu tư duy nghệ thuật về cuộc sống không phải bằng chất liệu hiện thực quen thuộc mà bằng cái kì ảo, hư ảo. Mỗi nhà văn mỗi vẻ, bằng tài năng và sự sáng tạo của mình đã làm nên sự phong phú, đa dạng ở thể tài này. Có thể kể tên những tác phẩm nổi bật: “Ba hồi kinh dị”; “Trại Bồ tùng linh” của Thế Lữ , “Ai hát giữa rừng khuya” của Tchya , “Tiền kiếp” của 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Đỗ Huy Nhiệm, “Kim Ba chí dị” của Kim Ba, “Suối Đàn” và “Truyện đường rừng” của Lan Khai… Truyện của Lan Khai chủ yếu hấp dẫn người đọc bằng màu sắc xứ lạ phương xa, tạo cảm giác ghê rợn đối với người miền xuôi bằng một không gian miền núi là rừng rú, là chốn sơn cùng thủy tận. Trong “Nhà văn hiện đại”, Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Mặc dầu Lan Khai viết nhiều loại, từ trước đến nay, ông chỉ đáng được nổi tiếng về tiểu thuyết đường rừng hơn cả” [47, tr298]. Những truyện của ông đều là những truyện khác thường, nếu không phải là hoang đường thì cũng là những việc, những người không phải hàng ngày trông thấy. Chủ ý của nhà văn là “kích thích sự tò mò, trí tưởng tượng của người đọc”, “khiến người ta ghê sợ về những cái bí hiểm của rừng núi”. Đi vào chốn non cao rừng thẳm của Lan Khai, ta gặp một thế giới hoang sơ kì thú của Suối Đàn – một dòng suối thơ mộng như mối tình của chàng trai thành phố với cô sơn nữ . Mối tình đẹp nhưng dang dở , người con gái chết âm thầm như bông hoa héo rũ, trong cái vắng lặng của núi rừng, để từ đó trong nỗi niềm thương nhớ não nùng, chàng trai luôn nghe thấy trong âm thanh của suối, của rừng có khúc đàn ai oán, phảng phất nỗi niềm oan ức của người trinh nữ rừng xanh… Nếu Suối Đàn khiến người đọc tràn đầy cảm xúc về tâm hồn ngây thơ chất phác của người sơn nữ bao nhiêu, thì trong Truyện đường rừng Lan Khai lại làm cho người ta ghê sợ về những cái bí hiểm của rừng núi bấy nhiêu. Đó là chốn ma thiêng nước độc, người mandi còn ở lẫn với thú dữ và với… ma: nào là “Ma thuồng luồng”, nào là “Người hóa hổ”, nào là “Gò thần”,…, chỉ những cái tên đọc lên đã gợi sự rùng rợn, kì quái. Nếu Lan Khai “đưa người ta vào tận rừng thẳm, dắt người ta một cách thân mật vào các gia đình Thổ Mán, và cho người ta được thấy những 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- tâm tính kì dị” [47, tr 298] thì truyện của Tchya Đái Đức Tuấn lại hấp dẫn bằng sự kì quái, ghê rợn với cốt truyện thần bí, phi thường: “Cái lối truyền kì của ông là một lối thần quái, một lối quái đản như những truyện trong “Liêu trai” trong “Truyền kì mạn lục”. Cái xã hội ma và xã hội người trong tiểu thuyết của ông chỉ là một …”[47, 319]. Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya chính là những tập “Liêu trai Việt Nam”, những tập viết riêng về vài loài yêu quái ở đường rừng đất Việt chứ không phải về tất cả các loài yêu ma như của Bồ Tùng Linh. Cái giống ma ở hai cuốn truyện thần quái của Tchya là ma trành và cái loại thần trong đó là thần Hổ , những con hổ đã ăn thịt hàng trăm người, trong tai nổi lên hàng trăm tia máu đỏ, nghe được ngàn dặm. Vị thần Hổ đây là con hổ xám, hổ vàng, khi họp hội đồng cơ mật dưới gốc cây đại thụ, vị thần Hổ thường trút bỏ bộ lông, biến thành một ông già đầu râu tóc bạc đường bệ. Bị hổ vồ là có số, những kẻ bị giống mãnh thú ấy ăn thịt là đã có tên trong quyển sổ do thần Hổ giữ - định mệnh ấy không sao trốn thoát được. Cái họ Đèo trong Thần Hổ mà tất cả con cháu phải làm mồi cho hổ chỉ vì ông tổ của họ đã dám phạm đến một con hổ già, làm nó chột một mắt và tuyệt đường duy trì nòi giống. Sự báo thù thật là ghê gớm, tất cả con cháu họ Đèo khi đã sa vào nanh vuốt hổ, người nào cũng bị móc mất một mắt và cắn xé mất hạ bộ. Thần Hổ ra oai và gieo vạ cho cả dòng giống những người đã dám phạm đến thần. Bọn ma trành phải hầu hạ thần Hổ rất khổ sở. “Ma trành là những thứ ma bất đắc kì tử, hoặc bị hổ ăn, hoặc bị dìm đuối hoặc vì thắt cổ, hoặc vì bị chẹt xe… Chết như thế thì linh hồn vất vưởng bị đầy đọa không đi đầu thai được mà không được tự do. Nếu muốn thoát khỏi vòng kìm hãm, cũng phải tìm kẻ thế cho mình. Nếu không thì mãi mãi, mình sẽ phải làm ma trành, đói khát khổ sở”. Muốn có kẻ thế chân mình, họ phải run rủi những kẻ 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- có số bị hổ vồ vào nanh vuốt thần Hổ để họ được sống cái đời ma độc lập, gần gụi với gia đình, với họ mạc. Cả truyện Thần Hổ và Ai hát giữa rừng khuya đều thuộc loại truyện ma quái, truyền kì được xây dựng và hư cấu trên những mẩu chuyện truyền kì ở miền núi. “Những tình tiết li kì trần tục xen lẫn sắc thái hoang đường thần thoại, tao nên một câu chuyện kích thích mạnh trí tưởng tượng và giác quan người đọc. Đằng sau câu chuyện li kì, bí hiểm và ghê rợn về mối quan hệ người – mãnh thú, người – ma là dấu vết của một thế giới quan thơ mộng và mông muội còn lưu giữ lại”. Tất cả đã tạo nên sự hấp dẫn riêng trong những truyện đường rừng của Tchya. Khác với truyện của Lan Khai, của Tchya hấp dẫn người đọc bằng lối truyện đường rừng hoang sơ kì thú và bí hiểm, truyện của Nguyễn Tuân lại cuốn hút độc giả bằng những nét lãng mạn riêng, giàu chất thẩm mĩ, chất văn hóa, nhân bản: “Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư tưởng” [47, tr 415]. Yêu ngôn là tác phẩm như thế. 1.1.2. Một thể tài độc đáo trong toàn bộ sáng tác Nguyễn Tuân. Vang bóng một thời là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Tuân được Vũ Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ” [47, tr 415].Vang bóng một thời khơi lại đống tro tàn của một quá khứ chưa xa, tác phẩm thể hiện sự nuối tiếc cái đẹp với những con người, lối sống, thú chơi của một thời. Đó là các cụ nghè, cụ cử, cụ tú, lớp nho sĩ cuối mùa với những sinh hoạt cầu kì, những thú chơi tiêu dao, nhàn tản và qua đó tái hiện nhiều nét văn hóa của người Việt. Ở tập truyện ngắn này, người ta đã thấy rõ tài năng và phong cách của Nguyễn Tuân: phóng túng-tài hoa-uyên bác. Đọc Yêu ngôn, có thể nhận thấy những nét quen thuộc, gần gũi trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân mà ta đã gặp trong Vang bóng một thời và những tác phẩm về sau này. Vẫn là một Nguyễn Tuân nhạy cảm 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- với cái đẹp và nhìn sự vật nghiêng về góc độ thẩm mĩ, vẫn là những con người tài hoa nghệ sĩ như thuở một thời vang bóng: những người thợ mộc Chàng Thôn với đôi tay tài nghệ được chúa Ngàn Thiêng vời lên sửa đền ở chốn non cao thần tiên ( Trên đỉnh non Tản ); một Bá Nhỡ - kẻ dám đi đến tận cùng của nghệ thuật, dùng mạng mình để đổi lấy tiếng đàn đạt tới tuyệt đỉnh nghệ thuật (Tâm sự của nước độc – Chùa Đàn ); một Bố Ô – vua lưu linh sống trong rượu và chết cũng trong rượu ( Rượu bệnh – Bố Ô )… Nếu trong Vang bóng một thời, ta gặp những nếp sinh hoạt và thú chơi cầu kì mà thanh đạm, tao nhã: uống trà, uống rượu Thạch Lan Hương, đánh thơ, thả thơ, chơi chữ… thì trong Yêu ngôn, vẫn là những lối sống, những thú chơi cầu kì tao nhã ấy: một người chủ đồn điền nhưng lại có cái “cốt tài tử” say mê những bức cổ họa, sẵn sàng bỏ ra rất nhiểu tiền để có được bức họa vẽ tướng Hàn Kỳ ngồi đọc binh thư bên ngọn bạch lạp; anh em ông Đầu xứ Anh, Đầu xứ Em nổi danh về tài học vẫn mải miết với nghiệp đèn sách thi cử dẫu biết rằng có thể bị hồn ma báo oán giữa trường thi (Khoa thi cuối cùng )… Đọc Yêu ngôn, vẫn gặp những cảnh sắc, những đồ vật quen thuộc của một thời: vùng Sơn Nam hạ mùa thi cử hoa hòe nở vàng ( Khoa thi cuối cùng ), những cửa ô thân thuộc của chốn kinh kì ( Rượu bệnh ), những roi chầu, đàn đáy, tiếng tơ tiếng trúc (Chùa Đàn)… có nghĩa là vẫn là văn Nguyễn Tuân, kiến thức Nguyễn Tuân, mảnh hồn Nguyễn Tuân in hằn một dấu triện riêng không thể lẫn. Là con người luôn thèm khát những cảm giác mới lạ và mãnh liệt “Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn”, những cảm giác ấy “Nguyễn Tuân không thể tìm được trong cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày, phải đi tìm một thế giới khác để được sống mãnh liệt, nồng nàn, cuồng nhiệt, phát huy 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- tận độ cá tính của mình” [63, tr 9]. Nhà văn tìm cách vượt, phóng thoát hoàn toàn khỏi hiện thực bằng sự đẩy xa đến cùng sức tưởng tượng và cảm hứng lãng mạn. Ông tìm đến một thế giới khác, một hiện thực khác để sống mãnh liệt hơn, thế giới của cõi âm, cõi ma, thế giới của Yêu ngôn. Không phải đến Yêu ngôn mà ngay trong một số truyện khác của Nguyễn Tuân đã mang màu sắc huyền kì. Trong tập Vang bóng một thời, các truyện Trên đỉnh non Tản và Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) được tuyển chọn vào Yêu ngôn bởi “có màu sắc huyền kì, ma quái” [3 ,tr 917]. Bên cạnh đó, các truyện Tóc chị Hoài, Chém treo ngành, Vườn xuân lan tạ chủ đã có một chút màu sắc kì ảo phi thường. Tóc chị Hoài (1942) “đứng riêng như một thử nghiệm tiểu thuyết mới của Nguyễn Tuân những năm 1940” [54, tr7]. Chị Hoài là “một nhân vật hư cấu hư không, chị có mà không, chị không mà có”. Như tất cả những nhân vật tiểu thuyết thông thường, “chị Hoài là một người chị tôi mượn của cuộc đời bừa bộn những oan trái”, chị Hoài cộng hưởng những ảo ảnh đớn đau của người nghệ sĩ. “Chị Hoài, ảo ảnh vô hình, chị không có thật nhưng hồn chị, tóc chị là thật. Chỉ có tôi đang nói chuyện với một mớ tóc mây. Chỉ có hai ngón tay chị Hoài đang nói chuyện với những sợi chỉ tơ thâm một mớ tóc xõa. Gian nhà có hai người, lặng mà không vắng. Thế rồi trong cái hiu quạnh tay đôi ấy, khe khẽ nổi lên giọng kể chuyện Nhị Độ Mai, khẽ một cách rất mơ hồ thủ thỉ. Lòng tôi vụt trở nên thương nhớ thăm thẳm gấp mấy giọng hát u hoài… Trong giây phút, đặt sách vào lòng, tôi thấy nhộn nhạo trong lồng ngực và ước muốn được làm ngay cái anh chàng Mai Sinh kia” [56, tr 657]. “Chất huyền ảo của Nguyễn Tuân bắt đầu từ đây, từ mái tóc lãng mạn của chị Hoài, trước khi rẽ sang ngả kinh dị của yêu ngôn” [14, tr 8]. Ở Bữa rượu máu, tác giả đã vẽ một cảnh rùng rợn của pháp trường. Bát Lê, tay đao phủ có tài chém người rất ngọt đang luyện lại đường đao 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- “chém treo ngành” trong vườn chuối với những lời hát vừa dữ dội, vừa ai oán: “Trời nổi cơn lốc Cảnh càng u sầu … Sống không thù nhau Chết không oán nhau … Hãy ngồi cho vững Cho ngọt nhát đao Hỡi hồn! Hỡi quỷ không đầu! Bài hát phù thủy, chiêu hồn, giã oán, phân trần với chính mình, với oan hồn, với trời đất. Rồi cảnh pháp trường, Bát Lê mặc áo trắng, thắt khăn điều, khai đao hành quyết như một nghệ nhân múa một vũ khúc thảm khốc. Trảm xong mười hai người, áo không vấy máu. “Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Dứt mỗi hồi chiêng mớm thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một thể xác. Tùng! Bili! Bili!”. Cảnh hành hình dữ dội đã diễn ra, nhà văn đã kết thúc bằng một bầu không khí ma quái u hiển bao trùm cả pháp trường, khí lạnh như thấm vào hơi văn: “Lúc quan công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn dính vào da cổ người chết quỳ, sân pháp trường sắp giải tán bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi lên xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan thủ hiến và thì thào… Bấy giờ vào khoảng giữa giờ thân …”. Với lối viết “lạnh” Nguyễn Tuân sử dụng hình 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- tượng cơn gió lốc kết thúc tác phẩm như một lời cảnh báo, dự báo về một sự báo oán: những kẻ đang gieo gió kia hãy coi chừng cái thủ cấp của chúng. Tính ám dụ của hình tượng như ký thác kín đáo thái độ căm phẫn của nhà văn đối với bọn thực dân thống trị. Trong Vườn xuân lan tạ chủ [55, tr135] có một quan án Trần phong lưu, chủ nhân Túy lan trang. Ông có một niềm vui thích đặc biệt, thường sai cô con gái yêu – cô chiêu Tần – đi mua thứ “rượu khê” ở làng Vĩnh Trị, vùng cất rượu ngon có tiếng, về “bón hoa”. Vị hưu quan già đã không quan tâm đến vóc xương khô, mà chỉ lo cho hoa trong thời loạn khi mà “một mai lũ người ô hợp tràn đến”. Bên cạnh quan án là cậu ấm Hai giữa buổi loạn li mà chỉ biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, “tâm người tài tử, chọn lầm thế kỉ, buồn, tủi, cực đến dường nào”. Cảnh cô chiêu Tần mỗi sớm chèo thuyền đi lấy rượu trên sông Mã, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Cả ba tạo nên một đời sống thanh khiết thoát tục. Nhưng rồi kinh hoàng xảy đến: Túy lan trang bị đốt cháy, cô chiêu Tần bị thuyền cướp mang đi, quan án Trần phẫn uất mà chết, và “giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỉ, thề không ở lại với thế gian”. Giai nhân khuất bóng, thuật cất “rượu khê” bên Vĩnh Trị cũng thất truyền và “làng men” mất đi một phong vị. Lan đã biết tạ chủ, các loài cây cỏ khác ở Túy lan trang cũng “đều ủ rũ để tang người thiên cổ”. Vườn xuân lan tạ chủ với không khí thần kì, thoát tục vài năm sau sẽ có dịp biểu lộ rõ hơn trong Yêu ngôn. Như vậy không phải đến Yêu ngôn, yếu tồ kì ảo mới xuất hiện trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Trên cái đà có sẵn ấy, trí tưởng tượng của ông đã đẩy xa hơn thành hẳn một thể tài – thể tài Yêu ngôn. Ông đã đắm mình trong thế giới nghệ thuật mà mình sáng tạo nên và tạo được những cảnh tượng kì thú, mê hoặc mà người đọc khó phân biệt được là âm 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- hay dương, là ma hay người… và đây chính là điều mới mẻ của Yêu ngôn so với các tác phẩm khác của chính ông. 1.2. Một thế giới nghệ thuật đặc thù: Sự pha trộn, hòa lẫn thực và ảo, âm và dương… là những yếu tố cấu thành phương thức tư duy nghệ thuật của Yêu ngôn. 1.2.1. Phản ánh hiện thực không phải là sao chép hiện thực mà là sự sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm tạo ra hiện thực. Hiện thực ở đây được hiểu không đồng nghĩa với tính có thậ, giống như thật. Điều này là một chân lý quen thuộc trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng với cái nhìn huyền ảo, huyền hoặc thì khái niệm hiện thực ở đây cũng trở nên vô bờ bến. Hiện thực, đặc biệt là trong cách tư duy huyền thoại được tạo nên bởi cái phóng túng của tưởng tượng. Ở đây cái huyễn hoặc, hư ảo không còn là yếu tố gây hoang mang cho người tiếp nhận mà trái lại càng kích thích trí tưởng tượng bay bổng của người đọc, tạo ra sự đa dạng, mới mẻ cho tác phẩm văn học. Nó cho phép con người vi phạm các quy tắc của lý trí, nhân danh một thứ ánh sáng siêu việt không chỉ thuộc về tri thức mà còn thuộc về số mệnh. [67,755]. Việc xuất hiện cái ảo trên nền cái thực này cũng là nỗ lực khai thác tầng sâu của hiện thực, là một hình thức để người đọc nhận thấy các chiều khác nhau của hiện thực. Nói cách khác, đây chính là cách để nhà văn mở rộng biên độ phản ánh, chuyển tải một phạm vi đời sống khác lạ vào tác phẩm, đồng thời thể hiện một phía nào đó của niềm tin, của tâm hồn phía sau những gì đã nghe và thấy. Bằng trí tưởng tượng, Nguyễn Tuân đã tạo nên một thế giới siêu thực với những con người, những cảnh tượng khơi gợi những cảm giác mới lạ nơi người đọc. Đây là cái cảnh chánh chủ khảo tế thi hương trong Khoa thi cuối cùng ( Báo oán ) mà các oan hồn được mời vào trường thi để trả ân, báo oán trước thí sinh: 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- “Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế trường như đang lắng chờ một sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời phương Đông đáng lẽ đã phải hửng lên rồi. Thế mà ở đây chỉ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt. Trong cảnh âm dương không chia biệt rõ, quan chánh chủ khảo trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ đang tế cáo giời, đất, vua, thần và thánh, xuýt xoa khai xong tên, tuổi, quê, quán, ngài khấn to: “… Báo oán giả, tiên nhập ; báo ân giả, thứ nhập…”. “Một thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, nghe lào xào như có tiếng các hồn oan hồn lành chen chúc và ùa vào choán chỗ. Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết”. Với những cành huống ngược đời: mặt đất sáng hơn nền trời ( lẽ ra mặt đất tối hơn ), gió không muốn thổi ( lẽ ra là gió thổi ), sáp không lung lay ( lẽ ra là ngọn sáp lung lay ), khói bốc thẳng ( lẽ ra là khói ngoằn ngoèo )… tác giả đã thể hiện một trạng thái bất bình thường làm toát lên không khí dị thường, lạnh gáy với đám sĩ tử, với cả người đọc bởi không biết đó là cõi dương gian hay nơi âm thế? Không khí ấy thật thích hợp để cho những hồn ma hiện về, rũ tóc mà báo oán những oan khiên tiền kiếp. Trong Chùa Đàn nhân vật Mợ Lãnh không xuất hiện trực tiếp nhưng là đầu mối dẫn dắt cốt truyện. Mợ Lãnh là người vợ chết yểu của Lãnh Út – chủ trại. Lãnh Út, kẻ tài tử chỉ đam mê người vợ yêu, và khi nàng hóa người thiên cổ bởi một tai nạn hoả xa - một công cụ của văn minh cơ khí, Lãnh Út không còn lẽ sống trở nên cuồng dại trong niềm thương nhớ và trở thành kẻ thù của cơ khí văn minh. Hình ảnh còn lại của Mợ Lãnh chỉ là một bức tranh đẹp và buồn “một người đàn bà áo trắng đang ngồi chép sách trên một cái đôn màu cốm, bên một khung cửa sổ có mấy tàu lá chuối già lọt vào. Màu 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- xanh tái của tranh gia thêm xa lạnh vào khí buồng rộng quạnh và đổ thêm buồn lên vẻ nhớ vợ của người ngắm tranh”. Mợ Lãnh là người hay ma? Khó có thể gọi tên cho chính xác. Nàng không tên, chỉ để lại tập thơ di cảo và bóng hình kiều mĩ trên bức họa tuyệt vời. Phải chăng nàng là thơ, là hoa đang sống trong vườn địa đàng thuở hồng hoang mê thảo? Sự đan xen mộng – thực, mộng – tưởng tượng, mộng – ma trong Yêu ngôn đã tạo thành một vũ trụ âm dương không ngăn cách, ma chính là người, ma ăn ở với người…Tất cả những yếu tố này là điều mới mẻ của Yêu ngôn tạo nên sức hấp dẫn biến ảo dị kì. 1.2.2. Hiện thực còn đƣợc tạo nên thông qua lăng kính của huyền kì: Truyền kỳ, kỳ ảo là những điều lạ lùng, huyền bí mà đặc trưng của nó là sự tưởng tượng, hư cấu có sức lay động hứng thú thẩm mĩ của người đọc. Vấn đề này đã hiện diện trong văn học nhân loại tự cổ sơ và “không hề chết đi khi bước sang thế kỉ XX”. Trong văn học hiện đại, kì ảo được hiểu như là một phạm trù tư duy nghệ thuật, một phương tiện hữu hiệu để nhận thức và phản ánh cuộc sống nhằm mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định. Cội nguồn của sự tưởng tượng li kì vẫn là những điều hiện thực của thế giới này. Nhà văn sử dụng yếu tố kì ảo để “lạ hóa” trạng thái hiện thực, đôi khi xáo trộn hiện thực để kích thích, mở rộng trí tưởng tượng của người đọc. Nhờ những đặc điểm trên đây, mỗi tác phẩm kì ảo xuất hiện ở từng giai đoạn khác nhau của lịch sử đều có được khuôn mặt riêng dù có những điểm tương đồng nhất định xuất phát từ đặc trưng thể loại. Cũng chính những đặc trưng này đã tạo ra sự gần gũi nhất định giữa các nền văn học kì ảo trên thế giới dù mảnh đất sinh thành và phát triển của chúng không hoàn toàn đồng nhất. Văn học huyền kì, kì ảo là bông hoa lạ mọc lên trong tất cả các dòng, các 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- giai đoạn văn học. Đó là cố gắng không mệt mỏi để nhận thức thế giới của con người. Mạch truyện Yêu ngôn đã hình thành trong văn Nguyễn Tuân từ khá sớm: “vào khoảng năm 1943 , người ta thấy xuất hiện trên tờ Thanh Nghị và Trung Bắc chủ nhật một số đoản thiên của Nguyễn Tuân viết theo lối Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Toàn là những truyện ma quỷ hết sức kì quái hoang đường. Cùng một lúc, cũng trên những tờ báo ấy, người ta thấy quảng cáo một đầu sách của Nguyễn Tuân có tên là Yêu ngôn” [63, tr6]. Có thể nói đây là một thể tài đặc biệt, và lối định danh cho thể tài này cũng in dấu “bản quyền” riêng của nhà văn. Từ trước 1945, Nguyễn Tuân đã dự định in những đoản thiên huyền bí, kỳ ảo và ma quái ấy nhưng chưa kịp làm và sau một thời gian dài, những truyện này ít được nhắc tới. Nhiều năm sau khi Nguyễn Tuân qua đời, Yêu ngôn mới có dịp xuất hiện như một tác phẩm trọn vẹn, một chân dung thể tài hoàn chỉnh với công phu sưu tầm, biên soạn, giới thiệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhà xuất bản Hội nhà văn, 1998. Như vậy, hiện thực trong Yêu ngôn là một hiện thực khác, một thế giới khác – một thế giới vừa thực vừa ảo, cõi âm hòa vào cõi dương. Ở thế giới ấy toàn là những chuyện kì quái, rùng rợn. Một kẻ nghiện rượu đến nỗi cả thân xác biến thành một khối men bốc lửa: “Ngọn lửa xanh lè vờn lấy mình ông già đang say mềm. Xác Bố Ô nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm lừng như mùi cá mực nướng bằng rượu không có chút gì là hôi khét cả. Và lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải vụn trông trắng nhỏ không khác gì thứ bột để luyện những hòn men. Ngửi cái vụn xương vô tư ấy, lại thấy thơm và ngây ngất nữa” (Rượu bệnh ). Đó là một cái chết khác thường, chết rượu, chết cháy, xác cháy trong hơi rượu, cũng thơm, cũng ngông ngạo như người. 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 432 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 346 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 184 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 118 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 135 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 193 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc
120 p | 87 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 103 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương
143 p | 108 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung
129 p | 127 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề dạy học “Nguyễn Du và Truyện Kiều” trong chương trình Văn ở trường trung học phổ thông
123 p | 134 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 22 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 43 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 79 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn