Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 4
download
Luận văn "Quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh" được hoàn thành với mục tiêu nhằm phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quá trình bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM hiện nay; Đề xuất biện pháp quản lý quá trình bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THANH TRƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THANH TRƯỜNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS NGUYÔN V¡N PH¸N HÀ NỘI - 2013 LỜI CẢM ƠN
- Tôi xin chân thành cảm ơn Học viện Chính trị, Ban chủ nhiệm cùng toàn thể quý thầy cô Khoa Sư phạm Quân sự trong suốt hai năm học qua, đã hết lòng truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng về chuyên ngành quản lý giáo dục, giúp tôi được trang bị thêm những hành trang vững chắc để sẵn sàng cho quá trình học tập và làm việc sau này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Phán, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ – người đã soi đường, dẫn lối cho tôi trong suốt cuộc hành trình, bắt đầu từ lúc hình thành ý tưởng cho đến công đoạn hoàn thành luận văn. Thầy đã tận tình dạy bảo, hướng dẫn và bổ sung cho tôi những kiến thức xã hội cũng như về lĩnh vực giáo dục, đào tạo và những kỹ năng khoa học cần yếu để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban TĐKT Trung ương, Ban TĐKT thành phố; lãnh đạo và các đồng nghiệp tại cơ quan, các cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn thành phố; các anh, chị học viên cùng lớp và bạn bè gần xa đã tận tình hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thu thập các nguồn tư liệu tham khảo, tiến hành các khảo nghiệm cần thiết và đóng góp ý kiến hữu ích cho công việc nghiên cứu, biên soạn luận văn tốt nghiệp. Lời cuối, xin cho phép tôi được gửi lời tri ân đến gia đình, những người đã luôn ở bên cạnh hỗ trợ cho tôi về mọi mặt./. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013 Nguyễn Thanh Trường
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1. Cán bộ làm công tác Thi đua, Khen CB TĐKT thưởng 2. Kinh tế - xã hội KT-XH 3. Quản lý giáo dục QLGD 4. Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM 5. Thi đua – Khen thưởng TĐ-KT
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 8 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THI 12 ĐUA KHEN THƯỞNG 1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài 12 1.2. Nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm 25 công tác thi đua, khen thưởng 1.3. Yêu cầu quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm công 32 tác thi đua, khen thưởng Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THI ĐUA, 35 KHEN THƯỞNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 2.1. Khái quát bộ máy và đặc điểm cán bộ làm công tác thi 35 đua, khen thưởng tại Tp.Hồ Chí Minh hiện nay 2.2. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm công 42 tác thi đua, khen thưởng tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THI ĐUA, 57 KHEN THƯỞNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY 3.1. Yêu cầu xây dựng biện pháp 57 3.2. Hệ thống biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tại Tp. Hồ Chí 64 Minh hiện nay 3.3. Khảo nghiệm tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp 75 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 PHỤ LỤC 89
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước vừa giành được độc lập lại đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, ngày 26 tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng để khích lệ tinh thần quân dân. Ngày 11 tháng 6 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ra lời kêu gọi và phát động phong trào Thi đua ái quốc, mở đầu cho phong trào hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Qua thực tiễn hoạt động cách mạng và xây dựng đất nước, chúng ta có khẳng định thành quả to lớn trong bảo vệ và xây dựng tổ quốc của cách mạng Việt Nam gắn liền với việc tổ chức thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua ái quốc. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước có nền chính trị ổn định, an ninh quốc phòng vững chắc, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, giao lưu mở rộng hợp tác với bạn bè quốc tế và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng. Song, phong trào thi đua ái quốc và công tác thi đua, khen thưởng trên toàn quốc nói chung và điển hình là tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn hết sức thiết thực và cần thiết. Sau thời kỳ đổi mới, Bộ Chính trị đã có các chỉ thị về công tác thi đua, khen thưởng, nhất là chỉ thị 39-CT/TW ngày 21 tháng 5 năm 2004 về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, thể hiện sự quan tâm sâu sắc và sự thống nhất trong quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác này. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về công tác thi đua, khen thưởng được triển khai và ban hành trên mọi lĩnh vực ngành nghề, từ cấp trung ương cho đến địa phương.
- 4 Tuy nhiên, để vận hành được bộ máy thi đua khen thưởng phải có một lực lượng cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt. Tại Kết luận số 83-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, đã chỉ ra các nhiệm vụ chính yếu đáp ứng cho công tác thi đua, khen thưởng hiện nay đã đề cập đến vấn đề tổ chức, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng: “có kế hoạch tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế”. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Chỉ thị số 06/CT về tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước năm 2012, trong đó có các nội dung đề cập đến tính cấp thiết của công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng: “Nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và công tác tham mưu đề xuất của tổ chức bộ máy và CB TĐKT, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện phong trào thi đua, công tác khen thưởng trong giai đoạn mới”. Những năm qua công tác bồi dưỡng CB TĐKT của TP.HCM, tuy đã được quan tâm thực hiện, song nhìn chung kết quả chưa được như mong muốn và còn nhiều bất cập về khâu quản lý, nhất là khâu xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch, công tác đảm bảo, đội ngũ giáo viên, hình thức và phương pháp bồi dưỡng… Thực tiễn đó đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi đua khen thưởng của Thành phố, điều đó đã thúc đẩy chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT Thành phố Hồ Chí Minh ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp, đây là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa, giá trị thực tiễn và chưa có công trình nào nghiên cứu.
- 5 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trên thế giới: Vấn đề cán bộ và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng Cộng sản đã được V.I.Lênin khái quát: “Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng lãnh đạo và tổ chức phong trào”. Trong cách mạng vô sản, khi giành được chính quyền Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cán bộ của Đảng càng có vai trò quan trọng. Từ thực tiễn xây dựng cán bộ của Đảng trong những năm đầu chính quyền Xô viết non trẻ, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là vấn đề then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”. Trong lao động sản xuất, con người không thể không có tính liên kết, hợp tác cùng nhau thực hiện một mục tiêu cùng hướng giữa các cá nhân trong cùng một tập thể, giữa các tập thể với nhau; trong mối quan hệ hợp tác đó, là điều kiện tất yếu để hình thành tính thi đua trong từng mỗi cá nhân và tập thể. Vì vậy thi đua là một hiện tượng thực tế xã hội khách quan, tính thi đua tồn tại trong mỗi cá nhân con người. V.I.Lê-nin đã chỉ ra rằng thi đua có tính tự phát trong quá trình hiệp tác lao động có “sự tiếp xúc xã hội” của con người sẽ thay đổi về chất trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Thi đua và cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, song, thi đua hơn hẳn cạnh tranh ở tính nhân đạo vì sự phát triển toàn diện của xã hội và con người. Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết là phải tổ chức các phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa để phát huy tính tháo vát, tinh thần thi đua, óc sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân trên quy mô thật sự to lớn. Phải đưa những cán bộ ưu tú vào tổ chức, lãnh đạo phong trào thi đua.
- 6 Trong quá trình tổ chức, phát động phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết sẽ phát hiện ra những nhân tài thực sự để đề bạt vào những chức vụ cao trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Do đó, có thể thấy, công tác cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cho phong trào thi đua là một trong những yếu tố tiên quyết để hình thành và phát động phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ. Việc tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa có xét đến đặc điểm các loại lao động, lợi ích, nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích nghề nghiệp của người lao động. Trong thế giới hiện đại, thi đua xã hội chủ nghĩa không tách rời cách mạng khoa học - công nghệ mà bao trùm tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Vì thế, thành phần xã hội của những người tham gia thi đua cũng trở nên đa dạng. Mô hình của Liên Xô trước đây được xem là một thí dụ điển hình trong việc tổ chức các phong trào thi đua khen thưởng. Thi đua xã hội chủ nghĩa đã thực sự là một động lực thúc đẩy Liên Xô phát triển thành một siêu cường trên thế giới. Đến khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở đó bị lâm vào khủng hoảng, thì cũng là lúc, thi đua xã hội chủ nghĩa bị xem thường và trở nên hình thức, sinh ra nhiều tiêu cực. Đây được xem như một bài học đối với việc tổ chức phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng ở nước ta hiện nay. Ở Việt Nam: Thấm nhuần tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin về cán bộ và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của người cán bộ cách mạng; ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng xây dựng cán bộ của Đảng. Với tư tưởng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người đã trực tiếp mở trường đào tạo cán bộ và trực tiếp giảng dạy, huấn luyện cán bộ, đào tạo cán bộ cách mạng tiền bối của Đảng ta. Thực tiễn Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chứng minh, thắng lợi là do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đào tạo, bồi dưỡng được cán bộ,
- 7 đảng viên có đủ năng lực tổ chức, lãnh đạo nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi đất nước rơi vào tình thế vô cùng khó khăn, “ngàn cân treo sợi tóc” bởi nạn thù trong, giặc ngoài: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Hồ Chí Minh xác định: để giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, khâu then chốt là xây dựng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy, ngay sau khi chính quyền mới được thành lập, Người đã quan tâm đến việc chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn cán bộ. Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh chỉ rõ: với tư cách là người lãnh đạo, cán bộ chính là những “mưu sĩ” của Đảng, người “đầy tớ” của nhân dân, chứ không phải là làm “quan cách mạng”. Người viết: “Cán bộ là những người đem chủ trương, chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người khởi xướng và phát triển phong trào thi đua ái quốc, vận dụng nghệ thuật khen thưởng, tuyên dương, bồi dưỡng và nhân rộng gương điển hình tiên tiến nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích và đoàn kết mọi cá nhân, tập thể trong xã hội để phát huy truyền thống yêu nước, xây dựng con người mới, năng động, sáng tạo vươn lên, khắc phục khó khắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm về phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa của V.I Lê-nin để hình thành và tổ chức phong trào thi đua tại Việt Nam với tên gọi là thi đua ái quốc. Một trong những vấn đề cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và chỉ đạo là công tác chuẩn bị cho phong trào thi đua ái quốc: “Về phong trào thi đua ái quốc, tôi đồng ý với cụ là cần phải có cán bộ được huấn
- 8 luyện hẳn hoi”, đây là thư gửi cụ Tôn Đức Thắng, Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc, bức thư được viết vào tháng 11 năm 1948, sau 05 tháng Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc. Điều đó cho thấy vấn đề cán bộ thi đua nói chung và bồi dưỡng cán bộ thi đua nói riêng là một trong những yêu cầu tiên quyết để hình thành, phát động và đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc và công tác khen thưởng. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất, năng lực cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng nói riêng từ trước đến nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đây cũng là lĩnh vực được chọn làm đề tài nghiên cứu của các chuyên ngành về quản lý giáo dục, công tác cán bộ và công tác quản lý hành chính. Có thể đưa ra một số công trình, đề tài và bài viết tiêu biểu của các tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn này. - Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã trong tiến trình cải cách hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. - Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. - Lê Chi Mai: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp (Tạp chí Cộng sản số 20/2002). - Bùi Thiện Tích: Đảm bảo nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị ở TP.HCM đến năm 2005, TP.HCM, 2002. - Lê Thị Vân Hạnh: Đào tạo, bồi dưỡng công chức để nâng cao năng lực thực thi (Tạp chí quản lý nhà nước số 103/2004). - Đề tài độc lập cấp Nhà nước: "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay" của Trần Thị Hà, Ban TĐKT Trung ương, Bộ Nội vụ, năm 2013.
- 9 Những tài liệu trên của các tác giả đã khái quát các kiến thức về công tác tổ chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và kiến thức về quản lý giáo dục, là một trong những nền tảng, cơ sở lý luận để chúng tôi kế thừa, làm điểm tựa lý luận trong nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM. Trong ngành thi đua, khen thưởng Các công trình và các bài viết trên đã đề cập ít nhiều đến việc bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào đề cập - nghiên cứu cụ thể đến vấn đề bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT. - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quá trình bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM hiện nay. - Đề xuất biện pháp quản lý quá trình bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu Hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM. Đối tượng nghiên cứu Quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT tại TP.HCM trong khoảng thời gian 05 năm, từ năm 2008 đến năm 2012.
- 10 5. Giải thuyết khoa học Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong các cơ quan công quyền nói chung, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Song, nếu các chủ thể quản lý hoạt động bồi dưỡng nâng cao nhận thức, trách nhiệm; các văn bản, quy chế, quy định thường xuyên được xây dựng và hoàn thiện; hoạt động quản lý được kế hoạch hóa một cách khoa học, các nội dung và phương pháp quản lý luôn được thực hiện và đổi mới, phát huy tinh thần tự bồi dưỡng của cán bộ thi đua, khen thưởng …thì hoạt động bồi dưỡng cán bộ thi đua, khen thưởng ngày càng hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng công tác khen thưởng và phong trào thi đua ái quốc tại TP.HCM hiện nay. 6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, quản lý giáo dục và phong trào thi đua yêu nước. Đồng thời vận dụng các quan điểm hệ thống, cấu trúc, lôgíc, lịch sử và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích những vấn đề liên quan. Phương pháp nghiên cứu Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Để hoàn thành đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá các tài liệu lý luận liên quan đến đề tài như: một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn bản pháp luật của Nhà nước, quy chế, quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Ban TĐKT Trung ương và quản lý bồi dưỡng cán bộ, công chức; Luật Giáo dục; Luật Công chức; Luật TĐKT và các giáo trình, sách tham khảo, tài liệu về khoa học quản lý và quản lý giáo dục; các công trình nghiên cứu, báo khoa học có liên quan đến đề tài đã được công bố.
- 11 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp điều tra: Khảo sát bằng phiếu điều tra về những nội dung liên quan đến đề tài đối với 150 CB TĐKT; đồng thời xin ý kiến 20 cán bộ chủ chốt đang làm công tác quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động bồi dưỡng các bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tại TP.HCM, theo dõi thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng cán bộ thông qua dự giờ các buổi tập huấn, tìm hiểu cơ quan quản lý điều hành hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT; tham quan, tìm hiểu chất lượng cán bộ ở các đơn vị tỉnh thành bạn. Phương pháp tọa đàm, trao đổi: Trực tiếp trao đổi với một số CB TĐKT ở các cấp và các cán bộ công tác tại cơ quan quản lý công tác thi đua, khen thưởng cấp tỉnh, thành và trung ương (Ban TĐKT), để thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia có trình độ cao và có kinh nghiệm về quản lý hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT để xác định tính cần thiết, tính khả thi của biện pháp đề xuất. Phương pháp hỗ trợ Sử dụng phương pháp toán thống kê để phân tích, xử lý các thông tin, số liệu thu được từ các phương pháp cụ thể. 7. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thi đua, khen thưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; đồng thời đề xuất các biện pháp cơ bản có tính khả thi nhằm bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và nhân rộng ra trên cả nước nói chung. 8. Cấu trúc đề tài Đề tài gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 12 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ LÀM CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng Cán bộ Cán bộ, công chức, viên chức là những thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ, công chức, thường xuyên xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong khoa học hành chính, theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra các cách giải thích khác nhau về các thuật ngữ "cán bộ", "công chức" và "viên chức". Thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa và bao hàm trong phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu vực nhà nước và tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, để xác định cụ thể những tiêu chí nào là cán bộ thì từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định chính thức. Thuật ngữ "công chức", "viên chức" thường được hiểu một cách khái quát là những người được Nhà nước tuyển dụng, nhận một công vụ hoặc một nhiệm vụ nhất định, do Nhà nước trả lương và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, phục vụ Nhà nước theo các quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật Cán bộ, công chức được ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt động quản lý, chúng ta chưa xác định được rõ ràng cán bộ; công chức; viên chức. Trong hệ thống pháp luật của nước ta, kể từ Hiến pháp 1992 (đã sửa đổi, bổ sung) cho đến các luật khác (ví dụ như Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Luật Bình đẳng giới; Luật Giáo dục;.....) đều có những điều, khoản sử dụng các thuật ngữ"cán bộ", "công chức", "viên chức", nhưng chưa có một văn bản luật nào giải thích các
- 13 thuật ngữ này. Trong điều kiện thể chế chính trị của Việt Nam, có một điểm đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức luôn có sự liên thông với nhau. Theo yêu cầu nhiệm vụ, cơ quan có thẩm quyền có thể điều động, luân chuyển họ giữa các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Với điểm đặc thù này, việc nghiên cứu để xác định rõ cán bộ; công chức; viên chức một cách triệt để rất khó và phức tạp. Trong đời sống xã hội, từ lâu thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng rộng rãi nhưng không theo một quy định nào. "Cán bộ" không chỉ để gọi những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội mà còn được sử dụng cả trong các hoạt động sự nghiệp như "cán bộ y tế", "cán bộ coi thi", "cán bộ dân phố"... Tương tự, cụm từ "công chức" và "viên chức" cũng vậy. Có khi người ta sử dụng luôn cả cụm từ "cán bộ, công chức, viên chức" để chỉ chung những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng CB TĐKT có thể được hiểu là những người làm việc trong các cơ quản của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và các đơn vị sự nghiệp được phân công nhiệm vụ về công tác thi đua, khen thưởng. Xét về mặt tổ chức, biên chế, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng hiện nay bao gồm cán bộ chuyên trách, cán bộ bán chuyên trách và cán bộ kiêm nhiệm. CB TĐKT là người được Đảng và Nhà nước phân công thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến những chức năng quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng theo quy định pháp luật. Tại Kết luận số 83-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, đã ra một số nhiệm vụ chính yếu đáp ứng cho công tác thi đua, khen thưởng hiện nay đã đề cập đến vấn đề tổ chức, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng: “có kế hoạch tăng cường
- 14 bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế”. Tiêu chuẩn cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng Căn cứ vào tiêu chuẩn chung cho cán bộ mà Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII đó xác định và những bổ sung của Nghị quyết Trung ương 9, khóa X, là: “ Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao”. Ngoài những yêu cầu trên, cần bổ sung tiêu chuẩn về (trình độ ngoại ngữ, luật pháp, tin học; khả năng tiếp cận, nắm bắt và xử lý những vấn đề mới; về khả năng đoàn kết, quy tụ, hội nhập; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm). Căn cứ vào từng chức danh, từng nhiệm vụ chung, cụ thể, đặc thù của Ngành thi đua, khen thưởng mà xây dựng tiêu chuẩn cụ thể. Ngoài yêu cầu chung, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý hay cán bộ, công chức chuyên trách của từng cấp làm công tác thi đua khen thưởng cũng cần phải có những yêu cầu riêng về từng mặt kỹ năng. Ví dụ: Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Trung ương, các bộ, ban, ngành, thì chú trọng khả năng tư duy chiến lược, kỹ năng hoạch định (tầm nhìn); còn CB TĐKT cấp quận, huyện hay xã, phường, thị trấn và cơ sở lại chú trọng vào kỹ năng thực tiễn như tổ chức thực hiện, tuyên truyền, vận động, thuyết phục, soạn thảo văn bản vận dụng cụ thể hóa hoặc áp dụng cơ chế chính sách… Hiện nay, thực hiện cuộc Vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Ban TĐKT Trung ương đang có kế hoạch và dự định xây dựng chuẩn mực đạo đức cán bộ ngành thi đua, khen thưởng là “tận tụy, sáng tạo và gương mẫu”.
- 15 Ngoài ra, theo yêu cầu công việc, người CB TĐKT còn phải có trình độ chính trị, chuyên môn, năng lực tham mưu, chỉ đạo và khả năng tiếp thu, tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về phong trào thi đua và công tác khen thưởng. Có kiến thức trên nhiều lĩnh vực, kỹ năng tổ chức phong trào thi đua và nghiệp vụ công tác khen thưởng, có trình độ ngoại ngữ, tin học phù hợp với lĩnh vực công tác. 1.1.2. Bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng Bồi dưỡng Theo Nguyễn Như Ý (chủ biên) Đại từ điển tiếng Việt - NXB Văn hóa - Thông tin năm 1999: Bồi dưỡng: 1. Làm khoẻ thêm, mạnh thêm, bồi dưỡng sức khoẻ. 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn, bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ. Theo các khái niệm về bồi dưỡng được quy định trong các văn bản của Chính phủ, cụm từ “Bồi dưỡng cán bộ” có nghĩa là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc; “Bồi dưỡng theo vị trí việc làm” là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao. Bồi dưỡng là quá trình hoạt động làm tăng thêm kiến thức mới cho những người đang giữ chức vụ, đang thực thi công việc của một ngạch, bậc nhất định để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao. Khối lượng kiến thức, kỹ năng được quy định tại các chương trình, tài liệu phải phù hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức. Kết quả của các khoá bồi dưỡng, người học sẽ nhận được chứng chỉ ghi nhận kết quả như: bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên hoặc bồi dưỡng chuyên đề, công tác chuyên môn, tập huấn nghiệp vụ. Như vậy, có thể khái quát khái niệm bồi dưỡng cán bộ, công chức là quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ dưới các hình thức khác nhau cho cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu giải quyết có chất lượng công việc được Nhà nước giao, do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức thực hiện.
- 16 Bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng Bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng, đó chính là truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm về công tác quản lý, triển khai tổ chức các phong trào thi đua và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện, áp dụng chính xác các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về công tác khen thưởng. Phương thức bồi dưỡng Từ năm 2012, Ban TĐKT Trung ương đã có quyết định thành lập Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thi đua, khen thưởng với chức năng và nhiệm vụ chính là đào tạo, bồi dưỡng tập huấn cho CB TĐKT trên cả nước, ngoài ra không có cơ sở đào tạo, trường học nào dạy chuyên ngành về công tác thi đua, khen thưởng. Đồng thời, do đặc thù của công tác thi đua, khen thưởng, cán bộ phải kiêm nhiệm công tác khác hoặc do số lượng cán bộ chuyên trách ít nên phương thức đào tạo cần phải đa dạng, phù hợp với điều kiện của từng đối tượng. Bồi dưỡng, tập huấn từng chuyên đề: dành cho những nội dung mang tính chuyên sâu, cần tập trung tổ chức triển khai những chỉ thị và quy định mới. Ví dụ: Phong trào cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới, triển khai Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 27/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ, bổ sung và quy định một số nội dung về công tác thi đua, khen thưởng, công tác khen thưởng thành tích kháng chiến… Phương thức bồi dưỡng này có thể áp dụng cho rộng rãi CB TĐKT ở cơ sở khi cần thiết. Bồi dưỡng, tập huấn định kỳ: thường được tổ chức hằng năm để triển khai chương trình công tác năm của Hội đồng TĐKT các cấp và cụm khối thi đua thuộc thành phố, nhằm thông tin những quan điểm chỉ đạo mới và hướng dẫn những nội dung hoạt động trọng tâm. Bồi dưỡng, tập huấn theo yêu cầu của cơ sở: thường được tổ chức hằng năm theo yêu cầu, đề nghị của từng đơn vị cơ sở, nhằm giúp các đơn vị nhằm
- 17 hướng dẫn chung cho các cán bộ phụ trách công tác thi đua, khen thưởng và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động tại cơ sở được biết. Đối tượng được bồi dưỡng Tất cả CB TĐKT, cán bộ là lãnh đạo Hội đồng TĐKT từ cấp phường, xã, thị trấn trở lên. CB TĐKT cấp thành phố, cấp quận, huyện, sở, ban, ngành, đoàn thể thành phố, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố và cấp tương đương là đối tượng trực tiếp để nhận các nội dung học tập bồi dưỡng. Giảng viên (báo cáo viên) các lớp bồi dưỡng Giảng viên (báo cáo viên) tham gia giảng dạy ở các lớp bồi dưỡng CB TĐKT là những người phối hợp với người học trong việc thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy để truyền đạt kiến thức, hướng dẫn người học rèn luyện kỹ năng để thực hiện mục tiêu bồi dưỡng. Nếu giảng viên (báo cáo viên) có trình độ tri thức cao, kết hợp với nội dung chương trình, giáo trình và tài liệu bồi dưỡng phù hợp, với phương pháp bồi dưỡng tiên tiến thì chất lượng và hiệu quả bồi dưỡng ngày càng được nâng cao. Lực lượng tham gia bồi dưỡng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng Việc bồi dưỡng CB TĐKT không phải là nhiệm vụ đơn lẻ của bất kỳ một bộ phận nào mà đó là sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa tất cả các đơn vị, cá nhân trong cơ quan, đoàn thể, từ thủ trưởng cơ quan đến các bộ phận tham mưu theo chức năng được phân công. Các lực lượng tham gia vào hoạt động bồi dưỡng CB TĐKT bao gồm: Các cơ quan thuộc Ban TĐKT Trung ương chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với các cơ sở giáo dục đào tạo trực thuộc Trung ương. Các đơn vị chức năng được Ban TĐKT Trung ương phân công lập kế hoạch và triển khai thực hiện hoạt động bồi dưỡng. Toàn thể đội ngũ tham gia công tác phong trào, cả CB TĐKT và kiêm nghiệm.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non - hệ Cao đẳng, Trường Đại học Đồng Nai
126 p | 300 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý văn bản điện tử tại Ủy ban Nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
88 p | 227 | 44
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Phát triền nguồn nhân lực hành chính cấp xã trên địa bàn huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
113 p | 97 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Chất lượng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình
118 p | 120 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
104 p | 149 | 22
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa
26 p | 127 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Bồi dưỡng công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
116 p | 97 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
102 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
21 p | 113 | 14
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, Nghệ An
26 p | 130 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động của thư viện tỉnh Bạc Liêu
114 p | 17 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa
100 p | 14 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Hoạt động bồi dưỡng cán bộ quản lý xăng dầu của Cục Trang bị và Kho vận, Bộ Công an
85 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
126 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn phường Trường Sơn, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
127 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý hoạt động Trung tâm Văn hóa - Thể thao huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
119 p | 15 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Thực thi chính sách văn hóa trong quản lý di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ
195 p | 8 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa: Quản lý nhà nước về công tác gia đình trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
145 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn