Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 43
download
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh nêu lên tầm quan trọng của công tác quản lý giáo dục đào tạo, thực trạng và giải pháp thực hiện công tác quản lý giáo dục đào tạo tại trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo của Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH HUỲNH LÊ TUÂN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ: 5.07.03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRƯƠNG VĂN SINH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2004
- Lời cảm ơn Xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến: Quý thầy, cô trong Ban giám hiệu, quý thầy, cô và các cán bộ, công chức ở các phòng, ban, khoa của Trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh Quý thầy, cô đã trực tiếp giảng dạy lớp cao học quản lý giáo dục khóa 11 của Trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh Các anh chị và các bạn cùng khóa. Ban giám hiệu, cùng tất cả các anh, chị và các bạn đồng nghiệp ở Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh. Cha, mẹ và tất cả các thành viên trong gia đình. Và đặc biệt chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trương Văn Sinh, người thầy hết sức nhiệt tình, tận tâm hướng dẫn chúng tôi trong suốt quá trình học và thực hiện luận văn này. Tháng 6/2004 Huỳnh Lê Tuân
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Một trong những vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất quan tâm là làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, làm cho giáo dục - đào tạo thực sự trở thành động lực, mục tiêu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. 1.2. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn nhất toàn quốc, lại là một thành phố có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa sâu rộng với nhiều nước trên thế giới. Là một trường đào tạo chuyên ngành cho một thành phố lớn, đông dân như thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa - nghệ thuật - thông tin cho nhiều tỉnh phía Nam nên nhiệm vụ của Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh hết sức nặng nề. Từ khi được thành lập và đi vào hoạt động đến nay, trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp trong việc đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa - nghệ thuật - thông tin cho thành phố và một số tỉnh phía Nam. Nhưng cũng như nhiều trường đại học và cao đẳng trong cả nước, chất lượng đào tạo của Trường chưa thật cao, chưa ngang tầm với đòi hỏi của xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi thành phố Hồ Chí Minh cùng cả nước đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và đẩy mạnh việc triển khai thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành trung ương Đảng - Khóa VIII, với mục tiêu xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh đang phải đi tìm những giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu về một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật cho thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Với luận văn "Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo của Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh", chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ bé giải đáp một số vấn đề cấp thiết của trường. 2. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1. Đã có khá nhiều công trình đề cập đến công tác quản lý giáo dục - đào tạo. Song, hình như phần lớn các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia giáo dục tập trung phần nhiều vào việc nghiên cứu các chiến lược phát triển giáo dục, xây dựng các loại hình đào tạo, tổ chức lại mạng lưới đào tạo trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, hoặc xây dựng các chương trình, các dự án phát triển giáo dục, v.v... ví dụ : Chương trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, chương trình chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục, chương trình xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học, phổ cập trung học cơ sở, v.v... Những công trình đi sâu
- vào việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục của các đơn vị, cơ quan giáo dục, nhất là của các trường cao đẳng, đại học không nhiều; phần lớn là những báo cáo kinh nghiệm đúc rút được từ thực tiễn hoạt động của các đơn vị, các trường. 2.2. Vấn đề nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục - đào tạo của các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, chuyên ngành như các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, ngành văn hóa nghệ thuật chẳng hạn, càng ít được quan tâm. Hiện nay, ngoài các trường nghiệp vụ văn hóa thông tin và trung học chuyên nghiệp văn hóa nghệ thuật ở các tỉnh, thành, cả nước có 4 trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật, đó là: - Trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà Nội - Trường Cao Đẳng Văn Hóa TP. Hồ Chí Minh - Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật Quân đội - Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh Có nhiều vấn đề đã và đang đặt ra cho các trường nêu trên, như: Nên tổ chức theo mô hình nào? Làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng công tác đào tạo cũng như nâng cao hiệu quả quản lý công tác đào tạo? Từ năm 1998 đến nay đã có 3 cuộc hội thảo nhằm định hướng phát triển và bàn về những vấn đề liên quan đến hoạt động của các trường văn hóa nghệ thuật. Hội thảo lần thứ nhất được tổ chức tại trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà Nội (tháng 8/1998). Hội thảo lần thứ hai được tổ chức tại trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh (tháng 11/2000). Hội thảo lần thứ ba được tổ chức tại trường Trung Học Văn Hóa Nghệ Thuật Thừa Thiên - Huế (tháng 3/2002). Tại các cuộc hội thảo này, đã có nhiều tác giả đề cập đến việc tổ chức lại, đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý của các trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật. Đáng tiếc, do nhiều nguyên nhân, các tác giả chỉ đi vào từng mảng riêng lẻ của hoạt động quản lý công tác đào tạo. Ví dụ như thạc sĩ Hoàng Lân (Hiệu trưởng Trường cao đẳng nghệ thuật Hà Nội) trong tham luận mang tiêu đề "Một số giải pháp về tổ chức - quản lý đào tạo ở Trường cao đẳng nghệ thuật Hà Nội trong những năm đổi mới" cũng chỉ đề cập một cách khái quát đến những vấn đề mang tính cụ thể từ thực tiễn của trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà Nội. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp về công tác quản lý, song chỉ dừng lại ở những gợi ý chung về: (1) - Quản lý mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo - Quản lý người dạy, người học (Giáo viên - HSSV) - Quản lý cơ sở vật chất, tài chính, ngân sách.
- - Quản lý các chế độ chính sách, quy chế, quy định, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi giáo viên, học sinh. - Chú ý đến tâm lý người làm nghệ thuật, người học nghệ thuật. - Chú ý nghiên cứu tính chất lao động đặc thù của mỗi loại hình nghệ thuật và giá trị sản phẩm nghệ thuật để đánh giá chất lượng đúng với giá trị. 3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Ở luận văn này, chúng tôi đi sâu vào 3 nội dung : 3.1. Tầm quan trọng của công tác quản lý đào tạo và những nội dung liên quan đến việc nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đào tạo. 3.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh. 3.3. Đề xuất một số biện pháp đổi mới công tác quản lý hoạt động đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh để đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới trong hoạt động của nhà trường trong thời gian tới. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp luận Xuất phát từ lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa, giáo dục đối với công cuộc xây dựng đất nước nói chung, đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, và xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh, luận văn hướng tới mục đích đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo nhằm góp phần đào tạo một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật có chất lượng cao, phục vụ ngày càng tốt hơn việc phát triển kinh tế, xã hội nói chung và nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật nói riêng, của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội lớn nhất của cả nước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau: 4.2.1. Phương pháp miêu tả - phân tích thực trạng công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh. 4.2.2. Phương pháp phỏng vấn, lấy ý kiến các chuyên gia, lấy ý kiến của lãnh đạo một số trường tiêu biểu về quan điểm và phương pháp thực hiện công tác quản lý đào tạo (1) Kỷ yếu hội thảo về định hướng và phát triển các trường văn hóa nghệ thuật Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, TP. Hồ Chí Minh - Huế -
- 4.2.3. Phương pháp thống kê - lập biểu đồ - đối chiếu - so sánh Tùy từng chương, từng phần, một hoặc một số phương pháp nêu trên được sử dụng. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng : Một là : Chỉ ra những thành tựu và những tồn tại trong hoạt động đào tạo nói chung và trong công tác quản lý đào tạo nói riêng của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh thời gian vừa qua. Từ đó nêu lên một số vấn đề đang đặt ra đối với công tác quản lý đào tạo của trường trong giai đoạn tới. Hai là : Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật - một trong những chức năng và nhiệm vụ chính trị chủ yếu của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh trong những năm sắp đến. 6. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương I: Một số vấn đề chung về hoạt động quản lý giáo dục đào tạo. Chương II: Tình hình công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh thời gian vừa qua. Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Tháng 5-2002 - Trang 21.
- CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.1.1. Quản lý : 1.1.1.1. Khái niệm : Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý..., phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động giúp người thủ trưởng phối hợp nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt được mục tiêu đề ra. Nói đến hoạt động này, người ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của Các - Mác : "Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng". Thuật ngữ "Quản lý" lột tả được bản chất hoạt động này trong thực tiễn. Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau : quá trình "Quản" gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định; quá trình "Lý" gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế "phát triển". Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc "Quản", tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn, thì tổ chức dễ trì trệ. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến việc "Lý", tức là chỉ lo việc sắp xếp tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì sự phát triển của tổ chức không bền vững. Trong "quản" phải có "lý", trong 'lý" phải có "quản" để động thái của hệ ở thế cân bằng động: Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực).(1) Có nhiều quan niện khác nhau về "Quản lý". Tuy nhiên, tựu trung lại có những hướng chủ yếu sau: a. Nếu nhìn từ hướng "vận hành", "hoạt động", thì quản lý được hiểu là sự tác động, là hoạt động phối hợp của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, hướng khách thể phát triển theo quy luật khách quan hoặc theo mục đích, chủ định của chủ thể quản lý. Theo hướng này, có thể kể đến các loại ý kiến sau: - Quản lý là hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó, quản lý được hiểu là bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với những hoàn cảnh mới. (1) . "Khoa học tổ chức và quản lý - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" - NXB Thống kê - Hà Nội - 1999 - Trang 14
- - Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động. - Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành thành tựu của xã hội. - Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch, và có hệ thống thông tin từ chủ thể đến khách thể của nó. b. Nếu nhìn từ hướng tổng thể trong tổ chức của "Quản lý", thì "Quản lý" là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, các yếu tố có sự tác động lẫn nhau, vận hành theo quy luật và theo chủ định của chủ thể quản lý. Xin nêu một vài ý kiến thuộc loại này (1): - Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật, sinh vật, xã hội...) nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động. - Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người - thành viên của hệ, nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự kiến. Dù đi theo hướng nào đi nữa, thì : - Quản lý là hoạt động tác động, chỉ huy, điều khiển của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý. - Khách thể quản lý luôn tồn tại trong mối quan hệ tương tác với nhau và cả với chủ thể quản lý, tạo thành một cơ cấu có tính hệ thống. Do đó, có thể chấp nhận định nghĩa như sau : - Quản lý là sự hoạt động của chủ thể quản lý (thông qua các hình thức và công cụ quản lý) nhằm điều khiển, tổ chức cho khách thể quản lý thực hiện công việc để đạt được mục đích quản lý. Quản lý, từ cách hiểu trên đây, được tổ chức bởi 5 yếu tố, có thể hình dung qua lược đồ : Hình thức quản lý Chủ thể quản lý Mục đích quản lý Khách thể quản lý Công cụ quản lý 1.1.1.2. Các loại quản lý (1) PGS. Nguyễn Sinh Huy, PGS.PTS. Nguyễn Văn Lê - Giáo dục học đại cương - NXB Giáo dục - 1997 - Trang 33 -> 37
- Thông thường, có 3 loại quản lý: Quản lý sinh học; Quản lý kỹ thuật; Quản lý xã hội. Quản lý giáo dục - đào tạo thuộc loại quản lý xã hội 1.1.2. Giáo dục - Đào tạo: 1.1.2.1. Giáo dục Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức hiểu biết về thế giới khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng về hoạt động nghề nghiệp... cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng, bằng các phương tiện dạy học khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng (như phát thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh...) với các kiểu học tập rất đa dạng, linh hoạt, trong đó người học đóng vai trò "trung tâm". Giáo dục là một trong 3 yếu tố góp phần hình thành nhân cách con người (Di truyền - Giáo dục - Môi trường). Giáo dục là quá trình diễn ra liên tục trong mọi môi trường hoạt động của con người. Trong đó, học đường là môi trường đào tạo có vai trò rất quan trọng. Theo nghĩa hẹp, giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ được xem xét về mặt nhận thức mà còn căn cứ trên các hành vi, thói quen, biểu hiện trình độ phát triển (cao hay thấp) của trình độ "có giáo dục" của mỗi con người. 1.1.2.2. Dạy học: Là khái niệm dùng để chỉ các hoạt động của người dạy nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho người học. Hoạt động dạy (của thầy) và hoạt động học (của trò) là 2 hoạt động gắn bó hữu cơ với nhau trong một quá trình giáo dục tổng thể, trong đó : Vai trò của nhà sư phạm là định hướng tổ chức, thực hiện việc truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đến người học một cách hợp lý, khoa học - do đó luôn có vai trò và tác dụng chủ đạo. Người học nhận thức, tổ chức quá trình tiếp thu một cách độc lập, sáng tạo các hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành năng lực và thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc tự học với tư cách là chủ thể sáng tạo, hình thành nhân cách của bản thân. Theo quan điểm tiếp cận hệ thống thì vai trò chủ đạo của người dạy (thể hiện qua việc định hướng, tổ chức, điều khiển các hoạt động) và trực tiếp (khi hoạt động trên lớp) luôn luôn có ý nghĩa đặc biệt với việc đảm bảo chất lượng của quá trình đào tạo. "Vai trò chủ động, tích cực, năng động của học sinh trong quá trình học tập có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển trí tuệ, lĩnh hội kiến thức và hoàn thiện nhân cách của bản thân - với ý nghĩa là chủ thể sáng tạo, không thể thay thế.
- Dạy và học vì thế cần hiểu đúng là hai mặt của một quá trình bổ sung cho nhau, cái này chế ước và đồng thời là tác động quan trọng của cái kia, kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể phát triển."(1) "Kết quả trực tiếp của quá trình dạy học là học vấn (học thức) bao gồm cả phương pháp (nhận thức và hành động) và năng lực chuyên biệt của người học.(1) 1.1.2.3. Đào tạo: Là một quá trình dạy và học mang tính chuyên biệt nhằm trang bị, rèn luyện cho người học các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo theo yêu cầu nghề nghiệp chuyên môn, chuyên sâu. Quá trình đào tạo nhằm chuẩn bị cho con người có khả năng lao động để góp phần vào việc duy trì và phát triển cuộc sống trong cộng đồng xã hội. 1.1.3. Quản lý giáo dục - đào tạo: Theo nghĩa rộng, giáo dục - đào tạo là một quá trình hoạt động của toàn xã hội, mang tính đặc thù của loài người, nó tạo ra điều kiện cần thiết giúp cho sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, năng lực của mỗi cá nhân, để cho cá nhân có thể hòa nhập với cộng đồng. Vì vậy, quản lý giáo dục - đào tạo là quản lý nhà nước theo lĩnh vực, có tính thống nhất từ trung ương đến địa phương và giữa các cấp giáo dục. Theo nghĩa hẹp, quản lý giáo dục - đào tạo là quản lý quá trình dạy và học trong nhà trường. Có thể nói theo cách khác là: Quản lý giáo dục - đào tạo là một hoạt động chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý..., nhằm giúp cho hoạt động dạy và học đạt được hiệu quả mong muốn. 1.2. Quản lý giáo dục - đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: 1.2.1. Quan niệm: Theo nghĩa rộng, giáo dục - đào tạo văn hóa nghệ thuật là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức hiểu biết về văn hóa, nghệ thuật, kỹ năng trong hoạt động nghề nghiệp của lĩnh vực văn hóa nghệ thuật... cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng, bằng các phương tiện dạy học khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng (như phát thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh...) với các kiểu học tập rất đa dạng, linh hoạt, trong đó chủ thể người học đóng vai trò "trung tâm"; thực hiện theo phương thức đa dạng hóa, năng động, thích ứng với mọi biến đổi; là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải chỉ riêng của ngành Văn hóa; Giáo dục văn hóa nghệ thuật góp phần hình thành nhân cách con người, hướng con người phát triển đến cái Chân - Thiện - Mỹ. Giáo dục đào tạo văn hóa nghệ thuật là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, nó cũng là quá trình diễn ra liên tục trong mọi môi trường hoạt động của con người. Trong đó, môi trường học đường, đào tạo có vai trò rất quan trọng. Theo nghĩa hẹp, giáo dục - đào tạo văn hóa nghệ thuật (1) PGS. Nguyễn Sinh Huy, PGS.PTS. Nguyễn Văn Lê - Giáo dục học đại cương - NXB Giáo dục - 1997 - Trang 33 -> 37
- là quá trình hoạt động dạy và học trong trường văn hóa nghệ thuật. Tuy cũng là hoạt động dạy và học, nhưng người học của các trường văn hóa nghệ thuật có những đặc thù riêng: họ phải hội đủ những điều kiện cần thiết cho việc tuyển chọn năng khiếu văn hóa nghệ thuật trước khi tiến hành quá trình đào tạo. 1.2.2. Vai trò và nội dung của công tác quản lý đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật 1.2.2.1. Vai trò Như chúng ta đã biết, quá trình giao lưu và hội nhập với thế giới đã làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, đồng thời cũng trở nên phức tạp hơn. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển văn hóa nghệ thuật, nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để đạt được mục tiêu ấy, các trường văn hóa nghệ thuật phải có trách nhiệm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ những người vừa có tài, vừa có đức hoạt động trên lĩnh vực này. Công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật chính là nhiệm vụ chính trị của các trung tâm văn hóa, các trường văn hóa nghệ thuật. Từ đó, nhiệm vụ của các đơn vị này là: Thứ nhất: phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng những tài năng về văn hóa nghệ thuật, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả nhu cầu học tập, thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng cao của nhân dân. Thứ hai: Đưa các hoạt động đào tạo và bồi dưỡng tài năng về văn hóa nghệ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, góp phần làm cho văn hóa nghệ thuật thực sự trở thành nền tảng tinh thần của nhân dân, là động lực, là đòn bẩy để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Riêng đối với các tỉnh, thành phía Nam, nhất là đối với thành phố Hồ Chí Minh, một thành phố sôi động, năng động và cũng phức tạp nhất về kinh tế, văn hóa, xã hội - thì những khía cạnh này càng có ý nghĩa to lớn. Thực tế cho thấy hàng loạt hiện tượng văn hóa mới hay văn hóa ngoại bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh sau đó lan rộng ra khắp các nơi. Công tác quản lý đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật đóng vai trò tổ chức, chỉ huy, phối hợp các lực lượng làm công tác giáo dục - đào tạo (trong và ngoài ngành văn hóa nghệ thuật) nhằm phát triển nền văn hóa nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân, hướng mọi người đến những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. 1.2.2.2. Nội dung của hoạt động quản lý đào tạo 1.2.2.2.1. Quản lý mục tiêu đào tạo : (1 ) Hà Thế Ngữ - Giáo dục học tập I - NXB Giáo dục - 1987 - trang 22.
- Việc xác định rõ, chính xác mục tiêu đào tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu của công tác quản lý đào tạo trong nhà trường. Cơ sở để xác định mục tiêu đào tạo là : Mục tiêu giáo dục tổng quát được quy định bởi luật Giáo dục. Trong Luật Giáo dục của Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội khóa IX, kỳ họp thứ 4 thông qua có nêu : "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành nhân cách và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (1). Nhiệm vụ chính trị xã hội của nhà trường : Trường văn hóa nghệ thuật là một thiết chế chính trị xã hội và phải phục vụ cho việc phát triển xã hội. Sự phát triển của nhà trường chịu sự quy định của Nhà nước, lịch sử, sự phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu đào tạo có nhiều cấp độ khác nhau : Mục tiêu đào tạo tổng quát: Là mục tiêu chung nhất do Luật Giáo dục quy định (như tài liệu đã dẫn). Mục tiêu đào tạo cụ thể của nhà trường: Dựa trên cơ sở mục tiêu đào tạo đã được nêu trong Luật giáo dục, mục tiêu đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật phải là: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo về văn hóa nghệ thuật, giàu óc sáng tạo, có ý thức, có khả năng góp phần xây dựng, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành nhân cách và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu đào tạo của từng khoa: Trong các trường văn hóa nghệ thuật, mỗi khoa có đặc thù ngành nghề đào tạo riêng, do đó, cần phải xây dựng mục tiêu đào tạo cụ thể của khoa để làm cơ sở cho việc xác định mục tiêu đào tạo cho từng ngành học, môn học. Vấn đề cốt lõi là tất cả các mục tiêu đào tạo cụ thể đều phải phù hợp và phục vụ cho mục tiêu đào tạo tổng quát. 1.2.2.2.2. Tổ chức và quản lý nhân sự : Hoạt động quản lý chỉ nảy sinh khi cần có sự phối hợp hoạt động của nhiều người, có nghĩa là cần phải có tổ chức, nhằm mục đích đạt được hiệu quả lao động cao hơn. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản lý giáo dục chính là công tác tổ chức nhân sự, bởi vì hoạt động giáo dục là hoạt động tương tác giữa người với người. Trong các trường văn hóa nghệ thuật, công tác quản lý nhân sự cần phải quan tâm đến yếu tố đặc thù của những người làm công tác văn 1 Luật Giáo dục - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1999 - trang 8
- hóa nghệ thuật để giúp họ phát triển, đó là: khả năng sáng tạo, tài năng nghệ thuật, phẩm chất và cá tính riêng độc đáo, v.v... 1.2.2.2.3. Quản lý nội dung đào tạo : Là xác định khối lượng tri thức mà Người dạy cần phải chuyển giao cho Người học trong một thời gian có giới hạn, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Cơ sở để xác định nội dung đào tạo chính là mục tiêu và thời gian đào tạo. 1.2.2.2.4. Quản lý kế hoạch đào tạo : Kế hoạch là sự dự kiến các bước thực hiện công việc một cách có hệ thống trong một thời hạn nhất định, căn cứ vào những điều kiện, những phương tiện cho phép, nhằm đạt được mục tiêu đã xác định. Tính kế hoạch không phải là "khả năng độc quyền" của riêng loài người. Ngay cả ở các loài vật cũng có khả năng này, đương nhiên là ở mức độ tư duy thấp, chủ yếu là do bản năng sinh tồn mà có (ví dụ : người ta quan sát thấy ở loài kiến, ong, hoặc ở loài gấu... khả năng tích lũy thức ăn để sinh sống, để có thể vượt qua những khoảng thời gian không thuận lợi cho việc kiếm ăn của chúng). Tuy nhiên, với khả năng tư duy phát triển vượt bực, có ngôn ngữ, chữ viết... loài người có thể tạo ra được các kế hoạch một cách hết sức khoa học, hoàn chỉnh, chính xác... cho dù làm bất kỳ công việc gì, từ đơn giản tới phức tạp. Xã hội càng phát triển, đặc biệt là trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay, việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tốt các kế hoạch là một yêu cầu quan trọng khẳng định tính hiệu quả của các hoạt động xã hội, đặc biệt là với công tác quản lý, kể cả ở tầng vĩ mô lẫn vi mô. 1.2.2.2.5. Xây dựng và quản lý thông tin : Để đảm bảo được tính hiệu quả, công tác quản lý đào tạo cần phải thiết lập được hệ thống thông tin đa chiều trong tổ chức. Công tác dự báo là điều kiện rất cần thiết để nhà quản lý giáo dục xác định, điều chỉnh phương hướng, mục tiêu giáo dục. 1.2.2.2.6. Quản lý tài chính - kinh phí : Các hoạt động giáo dục - đào tạo trong nhà trường đều cần phải có kinh phí để phục vụ. Lập kế hoạch và dự trù kinh phí là các công tác phải đi song song với nhau ngày từ đầu nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động của nhà trường. Chi phí dành cho công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật thường lớn hơn rất nhiều so với việc đào tạo các loại hình nghề nghiệp phổ thông, vì công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật không chỉ đơn thuần là đào tạo nhân lực mà còn phải làm nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân mới chỉ xây dựng được cơ chế đào tạo nhân lực, chứ chưa xây dựng được một cơ chế phù hợp cho công tác bồi dưỡng nhân tài. 1.2.2.2.7. Kiểm tra - đánh giá chất lượng đào tạo :
- Kiểm tra - đánh giá là một trong những hoạt động nhận thức của con người nhằm xác định giá trị thật sự của đối tượng được kiểm tra - đánh giá. Do mang tính chất của hoạt động nhận thức, nên hoạt động kiểm tra - đánh giá sẽ xuất phát từ những thông tin cần thiết về đối tượng được đánh giá mà chủ thể đánh giá có thể nhận được. Trong hoạt động quản lý giáo dục - đào tạo văn hóa nghệ thuật, chúng ta thường phải kiểm tra để đánh giá bản chất của không phải chỉ là một người mà là rất nhiều người, nhiều đối tượng khác nhau: học sinh, sinh viên, giáo viên, cán bộ quản lý. Ngoài việc phải đánh giá về con người, hoạt động quản lý giáo dục còn phải đánh giá về rất nhiều vấn đề khác nhau như: phương pháp giáo dục, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá, v.v... Do hoạt động kiểm tra - đánh giá là một hoạt động nhận thức, nên tự thân nó đã mang đậm tính chủ quan. Vì vậy, để khắc phục tính chủ quan, việc kiểm tra - đánh giá trong hoạt động quản lý giáo dục cần phải rất chú trọng đến tính khách quan và tính khoa học, tức là cần phải xây dựng các tiêu chí (mức tối đa có thể đạt được), các tiêu chuẩn (mức tối thiểu cần phải đạt được), các thang giá trị... mang tính khách quan và khoa học để đánh giá trong hoạt động quản lý giáo dục. Ngược lại, việc kiểm tra - đánh giá trong hoạt động quản lý giáo dục buộc phải dựa trên các tiêu chí, tiêu chuẩn đã được xây dựng một cách khoa học và khách quan. Một vấn đề quan trọng khác là hoạt động kiểm tra - đánh giá trong quản lý giáo dục thường không có mục đích tự thân, nó chỉ giữ vai trò công cụ để thực hiện một mục đích nào đó. Vì vậy, trước khi thực hiện hoạt động kiểm tra - đánh giá thì cần phải xác định mục đích và đối tượng của hoạt động kiểm tra - đánh giá. Muốn đánh giá về con người, người ta không thể nào đánh giá trực tiếp mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua biểu hiện của các hành vi. Tuy nhiên, hành vi của con người khá phức tạp, có những hành vi chỉ là phản ứng nhất thời hoặc đóng kịch chứ không phải tất cả các hành vi đều mang tính bản chất. Vì vậy, khi đánh giá con người thì cần phải tìm ra những hành vi mang tính bản chất, đó là những hành vi mang tính ổn định hoặc hành vi thói quen. Các nhà khoa học sau khi nghiên cứu đã đưa ra mô hình kiểm tra - đánh giá là một hệ thống công việc mà đối tượng được kiểm tra - đánh giá cần phải thực hiện theo thứ tự có cấp độ nâng dần từ thấp đến cao, từ dễ dàng đến khó khăn, phức tạp... nhằm xác định khả năng có sẵn, khả năng tiềm ẩn, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo v.v... của đối tượng được đánh giá thông qua khả năng của họ trong thực hiện các yêu cầu như thế nào. Nhờ có mô hình này mà người ta có thể xác định được các chỉ số thông minh (IQ = Intelligent Quotient), hoặc các chỉ số về thái độ v.v... Bên cạnh đó, trong quản lý giáo dục, rất nhiều các nhóm phương pháp khác được ứng dụng để kiểm tra - đánh giá như : vấn đáp, trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách quan, phiếu thăm dò ý kiến, v.v... mà mỗi nhóm phương pháp này lại có nhiều các phương pháp khác nhau với các kỹ thuật thực hiện đa dạng. Trong hoạt động kiểm tra - đánh giá, các nhà khoa học rất chú trọng đến việc
- lượng hóa các tiêu chuẩn, tiêu chí. Nhưng trong quản lý giáo dục, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội và đào tạo nghệ thuật thì có những lĩnh vực quá tinh tế, chỉ có thể kiểm tra - đánh giá mang tính chất định tính chứ không thể định lượng được. Ví dụ: trong công tác đào tạo của ngành âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, v.v... khi đánh giá chất lượng nghệ thuật hoặc kỹ năng, kỹ xảo của sinh viên thì rất khó có thể chi tiết hóa hoặc lượng hóa tất cả các vấn đề có liên quan, bởi vì trong nghệ thuật có rất nhiều vấn đề rất tinh tế chỉ có thể cảm nhận được bằng cảm tính chứ khó có thể lượng hóa được. 1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của công tác quản lý đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật 1.2.3.1. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng: Trước hết là làm cho tư tưởng cơ bản của Chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách... trở thành hệ tư tưởng và quan điểm chủ đạo duy nhất của toàn bộ công tác giáo dục - đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Nguyên tắc này coi việc giáo dục thế giới quan khoa học, nhân sinh quan, đạo đức và quan niệm thẩm mỹ là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ quá trình giáo dục - đào tạo. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, cần chăm lo xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh trong nhà trường để thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, làm tham mưu tốt cho các cấp uỷ Đảng về phát triển và quản lý giáo dục; đồng thời chăm lo xây dựng các tổ chức chính quyền, các đoàn thể vững mạnh. 1.2.3.2. Bảo đảm tính khoa học, tính kế hoạch và tính thực tiễn: Giáo dục là một khoa học. Vì vậy, quản lý giáo dục cần phải bảo đảm tính khoa học, nhà quản lý phải nắm được cơ sở khoa học của công tác quản lý giáo dục. Khoa học giáo dục và quản lý giáo dục phải dựa vào thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau : Điều khiển học, Luật học, Xã hội học, Kinh tế học, Giáo dục học, Tâm lý học v.v... Vì vậy, tính khoa học trong quản lý giáo dục trước hết đòi hỏi quan điểm tổng hợp, quan điểm hệ thống, quan điểm vận động (phát triển). Tính khoa học trong quản lý giáo dục đòi hỏi tính cụ thể và tính thực tiễn. Đối tượng của giáo dục là những nhân cách cụ thể, đa dạng. Do đó, tính cụ thể trong quản lý giáo dục đòi hỏi phải xem xét người, sự vật, quá trình... một cách cụ thể. Tính thực tiễn trong quản lý giáo dục đòi hỏi nhà quản lý giáo dục phải có sự hiểu biết một cách đầy đủ, tường tận tình hình thực tế trong từng thời gian ở các không gian khác nhau. Các quá trình giáo dục thường phải diễn ra trong một thời gian dài và có nhiều lực lượng cùng tham gia một lúc. Vì vậy, công tác quản lý giáo dục luôn đòi hỏi phải có tính kế hoạch cao. Kết hợp các quá trình dài hạn, ngắn hạn, toàn diện và từng mặt là một yêu cầu nghiêm ngặt của công tác quản lý giáo dục. 1.2.3.3. Nguyên tắc "tính pháp chế" : Nguyên tắc này nhằm điều hành và quản lý bằng pháp luật cả về mặt tổ chức lẫn hoạt động quản lý. Nó yêu cầu phải chấp hành nghiêm túc những yêu cầu của pháp luật.
- Quản lý Nhà nước về giáo dục không chỉ đòi hỏi việc thực hiện mọi luật pháp của Nhà nước mà còn phải biết vận dụng kết hợp những quy phạm pháp luật với những yếu tố đặc thù của giáo dục để xây dựng và thực hiện một hệ thống quy phạm giáo dục. 1.2.3.4. Nguyên tắc "tính hiệu quả" : Chất lượng và hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào hiệu quả tổ chức, quản lý giáo dục. Muốn đạt được hiệu quả cao, nhà quản lý giáo dục phải nắm bắt được những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật, vận dụng các phương pháp khoa học, sử dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến vào công tác quản lý. Hiệu quả quản lý giáo dục phải được tính đến trên cơ sở thực hiện các mục tiêu với những phí tổn nhất định về các nguồn lực cho phép (nhân lực, vật lực, tài lực). 1.2.3.5. Nguyên tắc "kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ" Giáo dục được quản lý theo ngành dọc để bảo đảm tính thống nhất, tính khoa học, tính chuyên môn của các hoạt động giáo dục. Mặt khác, đời sống hàng ngày của nhà trường (đặc biệt là các trường văn hóa nghệ thuật) gắn bó với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... của địa phương mà chỉ có chính quyền địa phương và các lực lượng xã hội ở địa phương mới có thể giải quyết một cách thích hợp, kịp thời và có hiệu quả. 1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phát triển văn hóa 1.3.1. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng giao lưu và hội nhập với thế giới của nước ta hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến nền văn hóa Việt Nam, làm cho văn hóa nghệ thuật phát triển nhanh hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn và cũng phức tạp hơn. Bên cạnh những mặt phát triển tích cực, lành mạnh, cũng đã xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật mà nghị quyết hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra, như: Hiện tượng thương mại hóa văn hóa nghệ thuật; Hiện tượng lai căng, chạy theo thị hiếu văn hóa của phương Tây, xa rời những truyền thống văn hóa tốt đẹp của Việt Nam; Những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc (nhất là văn hóa của các dân tộc thiểu số) không được phát huy và phát triển; v.v... 1.3.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về vấn đề phát triển văn hóa (1) 1.3.2.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
- Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện, chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương, v.v... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. 1.3.2.2. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thụ có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ. 1.3.2.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. 1.3.2.4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa 1.3.2.5. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. (1) Trích trong văn kiện hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam - Khóa VIII - NXB Chính trị Quốc
- Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy "xây" làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện "diễn biến hòa bình". 1.4. Nhu cầu đào tạo đội ngũ làm công tác VHNT 1.4.1. Tính khách quan của nhu cầu đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật Từ những quan điểm của Đảng ta về phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, dễ dàng nhận ra tính khách quan của nhu cầu đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật. Thứ nhất, xã hội càng phát triển, nhu cầu về hoạt động và hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhân dân ngày càng cao, phong phú, đa dạng. Vì vậy, cần phải có một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật đông đảo và có chất lượng để đưa văn hóa nghệ thuật đến với quần chúng nhân dân, nhằm đáp ứng nhu cầu ấy. Thứ hai, đất nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công cuộc cách mạng này đang cần đến một đội ngũ lao động "phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức"(1). Cùng với giáo dục, y tế, văn hóa là lĩnh vực trực tiếp góp phần vào việc đào tạo một đội ngũ lao động với những phẩm chất ấy. Thứ ba, trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập với thế giới, văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, nhưng cũng phải trải qua nhiều chặng đường cam go, phức tạp. Trong tiến trình đi lên, để gánh vác được sứ mệnh của mình, ngành văn hóa cần phải có một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật có đầy đủ bản lĩnh, phẩm chất và tài năng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. 1.4.2. Trách nhiệm của các trường văn hóa nghệ thuật Xuất phát từ nhu cầu khách quan của việc đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật, trách nhiệm của ngành văn hóa nói chung, của các trường văn hóa nghệ thuật nói riêng như sau: Phải đào tạo được một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật, đảm bảo đủ cả về số lượng lẫn chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền văn hóa ngày càng cao của xã hội, xây dựng những giá trị văn hóa mới, phát huy và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia - Hà Nội - 1998 - Trang 55 58. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam - Nghị quyết hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành trung ương Đảng, khoá VII - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992.
- dân tộc, góp phần trực tiếp vào việc ngăn chặn những hiện tượng không lành mạnh trong đời sống xã hội. Nhanh chóng phát triển đội ngũ giáo viên có tài năng, có bản lĩnh và phẩm chất chính trị, tư tưởng để đào tạo đội ngũ văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.
- CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.5. Quá trình hình thành và phát triển của trường CĐ VHNT TP.HCM 1.5.1. Ba giai đoạn hình thành và phát triển : 1.5.1.1. Giai đoạn trường nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin thành phố Hồ Chí Minh (1975 - 1981) Ngay sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất (30/4/1975), do yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ và hạt nhân phong trào Cách mạng có khả năng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng cho nhân dân và xây dựng con người mới, nền văn hóa mới, trường Nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh do Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Hồ Chí Minh quản lý, được hình thành và đi vào hoạt động. Trong giai đoạn này, hoạt động chủ yếu của trường là mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày mang tính chất tập huấn nghiệp vụ trên các lĩnh vực chuyên ngành văn hóa thông tin (thư viện, bảo tồn - bảo tàng, quản lý văn hóa quần chúng, v.v...) nhằm từng bước hình thành đội ngũ các loại cán bộ văn hóa thông tin cơ sở, có kiến thức nghề nghiệp và phẩm chất chính trị có thể vừa làm tham mưu, vừa tổ chức hướng dẫn phong trào văn hóa quần chúng và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Để khẳng định vị trí và chức năng của đơn vị, ngày 25/12/1978, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức ra quyết định thành lập trường. Ngay từ giai đoạn mới thành lập, bộn bề khó khăn (đội ngũ giảng viên mỏng, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu; hơn nữa, mới chỉ là một trường nghiệp vụ, v.v...) nhưng nhà trường đã góp phần tích cực vào việc ổn định đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, bước đầu xây dựng một mạng lưới cán bộ văn hóa quần chúng ở cơ sở. 1.5.1.2. Giai đoạn trường Trung Học Văn Hóa Thông Tin thành phố Hồ Chí Minh (1981 - 1996) Trên đà phát triển chung của thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là để phát huy vai trò, nâng cao nhiệm vụ của trường, ngày 14/8/1981, được sự chấp thuận của Bộ Văn hóa và Thông tin và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Uy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định nâng cấp trường Nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin thành phố Hồ Chí Minh lên thành Trường Trung học Văn hóa Thông Tin TP. Hồ Chí Minh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 232 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 129 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 100 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 18 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 15 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 28 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn