intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:129

224
lượt xem
56
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; nguyên nhân của thực trạng này, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Bùi Thị Bích ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ LỐI SỐNG SINH VIÊN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Huỳnh Văn Sơn Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ĐHSP : Đại học Sư phạm ĐHSPKT : Đại học Sư phạm Kỹ thuật ĐHBK : Đại học Bách Khoa SD : Độ lệch tiêu chuẩn STT : Số thứ tự TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh TB : Trung bình
  3. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1.1: Khách thể nghiên cứu phân bố theo giới tính, 4 trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình Bảng 3.1: Sự lựa chọn các kiểu lối sống của sinh viên 52 Bảng 3.2: Những lối sống được giới trẻ ưu tiên hiện nay 55 Bảng 3.3: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 56 của các giá trị nhân văn Bảng 3.4: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 58 của các giá trị đạo đức Bảng 3.5: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 60 của các giá trị chính trị - pháp luật Bảng 3.6: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 62 của các giá trị kinh tế Bảng 3.7: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa nam và nữ 64 Bảng 3.8: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các trường 64 Bảng 3.9: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa sinh viên 65 năm I và năm IV Bảng 3.10: Kết quả so sánh điểm trung bình 66 giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh Bảng 3.11: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các điều kiện 66 kinh tế gia đình Bảng 3.12: Thái độ tích cực của sinh viên đối với các nhóm 67 giá trị lối sống Bảng 3.13: Sự khác biệt thái độ giữa nam và nữ 69 Bảng 3.14: Sự khác biệt thái độ giữa các trường 70 Bảng 3.15: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên năm I và năm IV 71 Bảng 3.16: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh 71 Bảng 3.17: Sự khác biệt thái độ giữa các sinh viên có 72 điều kiện kinh tế khác nhau
  4. Bảng 3.18: Mức độ thực hiện các hành vi tích cực của sinh viên 73 Bảng 3.19: Mức độ tồn tại các các hiện tượng tiêu cực trong 75 lối sống sinh viên Bảng 3.20: Những biểu hiện của lối sống sinh viên hiện nay 81 Bảng 3.21: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến định hướng 95 giá trị lối sống sinh viên Bảng 3.22: Sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ ảnh hưởng 100 của các yếu tố Bảng 3.23: Sự khác biệt giữa các trường về mức độ ảnh hưởng 102 của các yếu tố Bảng 3.24: Sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm IV về 103 mức độ ảnh hưởng của các yếu tố Bảng 3.25: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh 104 về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố Bảng 3.26: Sự khác biệt giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế 104 gia đình khác nhau về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
  5. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Động cơ học tập của sinh viên 83 Biểu đồ 3.2: Sự khác biệt về hành động trên lớp học giữa sinh viên 85 năm I và năm IV Biểu đồ 3.3: Sự khác biệt về hành động trong phòng thi 87 giữa các trường Biểu đồ 3.4: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và tỉnh 88 khi gặp người bị hoạn nạn Biểu đồ 3.5: Sự khác biệt giữa nam và nữ khi có người rủ xem phim cấm 91 Biểu đồ 3.6: Sự khác biệt trong cách lựa chọn cuộc sống vật chất 93 giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế khác nhau
  6. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Khi xem xét và đánh giá về con người nói chung hay về nhân cách nói riêng, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề định hướng giá trị. Chính sự định hướng giá trị sẽ phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá. Định hướng giá trị chỉ đạo toàn bộ hoạt động của con người, bởi vì con người thường hướng vào một loạt giá trị để xác định lối sống cho riêng mình. Biết được định hướng giá trị của con người là biết được thái độ, hành vi của họ và sẽ dễ dàng hơn trong giao tiếp cũng như trong quá trình tổ chức và điều khiển hoạt động. Giá trị và định hướng giá trị luôn là lĩnh vực được ưu tiên khi bàn về nhân cách sống của mỗi con người. Từ đại hội lần thứ VIII, Đảng đã đề xuất “xây dựng con người Việt nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống” và “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc và yêu cầu của thời đại” [14, tr.110 -113]. Bên cạnh đó, trên báo chí, tại các cuộc hội thảo quốc tế, chúng ta luôn bắt gặp những nội dung phát biểu được đề cập: “giáo dục giá trị, xu thế ưu tiên cho thế kỷ XXI”, “sự biến đổi”, “sự khủng hoảng giá trị”, “sự quay về với những giá trị truyền thống” [63, tr.21]. Có thể nói việc tìm hiểu giá trị và định hướng giá trị đang là vấn đề có tính toàn cầu, là nhu cầu cấp bách của mỗi quốc gia, nhất ở các nước đang phát triển. Tại Việt nam, vấn đề giá trị và định hướng giá trị thời gian gần đây được quan tâm rất nhiều trên mọi bình diện. Nước ta thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực để cùng hoà nhập với thế giới hiện đại, một thế giới trong đó nhân loại đang bước sang nền kinh tế tri thức, quy mô phát triển kinh tế xã hội ngày càng rộng lớn, tính chất ngày càng đa dạng, phức tạp và tốc độ phát triển ngày càng nhanh. Có biết bao cái mới, cái hay và cái đẹp được con người đón nhận, tìm kiếm, nhưng dường như con người cũng phải gánh chịu những mặt tiêu cực của sự phát triển - sự lấn lướt của tư duy lý trí, của nền văn minh phương Tây, đe dọa sự phát triển cân bằng của con người. Khoa học kỹ thuật phát triển làm cho con người thông minh hơn nhưng cũng dễ trở nên khô khan vô cảm, ích kỷ và thiếu lòng khoan dung. Trong một xu thế chung như vậy, việc lựa chọn lối sống và định hướng giá trị lối sống sao cho vừa thiết thực, vừa phù hợp với thời đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc không phải là đơn giản đối với mọi người, đặc biệt với tầng lớp thanh niên - sinh viên, những người được coi là năng động và luôn bắt nhịp với cái mới nhanh nhất, nhạy cảm với cái đẹp sớm nhất.
  7. Hiện nay, hơn 1.319.754 sinh viên Việt nam đang theo học tại các trường Đại học và Cao đẳng trên cả nước, họ là lớp người ưu tú chuẩn bị trở thành lực lượng lao động có trình độ cao được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt nhiều hy vọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Do đó mà việc giáo dục giúp sinh viên định hướng các giá trị trong cuộc sống một cách hài hoà, phù hợp để có lối sống lành mạnh và cao đẹp là việc làm cấp thiết của các cấp các ngành có liên quan. Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước đang có hơn 334.797 sinh viên theo học, họ được thụ hưởng sự phát triển năng động và các phong trào đổi mới của thành phố nhưng cũng đang bị thử thách không ít về đạo đức, lối sống. Những năm gần đây, một số vấn đề trong lối sống của sinh viên tại TP.HCM được báo chí đề cập nhiều và dư luận xã hội rất quan tâm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên, việc nghiên cứu lối sống còn mang tính khái quát, vì vậy phải tìm ra được đâu là động cơ thúc đẩy, điều chỉnh thái độ và hành vi của sinh viên trong cuộc sống? Dưới góc độ Tâm lý học, đó là định hướng giá trị lối sống. Quán triệt đường lối phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo của Đảng –“phải đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh. Phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, đạo đức, lối sống - một lĩnh vực then chốt trong đời sống văn hóa dân tộc” [15,tr.24], chúng tôi thực sự quan tâm đến những thay đổi trong lối sống của sinh viên ở vào thời điểm hiện nay tại địa bàn TP.HCM, đặc biệt về mặt định hướng giá trị lối sống. Vì vậy, chúng tôi quyết định tìm hiểu “Thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại học tại TP.HCM”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở một số trường đại học tại TP.HCM hiện nay; nguyên nhân của thực trạng này, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên. 3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Để đạt được mục đích nêu trên, người nghiên cứu đề ra những nhiệm vụ phải thực hiện như sau: 3.1. Khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: giá trị, định hướng giá trị, lối sống, lối sống sinh viên, định hướng giá trị lối sống, định hướng giá trị lối sống sinh viên.
  8. 3.2. Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại học tại TP.HCM. So sánh thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên theo: giới tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình. 3.3. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên. 3.4. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên trên cơ sở đó có những biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên 4.2. Khách thể nghiên cứu  Sinh viên thuộc năm thứ I và năm IV tại 3 trường đại học trên địa bàn TP.HCM, năm học 2006-2007: - Trường Đại học Sư Phạm (ĐHSP) TP.HCM - Trường Đại học Sư Phạm Kỹ thuật (ĐHSPKT) TP.HCM - Trường Đại học Bách Khoa (ĐHBK) TP.HCM Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ 3 trường và phát phiếu tập trung có hướng dẫn. Tổng số phiếu thu về là 611 phiếu, trong đó có 12 phiếu phải loại bỏ vì không đạt yêu cầu. Như vậy, tổng số phiếu đưa vào xử lý là 599 phịếu và được phân bố như sau: Bảng 1.1: Khách thể nghiên cứu phân bố theo giới tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình Điều kiện kinh tế Giới tính Trường học Năm học Khu vực gia đình SP TP Khó Trung Khá Nam Nữ SP BK I IV Tỉnh KT HCM khăn bình 367 232 202 200 197 302 297 112 487 91 439 69 599 599 599 599 599 Phương thức xác định các nhóm sinh viên khi so sánh: - Các nhóm sinh viên theo trường, phái tính, năm học lấy số liệu toàn thể 599 người. - Các nhóm sinh viên theo khu vực : 100% sinh viên TPHCM, chọn ngẫu nhiên 25% sinh viên Tỉnh để ghép chung.
  9. - Các nhóm sinh viên theo điều kiện kinh tế gia đình: 100% sinh viên thuộc nhóm có điều kiện kinh tế khó khăn và nhóm có điều kiện kinh tế khá. Chọn ngẫu nhiên 20% sinh viên trong nhóm có điều kiện kinh tế trung bình để ghép chung.  Một số giáo viên tại các trường đại học có sinh viên được nghiên cứu và được xem là khách thể nghiên cứu hỗ trợ. 5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Đa số sinh viên tại TP.HCM đều định hướng giá trị lối sống đúng đắn. Các sinh viên biết chọn lọc một cách hài hòa giữa các giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị chính trị - pháp luật và giá trị kinh tế. Có sự khác biệt định hướng giá trị lối sống của sinh viên theo: giới tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên, phần lớn do sự tác động của các yếu tố bên ngoài xã hội. 6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI Lối sống là một phạm trù rất rộng, biểu hiện đa dạng trong mọi hoạt động của con người. Trong điều kiện cho phép, người nghiên cứu tập trung tìm hiểu mặt định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở một số trường sau: - Trường ĐHSP TP.HCM - Trường ĐHSPKT TP.HCM - Trường ĐHBK TP.HCM Nghiên cứu định hướng giá trị lối sống trong đề tài này tập trung nghiên cứu nhận thức, thái độ và những biểu hiện xu hướng hành vi đối với các giá trị lối sống của sinh viên. Từ đó biết được phần nào nhân cách sống của sinh viên tại TP.HCM trong giai đoạn hiện nay. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để giải quyết nhiệm vụ đã nêu, đề tài được sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Thu thập tư liệu và các công trình nghiên cứu, đọc và phân tích theo từng bộ phận, từng mặt, theo lịch sử thời gian để hiểu một cách đầy đủ và toàn diện. Từ đó liên kết các thông tin từ nguồn tư liệu đã đọc và phân tích để xây dựng hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc phù hợp với đề tài nghiên cứu. 7.2. Phương pháp thực tiễn
  10. 7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng câu hỏi Đây là phương pháp chính khảo sát thực trạng định hướng giá trị lối sống và những yếu tố ảnh hưởng cũng như nguyên nhân của thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên tại TP.HCM. Bảng câu hỏi chính là công cụ nghiên cứu của đề tài. Việc xây dựng bảng câu hỏi tiến hành theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Dựa vào cơ sở lý luận về định hướng giá trị lối sống sinh viên, người nghiên cứu soạn 2 phiếu thăm dò mở: - Phiếu thứ nhất: Lấy ý kiến của các thầy cô đang trực tiếp giảng dạy tại các trường đại học tại TP.HCM. - Phiếu thứ hai: Lấy ý kiến của sinh viên tại 3 trường đại học: ĐHSP TP.HCM, ĐHSPKT TP.HCM, ĐHBK TP.HCM, năm học 2006 – 2007. Giai đoạn 2: từ kết quả của hai phiếu thăm dò mở, kết hợp với cơ sở lý luận, người nghiên cứu xây dựng phiếu điều tra chính thức gồm 10 câu hỏi, trong mỗi câu hỏi bao gồm nhiều ý (câu hỏi nhỏ). Cấu trúc của phiếu điều tra gồm có 5 phần Phần I: Khảo sát sự lựa chọn lối sống của sinh viên gồm có: Câu 1: Khảo sát sự lựa chọn kiểu lối sống của sinh viên: gồm 15 kiểu lối sống cả tích cực lẫn tiêu cực. Mỗi kiểu lối sống được đánh giá theo 5 mức độ: rất phù hợp (4 điểm), phù hợp (3 điểm), ít phù hợp (2 điểm), không phù hợp (1 điểm) và hoàn toàn không phù hợp (0 điểm). Người được hỏi sẽ chọn 1 trong 5 mức phù hợp với họ nhất. Câu 2: Khảo sát các kiểu lối sống được giới trẻ quan tâm nhất theo cách xếp hạng của sinh viên. Phần II: Khảo sát định hướng giá trị lối sống sinh viên: Câu 3: Khảo sát nhận thức của sinh viên về mức độ quan trọng của 4 nhóm giá trị lối sống. Gồm 40 giá trị chia đều cho 4 nhóm: - Nhóm giá trị nhân văn: từ 1 đến 10 - Nhóm giá trị đạo đức: từ 11 đến 20 - Nhóm giá trị chính trị - pháp luật : từ 21 đến 30 - Nhóm giá trị kinh tế: từ 31 đến 40 Mỗi giá trị được đánh giá theo 5 mức: Rất quan trọng (4 điểm), quan trọng (3 điểm), bình thường (2 điểm), không quan trọng(1 điểm) và hoàn toàn không quan trọng (0 điểm).
  11. Câu 4: Khảo sát thái độ của sinh viên về các nhóm giá trị lối sống, gồm 20 nhận định chia đều cho 4 nhóm giá trị: - Nhóm giá trị nhân văn: từ 1 đến 5 - Nhóm giá trị đạo đức: từ 6 đến 10 - Nhóm giá trị chính trị - pháp luật: từ 11 đến 15 - Nhóm giá trị kinh tế: từ 16 đến 20 Thang thái độ được soạn gồm các nhận định tích cực có xen kẽ các nhận định tiêu cực. Người trả lời chọn 1 trong 5 mức độ: rất đồng ý (4 điểm), đồng ý (3 điểm), phân vân (2 điểm), không đồng ý (1 điểm) và hoàn toàn không đồng ý (0 điểm).Với các câu tiêu cực (*), các điểm số được quy đổi ngược lại. Câu 5: Khảo sát biểu hiện lối sống sinh viên về các hành vi tích cực, gồm 10 ý, người trả lời sẽ chọn 1 trong 5 mức độ thực hiện các hành vi ấy: rất thường xuyên (4 điểm), thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), không thường xuyên (1 điểm) và hoàn toàn không thường xuyên (0 điểm). Câu 6: Khảo sát những hành vi tiêu cực còn tồn tại trong lối sống sinh viên, gồm 18 ý được đánh giá theo 5 mức độ tương tự như các hành vi tích cực: rất thường xuyên (4 điểm), thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), không thường xuyên (1 điểm) và hoàn toàn không thường xuyên (0 điểm). Câu 7: Khảo sát xu hướng lựa chọn lối sống trong sinh viên, gồm 10 câu hỏi nhỏ đo những biểu hiện của lối sống được chia thành 3 nhóm - Về học tập và nghiên cứu khoa học: từ câu 1 đến câu 4 - Về quan hệ giao tiếp - ứng xử: từ câu 5 đến câu 7 - Về sinh hoạt cá nhân: từ câu 8 đến câu 10 Mỗi câu hỏi nhỏ gồm 4 lựa chọn được đánh giá mức độ tích cực từ cao đến thấp, người trả lời chọn 1 lựa chọn thích hợp nhất. Phần III: Câu 8: Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị lối sống sinh viên, người nghiên cứu đưa ra 30 yếu tố và sắp xếp thành 6 nhóm, người trả lời chọn 1 trong 5 mức phù hợp nhất: rất nhiều (4 điểm), nhiều (3 điểm), trung bình (2 điểm), không (1 điểm) và hoàn toàn không (0 điểm). Nhóm yếu tố gia đình: từ yếu tố 1 đến yếu tố 5 Nhóm yếu tố nhà trường: từ yếu tố 6 đến yếu tố 10 Nhóm yếu tố bạn bè: từ yếu tố 11 đến yếu tố 15
  12. Nhóm yếu tố văn hoá – xã hội: từ yếu tố 16 đến yếu tố 23 Nhóm yếu tố kinh tế: từ yếu tố 24 đến yếu tố 27 Nhóm yếu tố cá nhân: từ yếu tố 28 đến yếu tố 30 Phần IV: Câu 9: khảo sát nguyên nhân của định hướng giá trị lối sống sinh viên, là câu hỏi mở để cho người được hỏi viết câu trả lời. Phần V: Câu 10: thu thập các biện pháp giáo dục định hướng giá trị lối sống sinh viên, cũng là câu hỏi mở để cho người được hỏi viết câu trả lời. 7.2.2. Phương pháp phỏng vấn Với phương pháp này, người nghiên cứu trò chuyện với một số giáo viên và sinh viên tại các trường Đại học được nghiên cứu. Nội dung xoay quanh vấn đề về lối sống và sự lựa chọn các giá trị lối sống của sinh viên hiện nay. Qua đó có thêm những thông tin cụ thể, sinh động để bổ sung và khẳng định cho những kết luận về thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên. 7.3. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng toán thống kê để xử lý các số liệu đã thu thập được, tất cả các số thống kê được xử lý với sự trợ giúp của phần mềm máy tính SPSS.
  13. Chương 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những vấn đề liên quan đến giá trị và định hướng giá trị 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Vào những năm 1968 - 1974, Viện nghiên cứu thanh niên ở Đức đã tiến hành nghiên cứu ở 1000 học sinh phổ thông và 2000 sinh viên đại học để tìm hiểu sự định hướng giá trị. Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên ở Bungari nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, trong đó có đề cập đến vấn đề giá trị, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của thanh niên so với thế hệ cha ông. Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh niên của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra này đều đề cập đến về vấn đề định hướng giá trị của thanh niên nhằm giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống. Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành điều tra quốc tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong tình hình có nhiều biến đổi đang ảnh hưởng đến xã hội vào những năm cuối thế kỷ 20. Năm 1988, UNESCO đã phát hành tập tài liệu nghiên cứu về hệ thống cấu trúc của giá trị, hình thành bộ công cụ đo đạc, kiểm chứng giá trị, giúp cho những công trình nghiên cứu giá trị đúng hướng. Hơn 10 năm trở lại đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị. Các chương trình giáo dục giá trị đã được đưa vào trong trường phổ thông và cộng đồng ở một số nước như: Indonesia, Phillipin, Singapore, Malaysia và Thái Lan. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị ở đây đã chỉ ra được những khác biệt trong thang giá trị của thanh niên, xây dựng được những bộ dụng cụ để đo đạc và kiểm chứng cho nghiên cứu thực tế. Ngoài ra các công trình nghiên cứu còn được ứng dụng vào trong các trường học và cộng đồng dân cư. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam Từ năm 1986, sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam, đất nước ta thực hiện chính sách mở cửa, chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở cửa là chính sách đúng đắn nhằm đưa Việt nam hội nhập với cộng đồng thế giới để phát triển. Tuy vậy, chính sách mở
  14. cửa đã và đang tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội đồng thời tác động đến con người Việt nam nhất là đời sống tinh thần trong đó vấn đề đạo đức, các giá trị sống của người Việt nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng. Cũng từ đó mà xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của Ban Khoa Giáo Trung Ương, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung Ương, các Viện nghiên cứu, các tổ chức xã hội, đoàn thể về giá trị, định hướng giá trị của con người Việt nam. Năm 1987 - 1988, ban Lý luận giáo dục và Giáo dục chuyên nghiệp thực hiện đề tài: “Nghiên cứu và điều tra về xu hướng nhân cách của sinh viên”. Đề tài đã chỉ ra những xu hướng nhân cách của sinh viên và đề cập đến vấn đề giá trị sống của sinh viên với những đặc trưng nhất định. Năm 1991 - 1995, chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước mã số KX - 07: “Con người Việt nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” đã được thực hiện, nhiều nhánh đề tài xuất phát từ đây đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn về định hướng giá trị của con người Việt nam: Đề tài mã số KX - 07 - 04 do PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm, nghiên cứu: “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [63]. Dựa trên những giá trị được người Việt nam quan tâm, đề tài chỉ ra xu hướng phát triển nhân cách người Việt nam trong thời kỳ đổi mới và mở cửa. Đề tài KX - 07 - 10 do TS. Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm nghiên cứu: “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên trong cơ chế thị trường”[62]. Năm 1996, luận án phó tiến sĩ Triết học của tác giả Dương Tự Đam nghiên cứu: “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt nam” [9]. Luận án đã nêu ra một số biểu hiện đặc trưng, xu hướng phát triển và sự chuyển đổi định hướng giá trị trong sinh viên. Trên cơ sở đó đề tài đưa ra những giải pháp nhằm giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên sinh viên theo yêu cầu của công cuộc đổi mới. Cùng năm 1996, Nguyễn Thị Khoa với luận án phó tiến sĩ Tâm lý học: “Định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay” [37]. Đề tài đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về giá trị, định hướng giá trị và nêu ra những đặc trưng và xu thế định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức, từ đó xây dựng những chuẩn giá trị gia đình Việt nam hiện đại. Đầu năm 2002, Đỗ Ngọc Hà với luận án tiến sĩ “Định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước”. Đề tài cho thấy
  15. những giá trị nào điều tiết được cuộc sống hàng ngày và hành vi xã hội của sinh viên, trên cơ sở đó xây dựng biểu định hướng giá trị của sinh viên Việt nam. Như vậy, các đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giá trị và đinh hướng giá trị đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả tích cực lẫn tiêu cực của những thay đổi về định hướng giá trị của người Việt nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những phương hướng và biện pháp để giúp thanh niên sinh viên hoàn thiện về mặt nhân cách. Ngoài những đề tài nghiên cứu, còn có một số bài viết và báo cáo về giá trị và định hướng giá trị được đăng trên các tạp chí khoa học. 1.2. Những vấn đề liên quan đến lối sống 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Thuật ngữ “lối sống” lần đầu tiên được nhà Xã hội học người Đức, Max Weber (1864 -1920) sử dụng như một khái niệm khoa học trong công trình nghiên cứu Xã hội học. Sự phân tầng của xã hội được Weber mô tả như hình tam giác: phần đỉnh của tam giác là tầng lớp trên - những người chủ sở hữu phương tiện sản xuất, phần giữa là tầng lớp trung lưu và phần đáy là tầng lớp người nghèo không của cải. Mỗi tầng lớp lại chia thành những nhóm nhỏ dựa trên địa vị, cơ may, thu nhập và tiện nghi sinh hoạt khác với những “lối sống” và “mức sống” khác nhau. Chính lối sống, kiểu sống của các nhóm này nói lên sự phân tầng của xã hội khi được ông mô tả bằng những số liệu thống kê xã hội học [3]. Nhiều mặt, nhiều vấn đề của lối sống được các nhà Xã hội học phương Tây nghiên cứu trước đây: việc làm, sự khác biệt về giới, hôn nhân gia đình, ly hôn, tôn giáo. Tuy nhiên, các vấn đề đó chỉ được nghiên cứu tách rời, chưa theo hệ thống [3]. Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ 20, ở Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, các nhà Xã hội học và Triết học đã phát triển mạnh mẽ lý thuyết “Lối sống Xô viết” hay “Lối sống XHCN Xô viết” với hàng trăm tác phẩm đã đề cập đến bản chất, cấu trúc và chức năng xã hội của lối sống, chẳng hạn N.M. Kêgiêrov với “Vấn đề lối sống trong chiến dịch tuyên truyền tư sản hiện nay”, V.I. Daxêpin với tác phẩm “Lối sống xã hội chủ nghĩa và sự phát triển về mặt tinh thần của con người”, hay X.X.Visnhicôxki với tác phẩm “Lối sống Xô viết hôm nay và ngày mai”. Tuy có nhiều quan điểm và cách hiểu bản chất của lối sống khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu các tác phẩm này đều nhất trí với nhau rằng, khái niệm lối sống được đặc trưng cho một hiện thực xã hội, nó là bản chất của một hình thái kinh tế xã hội nhất định được thể hiện trong đời sống hằng ngày của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác nhau trong hoạt động sống của cá
  16. nhân. Lối sống được mô tả như một tập hợp những yếu tố của đời sống vật chất, xã hội và tinh thần của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội và của nhóm người hay từng người trong xã hội, hoặc được xem xét như một phương thức hoạt động sống của cả một xã hội. Nhìn chung những nghiên cứu về lối sống của các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội chủ nghĩa đều lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở. Tiêu chí của lối sống xã hội chủ nghĩa được xác lập bằng cách so sánh mang tính đối lập với lối sống tư bản chủ nghĩa. Việc nghiên cứu thường nặng về lý luận, kinh viện, chưa lý giải đúng mức các biểu hiện cụ thể, đặc trưng các lối sống, kiểu sống hiện thực của các nhóm xã hội hay cá nhân. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam Ở Việt nam, vấn đề lối sống được đề cập đến một cách phong phú. Từ năm 1980, nhiều vấn đề lý luận về lối sống đã được một số tác giả tập trung nghiên cứu: Tác giả Vũ Khiêu với “Lối sống là gì”, bên cạnh đó tác giả Hà Xuân Trường với bài báo: “Từng bước xây dựng nền văn hóa mới’ đã đề cập đến nếp sống văn hoá và những mặt biểu hiện của nó” [ 36 ]. Những vấn đề về lối sống cũng được tác giả Lê Như Hoa đề cập tới khi “Bàn về lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa” [17]. Đây là một công trình nghiên cứu lý luận và trình bày một cách hệ thống các khái niệm, các mặt cần nghiên cứu lối sống ở Việt nam theo mô hình Chủ nghĩa xã hội bao cấp (trước 1986). Tác giả Đỗ Huy cùng các cộng sự đã bàn tới lối sống có văn hóa trong “Nhân cách văn hóa trong bảng giá trị Việt nam” [31]. Theo đó, lối sống có văn hóa là lối sống thể hiện được cái đúng, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với nhau và mỗi lối sống đều có một hệ chuẩn mực chi phối. Những công trình này cho thấy các tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận của lối sống theo những quan điểm khác nhau về mặt lý thuyết và phương pháp luận cho việc nghiên cứu và xây dựng lối sống Xã hội chủ nghĩa chống lại lối sống Tư bản chủ nghĩa. Những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi đất nước đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có nhiều công trình nghiên cứu lối sống về giới trẻ ở các khía cạnh khác nhau, từ đó đã phác họa được bức tranh sinh động về lối sống của học sinh, sinh viên và đề ra những giải pháp giáo dục lối sống cho giới trẻ. Một số tác giả tiêu biểu như: Trần Thị Minh Đức với công trình “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên với lối sống sinh viên nội trú” [19], đã đưa ra thực trạng lối sống của sinh viên cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực tại môi trường ký túc xá và đưa ra những kiến nghị nhằm cải tạo điều
  17. kiện sống ở ký túc xá cho sinh viên cũng như đưa ra những biện pháp giáo dục lối sống văn hoá cho sinh viên nội trú. Tác giả Văn Hùng cùng với bài viết: “Thanh niên với lối sống thời mở cửa” [30], đã phản ánh tình hình thay đổi lối sống của thanh niên trong thời kỳ mở cửa, đồng thời mở ra nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu về lối sống thanh niên trong điều kiện mới. Tác giả Mạc Văn Trang với công trình “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên [59], đã xác định khái niệm lối sống sinh viên và nêu ra một hệ thống những đặc điểm cơ bản của lối sống sinh viên được biểu hiện qua một loạt các hoạt động. Đặc biệt công trình đã tiến hành khảo sát, thống kê các số liệu để đưa ra những mặt tích cực và tiêu cực trong lối sống sinh viên và đề xuất những biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên. Như vậy tác giả tránh chỉ đề cập đến lý luận về lối sống sinh viên mà đã tiếp cận lối sống sinh viên bằng những phương pháp cụ thể, mô tả các biểu hiện cụ thể của lối sống sinh viên trong cuộc sống hiện thực của họ. Tác giả Phạm Xuân Cảnh - Chủ tịch Hội sinh viên Hà Nội với đề tài: “Tình hình nếp sống của sinh viên Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” [4], đã phân tích mặt tích cực, tiêu cực và nêu lên được một số hoạt động cơ bản của sinh viên. Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cùng với các cộng sự đã điều tra, phân tích các số liệu thực tế và chỉ ra những mặt ưu và khuyết trong lối sống của sinh viên Sư phạm qua đề tài: “Xây dựng lối sống đạo đức mới cho sinh viên Đại học Sư phạm phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [64]. Công trình đã nêu lên những biểu hiện về lối sống và đạo đức của sinh viên Sư phạm khá cụ thể và sinh động, qua đó đề xuất những phương hướng và biện pháp giáo dục lối sống đạo đức lành mạnh cho sinh viên. Giống như tác giả Mạc Văn Trang, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cũng đã tiếp cận lối sống sinh viên Sư phạm trên một số hoạt động tiêu biểu như: - Biểu hiện của lối sống sinh viên trong hoạt động học tập - Biểu hiện lối sống sinh viên trong quan hệ - giao tiếp ứng xử - Biểu hiện lối sống sinh viên trong sinh hoạt tập thể và cá nhân - Biểu hiện lối sống sinh viên trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi. Nhìn chung những công trình nghiên cứu của các tác giả trên chủ yếu mô tả khái quát về đời sống sinh viên, chưa đi sâu vào một hoạt động cơ bản tiêu biểu nào đặc trưng cho lối sống sinh viên.
  18. Tác giả Phạm Ngọc Định với luận án tiến sĩ Tâm lý học: “Quy trình hình thành hành vi lối sống chuẩn mực ở học sinh lớp Một theo quan điểm công nghệ giáo dục” [16] đã tiến hành thực nghiệm để hình thành hành vi lối sống theo chuẩn mực quy định và mẫu hành vi ở học sinh lớp Một. Công trình đã chỉ ra, nếu tổ chức cho học sinh thực hiện những hành vi “nề nếp, hành vi giao tiếp, hành vi tác phong” dưới sự hướng dẫn của giáo viên theo quy trình phù hợp sẽ chuyển được những hành vi mẫu của lối sống vào trong mỗi học sinh thông qua quá trình củng cố, trải nghiệm. Tuy nhiên, cách làm này mới chỉ thực hiện ở học sinh lớp Một chưa đại diện được cho tất cả các lứa tuổi học sinh. Tác giả Phạm Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang với đề tài: “Thực trạng lối sống của sinh viên đại học Sư phạm Thái Nguyên” [29] đã góp phần làm phong phú thêm việc nghiên cứu lối sống của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên ở vùng miền núi phía Bắc. Tác giả Trần Kiều (Viện Khoa học giáo dục) chủ trì đề tài: “Thực trạng tư tưởng chính trị – đạo đức – lối sống thanh niên học sinh, sinh viên” đã tiến hành khảo sát khoảng 3000 học sinh Trung học Phổ thông và sinh viên về các nội dung trên, tuy nhiên cũng chỉ ở mức độ khái quát chung, chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết từng nội dung. Với Luận án tiến sĩ Tâm lý học, tác giả Nguyễn Ánh Hồng đã “Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” [28]. Luận án làm rõ một số nội dung tâm lý: những đặc điểm biểu hiện lối sống sinh viên qua hoạt động học tập và qua sự lựa chọn các hoạt động khác. Đặc biệt xác định được ba kiểu sống đặc trưng của sinh viên TP.HCM. 1.3. Định hướng giá trị lối sống sinh viên Như đã xét ở trên, có nhiều công trình nghiên cứu mang tính tầm cỡ về vấn đề định hướng giá trị, về vấn đề lối sống của sinh viên nhưng chúng ta chưa bắt gặp đề tài nào đề cập đến định hướng giá trị lối sống nói chung và định hướng giá trị lối sống sinh viên nói riêng. Định hướng giá trị lối sống là một yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách của con người. Chính định hướng giá trị lối sống hướng sự lựa chọn chủ quan của cá nhân đối với các giá trị khách quan của xã hội, là hệ thống tâm thế, là niềm tin và sở thích của con người đối với một giá trị nào đó trong cuộc sống. Nó thể hiện xu hướng của lối sống: con người mong muốn, hướng tới cái gì, sống và hoạt động vì những giá trị gì.
  19. Với sự phát triển của kinh tế xã hội như hiện nay, tất cả những ai muốn tiến nhanh, muốn bắt kịp với thời đại tất yếu phải có sự thay đổi. Sinh viên là những người trẻ năng động và nhanh nhạy với những cái mới nên họ dễ dàng thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, sự thay đổi của họ như thế nào, có phù hợp với truyền thống dân tộc và thực sự phù hợp với yêu cầu của thời đại hay không, nhất là những thay đổi của chiều kích sâu xa bên trong (định hướng giá trị) làm nên những thay đổi trong bất cứ hành vi nào của lối sống. Xã hội luôn vận động và biến đổi, nhân cách con người cũng sẽ vận động theo chiều hướng của xã hội, do đó tìm hiểu định hướng giá trị lối sống của giới trẻ nói chung, đặc biệt là của sinh viên là rất cần thiết. Như vậy, việc nghiên cứu định hướng giá trị lối sống của sinh viên cho đến thời điểm hiện nay là rất ít và hầu như chưa có, đặc biệt dưới góc độ Tâm lý học, vấn đề này vẫn còn là “khoảng trống” cần được quan tâm. Trân trọng và kế thừa thành tựu từ những công trình đi trước, chúng tôi cố gắng tìm một hướng sâu hơn để làm rõ được bản chất lối sống của sinh viên bằng cách tập trung vào nghiên cứu mặt định hướng giá trị lối sống.
  20. Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Giá trị và định hướng giá trị 2.1.1.Giá trị 2.1.1.1. Khái niệm giá trị a. Khái niệm giá trị theo từ điển Trong tiếng Anh, khái niệm giá trị thường được nhắc tới qua hai thuật ngữ có ý nghĩa gần như nhau, đó là: “value” - giá trị, ý nghĩa, và “worth” - vừa có nghĩa là giá trị, giá cả, ý nghĩa, vừa có nghĩa là phẩm giá, phẩm chất. Tuy nhiên, ngày nay, thuật ngữ “value” được dùng phổ biến hơn. Theo từ điển Bách khoa Toàn Thư Xô Viết, “giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [theo 63, tr.51-52]. Theo từ điển Triết học do M. M. Rozental (Liên Xô) chủ biên (Nxb Tiến bộ Maxcơva, 1975), “Giá trị là những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới chung quanh nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của khách thể ấy đối với con người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp và cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc hiện tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã hội nhất định. Đối với chủ thể (con người), các giá trị là các đối tượng lợi ích của nó, còn đối với ý thức của nó thì thì chúng đóng vai trò những vật định hướng hàng ngày trong thực trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với sự vật và hiện tượng xung quanh mình”. Từ điển Hán - Việt của Giáo sư Nguyễn Lân, giá trị được hiểu : là phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hóa, biểu hiện số lao động trừu tượng của xã hội với hao phí vào việc sản xuất ra hàng hóa; phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hoặc con người; thẩm chất tốt đẹp, tác dụng lớn lao.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2