Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945
lượt xem 7
download
Luận văn đặt ra nhiệm vụ là tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện gắn Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 một cách có hệ thống dưới góc độ thi pháp học.Từ đó tìm ra cái riêng của nhà văn trong thể loại truyện ngắn so với những nhà văn cùng thời và khẳng định vị trí của truyện ngắn Nguyên Hồng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------- TRẦN THỊ THANH YẾN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội - 2011
- MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................... 3 1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................... 3 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ......................................................... 5 3. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN .................................................... 10 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................... 11 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 11 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN ................................................................ 11 B. PHẦN NỘI DUNG ................................................................................ 12 Chương 1. HÀNH TRÌNH NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG ................................... 12 1.1. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN HỒNG..................... 12 1.1.1. Vài nét về Nguyên Hồng và hành trình sáng tác của nhà văn .... 12 1.1.2. Truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám.......... 15 1.2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI ........................... 17 1.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng................................... 17 1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời ........................................... 23 Chương 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945. .............................. 30 2.1. NHÂN VẬT CAM CHỊU ................................................................. 33 2.1.1. Những phu phen thợ thuyền cam chịu........................................ 33 2.1.2.Những ngƣời phụ nữ cam chịu .................................................... 34 2.1.3.Những trẻ em nghèo .................................................................... 38 2.2. NHÂN VẬT VƢỢT LÊN HOÀN CẢNH ....................................... 41
- 2.2.1. Những ngƣời lao động nghèo ..................................................... 41 2.2.2. Những tri thức tiểu tƣ sản nghèo ................................................ 43 2.3. NHÂN VẬT VỊ THA, GIÀU ĐỨC HY SINH ................................ 45 2.4. NHÂN VẬT THA HÓA ................................................................... 49 Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ................................................................................................... 56 3.1. XÂY DỰNG NHÂN VẬT QUA TÌNH HUỐNG TRUYỆN .......... 57 3.2. MIÊU TẢ NHÂN VẬT QUA NGOẠI HÌNH VÀ HÀNH ĐỘNG . 61 3.2.1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình. ............................................... 61 3.2.2.Miêu tả nhân vật qua hành động.................................................. 64 3.3. MIÊU TẢ NHÂN VẬT QUA NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU .... 67 3.3.1. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm ..................................................... 67 3.3.2. Giọng điệu trần thuật sôi nổi, thiết tha ....................................... 75 C.PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................. 84
- A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI Nguyên Hồng là một trong những đại diện tiêu biểu của nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Cùng với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài, ...Nguyên Hồng đã trở thành một trong những nhà văn tiên phong góp phần xây dựng nền văn học mới, nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với gần nửa thế kỉ cần cù và say mê sáng tạo nghệ thuật, nhà văn đã để lại cho chúng ta một gia tài văn học đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm có giá trị. Ông đã đặt "cả cuộc đời, trái tim và tâm hồn, nhường tất cả hơi sức, hi vọng và lòng tin" trên mỗi trang viết để viết về những con ngƣời cùng khổ và dựng nên một bức tranh hiện thực về sự nghiệp cách mạng trọng đại của dân tộc.Ngòi bút của Nguyên Hồng cũng góp phần vào không khí sôi động và sự phát triển liên tục của hành trình văn học Việt Nam trong thế kỉ XX.Với ý nghĩa đó, sự nghiệp văn học của nhà văn xứng đáng đƣợc chúng ta giữ gìn, ngợi ca và trân trọng. Nguyên Hồng, ngay từ những trang viết đầu tay, ông đã tự vạch cho mình một con đƣờng nghệ thuật riêng: nhà văn của những ngƣời cùng khổ. Cả cuộc đời cầm bút, ông gắn bó sâu sắc, máu thịt với những con ngƣời nhỏ bé, những lớp ngƣời dƣới đáy của xã hội thành thị. Sự nghiệp văn học của Nguyên Hồng có nét gần gũi với nhà văn Nga Mácxim Gorki – trong mỗi trang viết của ông nồng nàn hơi thở của đời sống cần lao. Nguyên Hồng luôn khả năng nhìn thấy một vẻ đẹp đầy chất thơ trong đời sống cần lao, trong những cái bình thƣờng, thậm chí tầm thƣờng, xô bồ, bề bộn của cuộc sống, trong cảnh lầm than, lam lũ, khốn khổ, cơ cực của con ngƣời . Và ông đã say sƣa miêu tả những sâu kín, thánh thiện ấy với một thái độ đầy nâng niu, trân trọng, và với một niềm tin mãnh liệt.. Không ít nhà văn hiện thực cùng thời với ông nhìn cuộc sống một cách bi quan. Không có thái độ bi quan về con ngƣời và xã hội đƣơng thời nhƣ Nguyễn Công Hoan hay Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, dù cả cuộc đời sống trong cơ cực lao khổ, vẫn luôn
- nhìn cuộc đời bằng con mắt tin yêu, lạc quan tin tƣởng và với một tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyên Hồng bƣớc vào nghề văn do sự thôi thúc nội tâm , muốn nói lên nỗi thống khổ khôn cùng của con ngƣời, trƣớc hết là ngƣời lao động để bênh vực họ.Đó là ý thức nghệ thuật đã trở thành nguồn cảm hứng, cuốn hút sự say mê, sang tạo của ông trong suốt cuộc đời cầm bút. Sáng tác là niềm đam mê lớn nhất trong cuộc đời Nguyên Hồng.Viết văn đối với ông là để “giải thốt những xâu xé, những dào dạt trong lòng. Để phơi bày những ý tưởng rạo rực tâm hồn (…), viết còn để tìm cho mình một đời sống lâu dài trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách nồng nàn với những mối tình thắm thiết mênh mông”[26,75]. Ngòi bút ông đã hòa nhập vào đời sống cần lao của những con ngƣời dƣới đáy xã hội, vào cát bụi lầm than, vào những cảnh đời, những kiếp ngƣời khốn khổ và ông đã tìm đƣợc ở đó suối nguồn dạt dào nuôi dƣỡng cả cuộc đời nghệ thuật của mình. Cảm hứng thƣơng cảm là cảm hứng chủ đạo, bao trùm lên toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng, tạo nên trong tác phẩm của ông một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc, “bao giờ cũng thống thiết, mãnh liệt” (Nguyễn Đăng Mạnh). Nhắc đến các tác phẩm của Nguyên Hồng, ngƣời ta thƣờng nói nhiều đến các tiểu thuyết và Hồi kí của ông nhƣ : Bỉ vỏ, Sóng gầm, Cơn bão đã đến, Cửa biển, Những ngày thơ ấu. Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyên Hồng tập trung nhiều nhất cho tiểu thuyết .Từ Bỉ vỏ-tác phẩm khi mới bắt đầu cầm bút, đến Cửa biển-tác phẩm mà ông dành nhiều thời gian và tâm huyết nhất cho đến tác phẩm cuối đời- Núi rừng Yên Thế, đều là tiểu thuyết. Những tác phẩm tiểu thuyết này đã góp phần xác lập vị trí của Nguyên Hồng trên văn đàn nghệ thuật nƣớc nhà. Tuy nhiên trong sự nghiệp văn chƣơng của Nguyên Hồng, truyện ngắn của ông cũng có một vị trí quan trọng không thua kém gì so với tiểu thuyết. Và so với các nhà văn cùng thời, truyện ngắn Nguyên Hồng cũng mang những nét độc đáo
- riêng. Chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu cũng nhƣ những bài phê bình tiểu luận của các nhà văn, nhà phê bình, các bạn văn, độc giả …về con ngƣời và những tác phẩm của ông. Tuy nhiên, những thành tựu trong truyện ngắn của Nguyên Hồng vẫn chƣa đƣợc đánh giá một cách đầy đủ . Lựa chọn đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, tác giả luận văn mong muốn đƣa ra một cái nhìn có tính hệ thống về nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng đồng thời khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Nguyên Hồng là một trong số những nhà văn ngay từ đầu đã tự xác định cho mình con đƣờng nghệ thuật đúng đắn và tiến bộ. Ngòi bút của ông luôn hƣớng về đời sống cần lao và những con ngƣời lao động nghèo khổ, lam lũ.Con đƣờng nghệ thuật Nguyên Hồng là con đƣờng của nhà tƣ tƣởng hiện thực chủ nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo mãnh liệt và thống thiết. Con ngƣời nhà văn và những sáng tác của ông luôn giành đƣợc những tình cảm yêu thƣơng đằm thắm trong lòng bạn bè và bạn đọc nhiều thế hệ. Nguyên Hồng là một trong số ít những nghệ sĩ mà ngay trong những sáng tác đầu tay đã có đƣợc vị trí vững chắc trên văn đàn nghệ thuật và trở thành nguồn cảm hứng và cho nhiều nhà nghiên cứu và những ngƣời yêu thơ văn. Cảm hứng đó đƣợc trải dài từ những năm trƣớc 1945 cho đến nay a. Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 Nguyên Hồng lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn bằng truyện ngắn Linh hồn đƣợc in trên Tiểu thuyết thứ bảy vào năm 1936.Đó là thời gian Nguyên Hồng vừa chuyển đến sống ở Hải Phòng, ban ngày ông là một thầy giáo tƣ dạy học cho lũ trẻ con nhà nghèo trong xóm Cấm, ban đêm ông lại cặm cụi viết văn dƣới ánh đèn leo lét, viết một cách đau khổ và đầy say mê.Nhà văn trẻ ấy đã bƣớc vào nghề văn bằng sự trình bày thống thiết nỗi khổ ê chề của những con ngƣời nhỏ bé
- dƣới đáy xã hội vốn hằng ngày sống xung quanh mình.Nhƣng phải đến cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ-tác phẩm đƣợc nhận giải thƣởng của Tự lực Văn đoàn năm 1937 thì cái tên Nguyên Hồng mới thực sự đến gần với bạn đọc. Ngay từ tiểu thuyết đầu tay ấy,Nguyên Hồng đã bộc lộ đƣợc tƣ tƣởng nhân đạo của một nhà văn hiện thực. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) đã nhận xét: “ Tập văn đầu tiên của ông là tập Bỉ vỏ…Nhưng cái tư tưởng thâm trầm nó bao quát cả cuốn tiểu thuyết Nguyên Hồng là cái tư tưởng : Tuy đã sa chân vào chốn trụy lạc, người ta vẫn có thể mang một tâm hồn trong sạch được.” Bỉ vỏ là cuộc sống thực và cũng chính là máu thịt cuộc đời Nguyên Hồng. “ Bỉ vỏ của Nguyên Hồng là một cuốn tiểu thuyết chứa chan tinh thần nhân đạo,nó làm cho ta thương xót đến cả những kẻ đầy tội lỗi, nhưng Bỉ vỏ lại xây dựng một khuôn luân lí rất cao, nên dù ta thương xót họ cũng không thể không ghê tởm về hành vi của họ”. Tuy nhiên trong tiểu thuyết đầu tay này, Nguyên Hồng không tránh khỏi những nhƣợc điểm của ngƣời mới cầm bút “Tính cách nhân vật đôi khi bị đơn giản hóa . Có những tình tiết bố trí giả tạo. Nhiều câu văn lỏng lẻo, dễ dãi…” (Vũ Ngọc Phan). Tiếp sau Bỉ vỏ, Nguyên Hồng lại mang đến cho bạn đọc một sự ngạc nhiên mới. Thiên tự truyện Những ngày thơ ấu đã ghi lại một cách truyền cảm và chân thành “ sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn”(Thạch Lam). Nhận xét tinh tế của Thạch Lam thể hiện sự đồng cảm giữa hai nhà văn này. Những ngày thơ ấu ngay từ khi mới ra đời đã đƣợc đông đảo bạn đọc và giới phê bình đón nhận và đánh giá cao bởi lẽ đó là lần xuất hiện đầu tiên của một tác phẩm văn học theo lối tự truyện . Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, trong tuyển tập Nhà văn hiện đại(1942) đã đánh giá rất cao tác phẩm này của Nguyên Hồng:
- “ Mới đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có dưới mắt một quyển sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga. Không những thế, càng đọc những trang sau, ta càng thấy Nguyên Hồng kể cho ta nghe hết cả những cái cay đắng, những cái trụy lạc của mình và những người thân mình” “Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gụi với xã hội người nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm động như Nguyên Hồng”. Tiếp nối thành công của hai tác phẩm đầu tay, năm 1941, Nguyên Hồng tiếp tục ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Bảy Hựu. Đây là tập truyện phản ánh những cuộc đời bi đát của hạng ngƣời lƣu manh sống âm thầm lẩn lút trong xã hội. Những nhân vật trong Bảy Hựu đều mang dáng vẻ phi thƣờng nhƣng lại “có tấm lòng khẳng khái hi sinh không khác nào những nhân vật trong Thủy Hử”.( Vũ Ngọc Phan). Đánh giá về tập truyện Bảy Hựu, trên tạp chí Tri Tân số 6(8-6-1941), Nguyễn Tử Anh nhận xét: “ Bảy Hựu là tác phẩm viết do một ngọn bút xuất sắc . Bảy Hựu với những lời văn giản dị, trơn tru, ta không phải tìm hiểu mà tự nhiên thấy vô hạn thương cảm những vai chủ động…không cầu kì, khách sáo, đó là đặc điểm của văn Nguyên Hồng”. Khảo sát tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945, có thể thấy các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao tài năng của Nguyên Hồng và khẳng định ông là nhà văn hiện thực mang tinh thần nhân đạo cao cả. Tuy nhiên các bài phê bình đánh giá thƣờng tập trung nhiều vào mặt nội dung tƣ tƣởng của tiểu thuyết Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu.Truyện ngắn của Nguyên Hồng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu chuyên sâu trong giai đoạn này. b.Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
- Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyên Hồng tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm có quy mô đồ sộ .Đặc biệt ánh sáng của quan niệm giai cấp và những nhận thức về chính trị đã nâng cao chất lƣợng nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng. Ngòi bút của ông với vẫn hƣớng tình cảm của mình về phía nhân dân lao động đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh kiên trì và tất thắng của họ. Phan Cự Đệ trong bài viết "Những bước tiến mới về tiểu thuyết Nguyên Hồng sau Cách mạng Tháng Tám" đã đƣa ra những nhận định khái quát nhất về sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng : " Lò lửa và địa ngục là một cái mốc quan trọng trên con đường sáng tạo của Nguyên Hồng. Tuy về căn bản nó vẫn là những tác phẩm hiện thực phê phán nhưng cái ánh sáng chiếu rọi vào thì lại là của một thế giới quan đã bắt đầu đổi mới" "Bỉ vỏ và Sóng gầm là hai mốc về tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Hai tác phẩm cách nhau một phần tư thế kỷ và cũng là hai thời kì khác nhau trên con đường nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bỉ vỏ là những tình cảm yêu thương dào dạt, là khát vọng ngây thơ, trong trắng hồn nhiên của buổi ban đầu. Sóng gầm, Cơn bão đã đến ...ra đời lúc cây bút Nguyên Hồng đã trưởng thành, luôn luôn day dứt suy nghĩ về những vấn đề nghệ thuật và đời sống". Có thể nói từ sau năm 1945, tình hình nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng có nhiều chuyển biến mới mẻ. Đặc biệt, mảng truyện ngắn của ông đã đƣợc các nhà phê bình, các bạn văn quan tâm và bƣớc đầu đƣa ra những nhận định, những ý kiến đánh giá khách quan. Đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng, Phan Cự Đệ thẳng thắn nhận định: “ Ngoài một số truyện ngắn độc đáo, người ta thấy anh hay lặp lại mình trong một số hình tượng quá quen thuộc: một bà mẹ ngoan đạo, nhẫn nhục chịu đựng và một người con giai thất nghiệp sống nheo nhóc cùng quẫn trong một ngõ
- hẻm ở Hải Phòng. Ở một số truyện ngắn đã bắt đầu xuất hiện những con người mới nhưng những hình tượng này còn đơn giản và sơ lược” . Nếu nhƣ trong thời kì đầu cầm bút, Nguyên Hồng hay viết về những ngƣời dân nghèo lƣu manh hóa thì đến những năm 40 , ánh sáng cách mạng và giai cấp đã soi sáng cho những nhân vật lao động nghèo của Nguyên Hồng. Phan Diễm Phƣơng trong bài viết Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên Hồng đã đƣa ra nhận định: “ Từ đầu những năm bốn mươi, Nguyên Hồng đã viết một số truyện ngắn, truyện dài có sắc thái hơi khác với những truyện ngắn trước đó của ông: Cái bào thai, Hai dòng sữa, Một trƣa nắng, Hơi thở tàn…Có thể xem đây là những cuộc tranh luận công khai về nghệ thuật, cũng là sự bộc lộ công khai quan điểm nghệ thuật của tác giả, bằng hình tượng nghệ thuật và bằng những lời tuyên bố thẳng thắn, dứt khoát” . GS. Phan Cự Đệ là một trong những ngƣời dành nhiều tâm huyết trong việc nghiên cứu và đƣa tác phẩm Nguyên Hồng đến với ngƣời đọc. Trong Lời giới thiệu cho cuốn Nguyên Hồng toàn tập(2000), ông đã đƣa ra nhiều ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng trên các phƣơng diện nhân vật, kết cấu, bút pháp nghệ thuật và khẳng định vị trí của truyện ngắn Nguyên Hồng “ Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong cách truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn những tác phẩm trước và sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một tập truyện ngắn giá trị với nhiều màu sắc độc đáo”. Đúng nhƣ lời nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu “ Nguyên Hồng mất đi nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ”. Từ sau khi nhà văn qua đời cho đến nay, sự nghiệp văn chƣơng và con ngƣời nhà văn vẫn là đề tài cho các công trình khoa học, các bài viết nghiên cứu phê bình văn học. Tiếp cận đề tài từ góc độ văn học sử, trong cuốn sách Phong cách nghệ
- thuật Nguyên Hồng, tác giả Bạch Văn Hợp đã trình bày một cách hệ thống những nét độc đáo, tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao và những biến chuyển nhất quán của phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, từ đó góp phần khẳng định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam hiện đại.Trong đó, truyện ngắn của Nguyên Hồng là đối tƣợng chính đƣợc tác giả tập trung khảo sát. Nhà nghiên cứu trẻ Lê Hồng My với công trình " Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng", đã chọn cách tiếp cận sáng tác của nhà văn từ góc độ "lời văn nghệ thuật" để " khám phá các phương thức tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời văn; khám phá mối quan hệ giữa tư tưởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật; xác định vai trò của lời văn nghệ thuật đới với thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng..."(Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng- Lê Hồng My) Tác giả Nguyễn Thu Hà với đề tài luận văn " Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng", đã khảo sát những sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc năm 1945 để làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng. Qua những bài viết và công trình nghiên cứu đề cập đến nhiều mặt trong sáng tác của Nguyên Hồng, các tác giả đã có những nhận định khách quan và chính xác về thế giới nghệ thuật, phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm tiểu thuyết và truyện ngắn của nhà văn. Tuy nhiên,chúng tôi nhận thấy những ý kiến phê bình đánh giá về truyện ngắn của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng vẫn chƣa đƣợc trình bày trong những công trình chuyên sâu, mang tính hệ thống. Những bài viết nêu trên đã giúp chúng tôi có những gợi ý quan trọng và có hƣớng giải quyết những vấn đề cần đi sâu, tìm hiểu trong luận văn này. 3. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Tiếp thu các ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng của những ngƣời đi trƣớc, luận văn đặt ra nhiệm vụ là tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện
- ngắn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945 một cách có hệ thống dƣới góc độ thi pháp học.Từ đó tìm ra cái riêng của nhà văn trong thể loại truyện ngắn so với những nhà văn cùng thời và khẳng định vị trí của truyện ngắn Nguyên Hồng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Lấy thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng làm đối tƣợng nghiên cứu, luận văn đã đi sâu vào đời sống tâm hồn, tính cách con ngƣời để nắm bắt đƣợc tƣ tƣởng của nhà văn bởi nhân vật là yếu tố để nhà văn bộc lộ chủ đề, tƣ tƣởng của mình.Đồn thời, thông qua nhân vật, nhà văn muốn bày tỏ những quan niệm, những suy tƣ trăn trở về con ngƣời và cuộc đời. Từ đó, chúng ta nhận ra những quan niệm nhân sinh mới mẻ, tiến bộ, nhận ra con ngƣời và cá tính Nguyên Hồng trong văn học. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung khảo sát và tìm hiểu các nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng, gồm 49 truyện ngắn đƣợc in chung trong Nguyên Hồng toàn tập, tập 1, Phan Cự Đệ(2008).So sánh với truyện ngắn của các tác giả cùng thời để thấy đƣợc thành công và hạn chế của Nguyên Hồng trong việc xây dựng nhân vật. Qua đó giúp chúng tôi có một cái nhìn đầy đủ hơn về quá trình sáng tạo hình tƣợng nghệ thuật của ông. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã vận dụng một số phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp lịch sử-cụ thể - Phƣơng pháp thống kê - Phƣơng pháp so sánh đối chiếu - Phƣơng pháp phân tích-tổng hợp 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài Phần Mở đầu và Phần Kết luận, nội dung chính của Luận
- văn đƣợc tổ chức thành 3 chƣơng: Chƣơng 1: Hành trình nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyên Hồng Chƣơng 2: Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 Cuối cùng là phần Thƣ mục Tài liệu tham khảo B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1. HÀNH TRÌNH NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
- CON NGƢỜI CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG 1.1. HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN HỒNG 1.1.1. Vài nét về Nguyên Hồng và hành trình sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5-11-1918 tại phố Hàng Cau , thành phố Nam Định trong một gia đình công giáo đang trong thời kì sa sút. Mƣời hai tuổi,cậu bé Nguyên Hồng mồ côi cha, ngƣời mẹ trẻ nghèo khổ phải vào Vinh đi ở vú đầm, rồi mấy năm sau thì đi bƣớc nữa. Mƣời lăm tuổi, vừa mới học xong tiểu học, ông đã bị đày đọa trong các nhà lao trải dài từ Nam Định đến Hà Nội và cuối cùng bị giải đi Phúc Yên. Đến năm mƣời sáu tuổi, hết hạn tù đƣợc tha, Nguyên Hồng từ giã quê hƣơng-thành phố Nam Định để cùng mẹ và bố dƣợng ra sinh sống ở xóm Cấm -Hải Phòng. Tại cái xóm nghèo ấy, Nguyên Hồng đã trở thành thầy giáo tƣ của con em những ngƣời lao động nghèo khổ. Cũng chính tại Hải Phòng, vào năm 1935, nhà văn của chúng ta đã đƣợc gặp gỡ Thế Lữ-" nhà thơ ngõ Nghè", chủ soái của phong trào Thơ Mới.Chính từ cuộc gặp gỡ này, Nguyên Hồng đã bắt đầu ƣớc vọng đi vào con đƣờng văn chƣơng . coi văn chƣơng là lẽ sống cao cả của cuộc đời mình. Năm 1936, Linh hồn -truyện ngắn đầu tay của Nguyên Hồng đƣợc in trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy càng làm củng cố thêm quyết tâm này của nhà văn. Chính trong những căn nhà ổ chuột tối tăm, bẩn thỉu của khu lao động xóm Cấm- Hải Phòng, những trang viết đầu tiên của tiểu thuyết Bỉ vỏ và Hồi ký Những ngày thơ ấu đã đƣợc hình thành. Bỉ vỏ đƣợc in thành nhiều kì trên báo và nhận đƣợc giải thƣởng Tự lực Văn đoàn. Cũng từ đó, Nguyên Hồng đã thực sự trở thành một nhà văn.Năm 1938, báo Ngày nay bắt đầu giới thiệu Những ngày thơ ấu đƣa văn chƣơng Nguyên Hồng đến gần hơn với bạn đọc. Bƣớc vào thời kỳ mặt trận dân chủ, Nguyên Hồng có điều kiện đƣợc tiếp xúc với một số Đảng viên Đảng cộng sản đang hoạt động ở thành phố Hải Phòng, trong đó có đồng chí Tô Hiệu- là bí thƣ Thành ủy lúc bấy giờ. Sau đó, Nguyên
- Hồng ngày càng tích cực tham gia các hoạt động do Đảng cộng sản Đông Dƣơng chủ trì trong suốt thời kì này.Cùng với Nhƣ Phong, Nguyễn Tƣờng Khanh, Trần Minh Tƣớc, Lƣu Qúy Kì và La Hy, Nguyên Hồng tham gia sinh hoạt trong Đoàn thanh niên dân chủ và viết bài trên các báo Thế giới và Mới. Tháng 9/1939, Nguyên Hồng bị mật thám bắt tại Hải Phòng. Ông bị kết án 6 tháng tù về"tội truyền bá văn học macxit và tham gia những tổ chức chống phá trị an.". Trong thời gian bị tù đày gian khổ, các tập truyện Qua những màn tối và Cuộc sống đã đƣợc ra đời, thể hiện những chuyển biến mới về tƣ tƣởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Vào mùa hè năm 1943, Nguyên Hồng đã cùng với Nhƣ Phong, Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi , Nguyễn Huy Tƣởng tham gia vào tổ chức Văn hóa cứu quốc bí mật và đƣợc tiếp xúc với Đề cƣơng văn hóa 1943 của Đảng. Điều này đã có ảnh hƣởng sâu sắc đến những tác phẩm đƣợc viết trong giai đoạn tiền khởi nghĩa của Nguyên Hồng nhƣ: Hơi thở tàn, Hai dòng sữa, Ngọn lửa, Buổi chiều xám... Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia biên tập cho tạp chí Tiên phong- cơ quan hoạt động văn hóa mới của Đảng. Thời gian này ông tiếp tục cho ra đời tập truyện vừa Ngọn lửa, tập truyện ngắn Địa ngục và lò lửa. Trong đó, một số truyện đã đƣợc in trên tạp chí Tiên phong. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nguyên Hồng cùng với một số gia đình văn nghệ sĩ khác nhƣ Ngô Tất Tố, Kim Lân...lên khai phá ấp Kì Nhân(tức ấp Cầu Đen-Yên Thế) cạnh căn cứ của nghĩa quân Đề Thám năm xƣa.Tại đây, ông tiếp tục tham gia hoạt động trong Hội Văn nghệ Việt Nam, là biên tập viên cho tạp chí Văn nghệ của Hội và phụ trách Trƣờng văn nghệ nhân dân Trung ƣơng từ nhũng khóa học đầu tiên. Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông cùng gia đình chuyển về sống ở Hà Nội, đƣợc phân công công tác tại Hội nhà văn Việt Nam và làm thƣ kí
- tòa soạn cho tuần báo Văn của Hội do nhà văn Nguyễn Công Hoan làm chủ nhiệm.Sau đợt đấu tranh chống lại nhóm Nhân văn -giai phẩm, Nguyên Hồng chuyển về tham gia lao động tại nhà máy xi măng Hải Phòng. Cũng tại nơi đây, ông bắt đầu nhen nhóm ý tƣởng và bắt tay vào viết Cửa biển- bộ tiểu thuyết sử thi dài bốn tập, một tác phẩm tâm huyết của cả cuộc đời cầm bút của Nguyên Hồng. Từ năm 1962, ông sống cùng gia đình tại ấp Cầu Đen, Yên Thế( Bắc Giang). Có thể nói sau Hải Phòng, mảnh đất này chính là quê hƣơng thứ hai của Nguyên Hồng, là nơi mà ông đã gắn bó lâu dài và cũng là nơi ông xây dựng bộ tiểu thuyết dài hơi còn dở dang của đời mình. Bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế dự định gồm ba tập, đang hoàn thành tập 2 thì ông đột ngột qua đời (2/5/1982). Tri ân cho những cống hiến của ông cho nền văn học nƣớc nhà, Nguyên Hồng đã đƣợc Chính phủ truy tặng Huân chƣơng độc lập hạng ba và giải thƣởng Hồ Chí Minh đợt 1.Ông không chỉ là một nhà văn lớn mà còn là ngƣời thầy dìu dắt nhiều thế hệ nhà văn trẻ đi vào con đƣờng sáng tác văn chƣơng. Với 46 năm miệt mài sáng tạo nghệ thuật, Nguyên Hồng đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm có giá trị trên các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, hồi kí, bút ki- tiểu luận. Một số tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chƣơng của Nguyên Hồng: - Tập truyện ngắn: Bảy Hựu (1940), Hai dòng sữa (1943), Địa ngục và lò lửa (1946) Giữ thóc (1956) - Tiểu thuyết: Bỉ vỏ (1938), Quán Nải (1942), Hơi thở tàn (1944), Cửa biển-3 tập (1961-1973), Thù nhà nợ nƣớc (1981), Núi rừng Yên Thế- tập 1 (1983) - Thơ: Trời xanh (1960) - Hồi kí- bút kí: Những ngày thơ ấu (1940), Đất nƣớc yêu dấu (1949), Bƣớc đƣờng viết văn (1971), Một tuổi thơ văn (1973), Những nhân vật ấy đã sống với tôi (1978).
- 1.1.2. Truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám Truyện ngắn là thể loại văn xuôi nghệ thuật tƣơng đồng với tiểu thuyết, có hình thức khá tự do, có khả năng đề cập đến hầu hết các phƣơng diện đời sống con ngƣời, xã hội nhƣng với dung lƣợng nhỏ. Truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc khắc họa một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con ngƣời bằng những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu và cô đúc. Bản chất của truyện ngắn là ngắn, hàm súc, khái quát nghệ thuật cuộc sống theo chiều sâu. Ở Việt Nam, truyện ngắn xuất hiện nhƣ một thể loại văn học từ đầu thế kỉ XX, cùng với sự ra đời của văn xuôi quốc ngữ, gắn liền với tác động của báo chí. Truyện ngắn hiện đại Việt Nam đạt đƣợc nhiều thành tựu xuất sắc trong khoảng thời gian 1930-1945, gắn với tên tuổi và đóng góp to lớn của các nhà văn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Bùi Hiển...Truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng, đặc biệt phong phú về khuynh hƣớng thẩm mỹ, về đề tài, nội dung phản ánh, về bút pháp, phong cách đồng thời còn đạt đến những giá trị mới về nội dung, cũng nhƣ có sự đổi mới sâu sắc có hệ thống về hình thức, từ đó tạo nên sự xuất hiện của những đỉnh cao nghệ thuật mới. Nhờ có sự ra đời của báo chí mà truyện ngắn giai đoạn này đã áp sát tới gần đời sống, kể về cuộc sống nghèo khổ của những con ngƣời tầm thƣờng dƣới đáy xã hội.Về hệ đề tài, có thể nói truyện ngắn đã hƣớng tới tất cả mọi mặt của đời thƣờng và khám phá tất cả những biểu hiện phong phú phức tạp trong đời sống tinh thần của con ngƣời. Cùng với sự phong phú về mặt nôi dung thì truyện ngắn 1930-1945 cũng rất đa dạng về phong cách và bút pháp nghệ thuật.đó là Nguyễn Công Hoan tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn hài hƣớc mang đậm tính chất hiện thực; Nam Cao mang một phong cách hiện thực nghiêm ngặt giàu tính chất tâm lý, mang dáng vẻ hiện đại; với Thạch Lam thì " mỗi truyện ngắn là một bài ca trữ tình đầy xót
- thương" và "những con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thương toả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả .."; và có một Nguyên Hồng với bút pháp viết truyện vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trong sự nghiệp sáng tác dồi dào của Nguyên Hồng, truyện ngắn có một vị trí quan trọng không thua kém gì so với các tác phẩm tiểu thuyết của ông. Gần nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, ông đã cho ra đời 7 tập truyện ngắn: Bảy Hựu (1940), Hai dòng sữa (1943), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Địa ngục và lò lửa (1946), Giữ thóc (1956) và Tuyển tập truyện ngắn 1983-1985. Trong đó, những truyện ngắn đƣợc viết trƣớc năm 1945 đƣợc bạn đọc yêu mến và đƣợc giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao. Truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng có sự kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn , thể hiện tấm lòng thƣơng cảm của nhà văn đối với những kiếp ngƣời cùng khổ và niềm tin mãnh liệt vào những phâm chất tốt đẹp của con ngƣời lao động chân chính.Trong từng trang viết của ông, ngƣời đọc vừa có thể nhận thức đƣợc hiện thực cuộc sống của ngƣời dân Hải Phòng trƣớc Cách mạng, lại vừa dễ dàng nhận ra tình cảm dạt dào sôi nổi của nhà văn đối với cuộc sống cần lao và những nhân vật dƣới đáy xã hội. Nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng đƣợc viết với một bút pháp hiện thực tỉnh táo. Đọc các truyện: Đây bóng tối, Láng, Vực thẳm, Ngƣời con gái...chúng ta có thể cảm nhận đƣợc cuộc sống bi thảm, tối tăm của những kiếp ngƣời cùng khổ trong xã hội cũ. Ngòi bút nhà văn không ngần ngại vạch trần những chi tiết tỉ mỉ, trần trụi của đời sống cần lao. Cũng có khi tác giả giấu mình đi, sử dụng một lối văn trần thuật khách quan để ngƣời đọc tự cảm nhận và đƣa ra những nhận định riêng về nhân vật và tác phẩm. Một số truyện nhƣ Những mầm sống, Cuộc sống...tràn đầy âm hƣởng trữ tình lãng mạn nhƣng không phải là thứ lãng mạn thoát li tiêu cực nhƣ một số tác phẩm của Tự lực Văn đoàn, mà đó là chất thơ toát ra từ đời sống lao động, một chủ nghĩa lãng mạn cách mạng bắt nguồn từ một niềm tin lí tƣởng- niềm tin đối
- với con ngƣời và cuộc sống. Truyện ngắn của Nguyên Hồng còn thể hiện tính chiến đấu, đƣợc biểu hiện qua những thủ pháp nghệ thuật tƣơng phản, trong việc xây dựng kết cấu và hệ thống hình tƣợng nghệ thuật.Đó là sự đối lập giữa hai kiểu ngƣời, hai lối sống, một bên là lòng nhân hậu, sự thủy chung và một bên là sự hƣởng thủ ích kỉ, thói độc ác tàn nhẫn ( Cô gái quê, Nhà bố Nấu); có khi lại là sự đối lập giữa hai quan điểm nghệ thuật( Hai dòng sữa, Cái bào thai). Truyện ngắn Nguyên Hồng đôi khi có khuynh hƣớng mở rộng quy mô và dung lƣợng, kết cấu dàn trải theo chiều dài cuộc đời nhân vật( Ngƣời con gái, Con gái ngƣời mãi võ họ Hoa). Tuy nhiên, cũng có truyện chỉ là một cảnh ngộ tối tăm hay một câu chuyện dằn vặt lƣơng tâm(Tôi dạy học, Miếng bánh).Truyện ngắn Nguyên Hồng sử dụng nhiều bút pháp, nhiều lối kết cấu và xây dựng nhân vật khác nhau. Tất cả những thủ pháp đó đề nhắm phản ánh cuộc sống của tầng lớp dân nghèo thành thị, những con ngƣời lƣơng thiện bị vùi dập,những tấm lòng yêu thƣơng, nhân nghĩa thủy chung, những khát vọng đẹp đẽ về một thế giới trần đầy ánh sáng và hạnh phúc. Truyện ngắn của Nguyên Hồng đƣợc viết với giọng văn thƣơng cảm thống thiết và lạc quan sôi nổi. giọng điệu ấy đi liền với cấu trức lời văn nghệ thuật.Câu văn của ông thƣờng đƣợc mở rộng thành phần theo kiểu tăng cấp, liệt kê và sử dụng các kết cấu lặp. Đoạn văn của ông thƣờng đƣợc tổ chức theo kết cấu tầng tầng lớp lớp, kết cấu lửng theo kiểu lặp cấu trức câu. Vì vậy, văn của Nguyên Hồng luôn dồi dào cảm xúc, giàu chất thơ và dễ đi vào lòng ngƣời. Cùng với giọng điệu thƣơng cảm thống thiết ấy là ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm.Nhà văn đã khai thác và vận dụng sáng tạo khả năng biểu đạt của nhiều loại hình ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau khổ cùng cực và những phẩm chất tinh thần tốt đẹp của ngƣời lao động. Đó là cách sử dụng từ ngữ, thành ngữ, thán từ một cách linh hoạt. Ngôn ngữ trong các truyện ngắn của Nguyên Hồng là ngôn ngữ gây ấn
- tƣợng, tác động đến giác quan của ngƣời đọc. Truyện ngắn của Nguyên Hồng có một lối tự sự chân thật giàu cảm xúc, thể hiện lòng thƣơng cảm đối với những kiếp ngƣời cùng khổ và một niềm tin mãnh liệt vào những phẩm chất tốt đẹp của ngƣời lao động. Truyện ngắn của ông còn thể hiện một cái nhìn lãng mạn, tràn đầy chất thơ về đời sống cần lao, một giọng điệu trần thuật sôi nổi thiết tha với những hình thức ngôn ngữ giàu biểu cảm, gấy ấn tƣợng, là sự kết hƣợp hài hòa giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. Tất cả các yếu tố trên đã tạo nên cho truyện ngắn Nguyên Hồng một phong vị riêng, vừa độc đáo vừa gần gũi với đời sống tinh thần, tình cảm của nhân dân lao động. 1.2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI 1.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyên Hồng “Quan niệm nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật học, nó gắn bó với quan niệm thế giới quan, triết học, xã hội học về con người và thế giới nói chung, nhưng tự bản thân nó đã là một “ý thức hệ” đặc biệt gắn liền với miêu tả nghệ thuật” (Phan Cự Đệ). Nhƣ vậy, cái thúc đẩy sức sáng tạo nghệ thuật chính là quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con ngƣời thể hiện sự thống nhất giữa hiện thực đƣợc phản ánh và năng lực cắt nghĩa, lý giải nghệ thuật của nhà văn. Ứng với một quan niệm về cuộc đời và con ngƣời là một thế giới nghệ thuật tồn tại ngay trong khám phá của nhà văn. Trên cơ sở quan niệm nghệ thuật đã hình thành trƣớc trong tƣ duy, trong cảm xúc, tác giả có thể lựa chọn và xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật khác nhau. Và mỗi hình tƣợng nghệ thuật nhƣ vậy trong những tác phẩm khác nhau của cùng một tác giả lại gặp nhau ở cùng một điểm dƣới sự chỉ đạo của quan niệm nghệ thuật của tác giả. Mỗi nhà văn lớn đều có một quan niệm về nghệ thuật và cuộc đời của riêng mình. Chính điều này chi phối quá trình thai nghén tác phẩm và phong cách nghệ thuật của nhà văn, đồng thời giúp độc giả xác định đƣợc mức độ chiếm lĩnh con ngƣời của hình tƣợng văn học và sự đóng góp tích cực của hiện tƣợng văn học đó vào lịch sử văn học cũng nhƣ vào sự phát triển nhân cách
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 433 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 348 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Con người trong thơ thiền Lý Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại
131 p | 201 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 184 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 118 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 135 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 195 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 104 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề dạy học “Nguyễn Du và Truyện Kiều” trong chương trình Văn ở trường trung học phổ thông
123 p | 134 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu thơ các vua thời Thịnh Trần (từ Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông)
132 p | 119 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu đoạn văn kết thúc truyện ngắn của Nam Cao
118 p | 32 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 22 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 44 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 80 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn