intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

36
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng trên khách thể là sinh viên, trên cơ sở đó đưa ra những nhận định và kiến nghị nhằm nâng cao cảm nhận hạnh phúc của sinh viên. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------- NINH BẢO KHÁNH MỐI QUAN HỆ GIỮA CẢM NHẬN HẠNH PHÚC VỚI TÍNH ÁI KỶ VÀ LÒNG TỰ TRỌNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- NINH BẢO KHÁNH MỐI QUAN HỆ GIỮA CẢM NHẬN HẠNH PHÚC VỚI TÍNH ÁI KỶ VÀ LÒNG TỰ TRỌNG Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC Mã số: 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trương Thị Khánh Hà HÀ NỘI – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Trương Thị Khánh Hà. Các số liệu và tài liệu trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Học viên Ninh Bảo Khánh
  4. LỜI CẢM ƠN Đầu tiên tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS. TS Trương Thị Khánh Hà về sự chỉ bảo, dẫn dắt tận tình cùng những lời khuyên quý giá của cô trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu này. Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô đang giảng dạy tại khoa Tâm Lý Học Trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn – Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã luôn có sự hỗ trợ cần thiết cho tôi trong thời gian tôi vắng mặt tại khoa do thực hiện nghĩa vụ quân sự (2017 – 2019). Nhờ đó mà tôi có thể yên tâm công tác và quay trở lại hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới toàn thể các bạn sinh viên tại các trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Đại Học Kinh tế Quốc Dân, Đại Học Mở, Đại Học Xây Dựng đã cho tôi cơ hội được tiếp xúc, chia sẻ và có được số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Học viên Ninh Bảo Khánh
  5. MỤC LỤC Số thứ Nội dung Trang tự 1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1 2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 3 3 ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3 4 NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3 5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4 6 GIẢ THUYẾT KHOA HỌC 4 7 PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 4 CỨU CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢM NHẬN 5 HẠNH PHÚC, TÍNH ÁI KỶ VÀ LÒNG TỰ TRỌNG 1.1 Tổng quan nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ, 5 lòng tự trọng 1.1.1 Các nghiên cứu ở nước ngoài 5 1.1.2 Các nghiên cứu ở trong nước 12 1.2 Các khái niệm cơ bản 14 1.2.1 Cảm nhận hạnh phúc 14 1.2.2 Tính ái kỷ 16 1.2.3 Lòng tự trọng 23 1.3 Luận điểm lý thuyết nghiên cứu 26 1.3.1 Luận điểm lý thuyết về cảm nhận hạnh phúc 26 1.3.2 Luận điểm lý thuyết về tính ái kỷ 28 1.3.3 Luận điểm lý thuyết về lòng tự trọng 29 1.4 Mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và 30
  6. lòng tự trọng Tiểu kết chương 1 31 CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP 33 NGHIÊN CỨU 2.1 Tổ chức nghiên cứu 33 2.2 Phương pháp nghiên cứu 37 Tiểu kết chương 2 41 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN 43 3.1 Thực trạng cảm nhận hạnh phúc ở sinh viên 43 3.2 Thực trạng tính ái kỷ ở sinh viên 49 3.3 Thực trạng lòng tự trọng ở sinh viên 54 3.4 Mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và 57 lòng tự trọng 3.5 Sự tương đồng và khác biệt theo một số yếu tố nhân khẩu 60 Tiểu kết chương 3 63 KẾT LUẬN 65 KIẾN NGHỊ 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 PHỤ LỤC
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Số bảng Nội dung Trang biểu Bảng 1 Bảng ma trận xu hướng items - nhân tố (Rotated 43 Component Matrix) thang đo cảm nhận hạnh phúc Bảng 2 Hệ số tin cậy của các tiểu thang đo và của toàn bộ thang 44 đo cảm nhận hạnh phúc Bảng 3 Tương quan giữa các nhân tố và cảm nhận hạnh phúc 45 chung Bảng 4 Điểm trung bình các nhân tố thang đo cảm nhận hạnh 46 phúc và độ lệch chuẩn Bảng 5 Cảm nhận hạnh phúc chủ quan MHC – SF của sinh viên 46 (N = 360) Bảng 6 Cảm nhận hạnh phúc của sinh viên (N = 360) 58 Bảng 7 Tương quan giữa từng mệnh đề với toàn bộ thang đo tính ái kỷ và độ tin cậy của thang đo nếu loại bỏ từng mệnh 50 đề Bảng 8 Mức độ ái kỷ của sinh viên (N = 360) 52 Bảng 9 Tương quan giữa từng mệnh đề với toàn bộ thang đo lòng tự trọng và độ tin cậy của thang đo nếu loại bỏ từng 54 mệnh đề Bảng 10 Mức độ lòng tự trọng của sinh viên (N = 360) 55 Bảng 11 Tương quan giữa các thành tố của cảm nhận hạnh phúc 57 với tính ái kỷ Bảng 12 Tương quan giữa các thành tố của cảm nhận hạnh phúc 58 với lòng tự trọng
  8. Bảng 13 Tương quan giữa các thành tố của cảm nhận hạnh phúc 59 với tính ái kỷ và lòng tự trọng Bảng 14 Tương quan giữa các thành tố của cảm nhận hạnh phúc 60 với tính ái kỷ và lòng tự trọng (so sánh theo giới tính) Bảng 15 Tương quan giữa các thành tố của cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng (so sánh về tình trạng kinh 62 tế) Hình 1 Tương quan giữa các nhân tố và toàn thang đo 45 Biểu đồ 1 Mức độ cảm nhận hạnh phúc của các nhóm từ “nghèo” 49 đến “giàu”
  9. CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN STT Từ viết Thuật ngữ tắt 1 SWB Cảm nhận hạnh phúc (Subjective Well-being) 2 PWI Chỉ số hạnh phúc (Personal Well-being Index) 3 HPI Chỉ số hạnh phúc hành tinh (Happy Planet Index) 4 MHC Thang đo phổ sức khỏe tinh thần (Mental Health Continuum) 5 NPI Nhân cách ái kỷ (Narcissism Personality Inventory)
  10. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Cảm nhận hạnh phúc chủ quan đã được các nhà Tâm lý học quan tâm như một hướng nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực tâm lý học tích cực. Nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc giúp tìm hiểu thêm về chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân trong môi trường gia đình, xã hội và cộng đồng về mức độ mà họ cảm thấy hạnh phúc nói chung như thế nào? Từ đó, tìm ra các giải pháp nhằm giúp mỗi cá nhân ngày càng trở nên hạnh phúc hơn, hạn chế những yếu tố tác động làm giảm hạnh phúc. Các nghiên cứu về hạnh phúc chủ quan (Subjective well-being) được bắt đầu quan tâm nghiên cứu vào đầu thế kỷ XX xuất phát từ lý do con người xa xưa tự đặt ra câu hỏi: “điều gì tạo ra cuộc sống tốt đẹp và điều gì khiến con người cảm thấy hạnh phúc”. Vào những năm 30 – 40 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm hiểu về hạnh phúc và sự hài lòng với cuộc sống trong cộng đồng bằng cách đặt ra câu hỏi “Bạn cảm thấy hạnh phúc ở mức độ nào?” với các phương án trả lời khác nhau từ “rất hạnh phúc” đến “không hạnh phúc” (dẫn theo Cantril, Hadley, Mildred). Vào năm 1925, Flugel đã nghiên cứu tâm trạng của con người bằng cách ghi lại các sự kiện và những phản ứng cảm xúc của họ. Điều quan trọng khiến các nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc trong những thập niên gần đây nở rộ là người dân ở các quốc gia phát triển đã có mức sống cao hơn, đời sống kinh tế phát triển hơn, vì thế mà họ mong muốn đời sống tinh thần cũng phải trở nên tốt đẹp hơn. Từ lý do trên mà chất lượng cuộc sống và sự cảm nhận hạnh phúc chủ quan từ đó mà trở nên cần thiết, quan trọng đối với họ. 1
  11. Việc nghiên cứu về lòng tự trọng giúp đánh giá và xem xét về mức độ tự trọng của mỗi cá nhân trong xã hội. Từ vấn đề này có thể cải thiện lòng tự trọng của mỗi người, hạn chế các yếu tố tác động tiêu cực làm giảm tính tự trọng, đồng thời tìm hiểu mối liên hệ giữa lòng tự trọng với cảm nhận hạnh phúc để xem xét chiều hướng tương quan nhằm đưa ra những nhận định phù hợp. Tiếp theo, nghiên cứu về tính ái kỷ vẫn còn khá mới tại Việt Nam. Việc tìm hiểu về tính ái kỷ giúp đánh giá chung về mức độ tự yêu bản thân mình – điều mà thường xuất hiện thấy trong giai đoạn đầu tuổi trưởng thành. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có nhiều dạng ái kỷ với những mức độ khác nhau. Tính ái kỷ có tương quan thuận với điều kiện kinh tế và tương quan nghịch với tuổi một cách có ý nghĩa. Mặc dù mối tương quan này chỉ ở mức yếu, kết quả vẫn có sự phù hợp với kết quả của một nghiên cứu ở Trung Quốc, sử dụng mẫu internet trên diện rộng, theo đó, người trẻ tuổi có tính ái kỷ cao hơn những người lớn tuổi; người từ các tầng lớp kinh tế xã hội cao có tính ái kỷ cao hơn so với những người lớp xã hội thấp [5, tr 46]. Xuất phát từ những kết quả nghiên cứu đi trước cả trong nước lẫn nước ngoài về cảm nhận hạnh phúc chủ quan, tính ái kỷ và lòng tự trọng, chúng tôi muốn tìm hiểu, nghiên cứu về mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng trên khách thể là sinh viên. Chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu này sẽ tạo nên một bức tranh đa dạng và phong phú về cảm nhận hạnh phúc của người Việt nói chung. Chỉ ra được thực trạng về cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ và lòng tự trọng của sinh viên; sự khác nhau giữa giới tính, điều kiện kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đến cảm nhận hạnh phúc của sinh viên? Liệu mức độ về lòng tự trọng, tính ái kỷ (cao, thấp) có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, cảm nhận hạnh phúc của sinh viên hay không? 2
  12. Đề tài nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn khách thể là sinh viên bởi lẽ sinh viên thuộc nhóm độ tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lý chịu ảnh hưởng từ môi trường sống trong gia đình và ngoài xã hội. Điều kiện kinh tế, mối quan hệ bạn bè trên trường học ít nhiều ảnh hưởng đến cảm nhận hạnh phúc của sinh viên, tự đánh giá của sinh viên về bản thân mình. Chính vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu này nhằm trả lời cho câu hỏi:  Giữa cảm nhận hạnh phúc và tính ái kỷ có mối quan hệ với nhau như thế nào?  Giữa cảm nhận hạnh phúc và lòng tự trọng có mối quan hệ với nhau như thế nào? 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng trên khách thể là sinh viên, trên cơ sở đó đưa ra những nhận định và kiến nghị nhằm nâng cao cảm nhận hạnh phúc của sinh viên. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ và lòng tự trọng của sinh viên và mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng. 3.2. Khách thể nghiên cứu: 360 sinh viên các trường: Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, Trường Đại Học Xây Dựng, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, Trường Đại học Bách Khoa. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận - Tổng quan một số nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ, lòng tự trọng và mối quan hệ giữa chúng. - Xây dựng cơ sở lý luận và các khái niệm cơ bản của đề tài. 3
  13. - Lựa chọn các thang đo: Cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ, lòng tự trọng. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn - Khảo sát thực trạng cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ và lòng tự trọng của sinh viên. - Phân tích mối quan hệ giữa cảm nhận hạnh phúc với tính ái kỷ và lòng tự trọng. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao cảm nhận hạnh phúc của sinh viên. 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu Nội dung nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc (subjective well-being) giới hạn trên phương diện: hạnh phúc cảm xúc, hạnh phúc tâm lý và hạnh phúc xã hội (Keyes, 2002). Nghiên cứu tính ái kỷ (Narcissism) thông qua thang đo Nhân cách Ái kỷ (Raskin và Terry, 1998) Nghiên cứu lòng tự trọng (Self-esteem) thông qua thang đo Lòng tự trọng (Rosenberg, 1965) 5.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu ở một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội. 5.3. Giới hạn về khách thể nghiên cứu Sinh viên từ 18 – 25 tuổi. 6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC  Cảm nhận hạnh phúc có tương quan nghịch với tính ái kỷ  Cảm nhận hạnh phúc có tương quan thuận với lòng tự trọng 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp thống kê toán học (SPSS) 4
  14. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẢM NHẬN HẠNH PHÚC, TÍNH ÁI KỶ VÀ LÒNG TỰ TRỌNG 1.1. Tổng quan nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc, tính ái kỷ và lòng tự trọng 1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài Cảm nhận hạnh phúc Công trình nghiên cứu đầu tiên về cảm nhận hạnh phúc đó là cuốn sách “Khoa học về hạnh phúc” (The Science of Happiness) của một nhóm tác giả xuất bản tại London năm 1861. Vào năm 1909, một cuốn khác cùng tên của Henry S. William xuất bản tại New York tiếp tục gây được sự chú ý nhất định trong giới học thuật. Từ đó, các công trình, chuyên khảo, bài báo... có xu hướng nghiên cứu khoa học về hạnh phúc dần dần xuất hiện. Đến những năm 1960 của thế kỷ XX, khoa học về hạnh phúc không còn dừng lại ở những suy tư triết học, mà đã dần trở thành khoa học thực nghiệm, nhất là đối với ngành tâm lý học, xã hội học, không chỉ ở Tây Âu, mà còn ở Bắc Mỹ và nhiều nơi khác trên thế giới. Tuy vậy, phải đến gần đây, ở Phương Tây, người ta mới thừa nhận Khoa học Hạnh phúc (Science of Happiness) là một ngành nghiên cứu tương đối độc lập với đối tượng nghiên cứu là hạnh phúc. Martin Sehgman, GS. Đại học Pennsylvania, Chủ tịch Hiệp hội bác sĩ tâm lý Mỹ là một trong những người nhiệt thành lên tiếng đòi môn nghiên cứu về hạnh phúc phải được chú trọng với tính cách là một khoa học liên ngành, chuyên nghiên cứu định lượng về hạnh phúc, nhằm bổ sung, thay thế cho những lĩnh vực mà triết học và tôn giáo còn đang giải thích một cách rối rắm hoặc trừu tượng. Từ đầu thế kỷ XX thì khái niệm hạnh phúc chủ quan (Subjective Well- being) mới được hình thành để đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “điều gì làm cho con người ta cảm thấy hạnh phúc?”. Sự khởi điểm chỉ bắt đầu khi vào năm 5
  15. 1980 – 1990, các nghiên cứu về hạnh phúc chủ quan mới thực sự được quan tâm và chú ý đến (Diener, 1984; Argyle, 1987; Myers, 1992; Ryff, 1989; Diener, 2000; Keyes, 1998, 2002). Thời điểm từ năm 1925, tác giả Flugel nghiên cứu tâm trạng bằng cách ghi chép lại các sự kiện tình cảm và sau đó tổng hợp phản ứng cảm xúc qua từng khoảnh khắc. Việc làm này của Flugel là tiền thân của phương pháp thực nghiệm mẫu hiện đại để đo lường sự cảm nhận hạnh phúc chủ quan trực tuyến như con người nói về cuộc sống hàng ngày của họ. Sau thế chiến thứ hai, các nhà nghiên cứu bắt đầu cho mọi người khải sát bằng cách bỏ phiếu về sự hạnh phúc và sự hài lòng với cuộc sống thông qua bảng hỏi dùng cho mẫu toàn cầu. Các cuộc thăm dò dư luận được nghiên cứu trên một số lượng lớn những người thường được chọn để tạo các mẫu đại diện của các quốc gia. George Gallup, Gerald Gurin và các đồng nghiệp và Hadley Cantril đi tiên phong trong việc sử dụng các cuộc điều tra quy mô lớn như là một kỹ thuật để đánh giá. Họ hỏi mọi người những câu hỏi như “Bạn làm thế nào để hạnh phúc?” Với các câu trả lời mức độ khác nhau từ “rất hạnh phúc” đến “không hạnh phúc”. Vào năm 1969, nhà nghiên cứu Norman Bradburn chứng minh tác động của sự hài lòng và khó chịu có phần độc lập tương đối và có những mối tương quan khác nhau, nó không đơn giản chỉ còn là hai mặt của sự đối lập. Do đó, hai ảnh hưởng này phải nghiên cứu một cách riêng biệt để đạt được một bức tranh hoàn chỉnh của cảm nhận hạnh phúc của cá nhân. Phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với lĩnh vực cảm nhận hạnh phúc chủ quan. Điều này cho thấy những nỗ lực của tâm lý học lâm sàng để loại bỏ trạng thái tiêu cực sẽ không nhất thiết phải thúc đẩy trạng thái tích cực. Việc loại bỏ các cơn đau chưa chắc đã tạo ra sự tăng cường tương đương về niềm vui; thoát khỏi thế giới của nỗi buồn và sự lo lắng không hẳn đã là đem lại sự hạnh phúc [8]. 6
  16. Nhà nghiên cứu Wilson chưa có nhiều tài liệu đa dạng để tìm hiểu về "sự thừa nhận hạnh phúc" vào năm 1967, và cho đến năm 1984 thì tác giả Diener đã cung cấp một đánh giá có ý nghĩa lớn trong cơ sở dữ liệu về cảm nhận hạnh phúc chủ quan đã được tập trung vào những năm 1980. Phải cho đến thập niên 90, lĩnh vực nghiên cứu về cảm nhận hạnh phúc mới thực sự trở thành ngành khoa học. Tác giả Diener (1995) nghiên cứu thấy rằng ngay cả khi mức nhu cầu cơ bản đã được kiểm soát, thu nhập có ảnh hưởng khá lớn đến cảm nhận hạnh phúc của người dân của một quốc gia. Từ đó cho thấy những người dân ở những nước giàu nhất có xu hướng hạnh phúc nhất. Điều này có thể bởi vì họ có nhiều của cải vật chất nhưng nó cũng có thể là vì các quốc gia giàu nhất có mức độ trải nghiệm những quyền con người cao hơn, tuổi thọ cao hơn và bình đẳng hơn. Cảm nhận hạnh phúc có thể mô tả như là sự hài lòng về cuộc sống nói chung. Các quan điểm lớn được một số tác giả đưa ra. Đối với Diener thì hiểu cảm nhận hạnh phúc là một khái niệm bao gồm các trải nghiệm thỏa mãn các trạng thái cảm xúc tiêu cực ở mức độ thấp và sự hài lòng với cuộc sống ở mức độ cao (Diener, 2000). Ngoài ra còn một tác giả khác là Keyes thì hạnh phúc bao gồm sự khỏe mạnh về tinh thần, những cảm xúc tích cực và sự vận hành tốt các chức năng tâm lý, xã hội trong cuộc sống (Keyes, 2002). Cummins và Lau (2003) thì cho rằng con người hạnh phúc khi họ hài lòng với những chiều cạnh làm nên chất lượng cuộc sống của mình. Vì thế mà hai tác giả đã xây dựng thang đo Chỉ số hạnh phúc cá nhân (Personal Well- being Index – PWI) trên cơ sở các chiều cạnh của chất lượng cuộc sống. Bài nghiên cứu “Tổng quan về hạnh phúc chủ quan” (Subjective well- being: a general overview) của Ed Diener và Katherine Ryan đã cung cấp một 7
  17. cái nhìn toàn diện về hạnh phúc chủ quan dưới góc độ những lợi ích xã hội và cá nhân, mối liên hệ với nhân khẩu học, những lý thuyết về nguồn gốc, và mối quan hệ của nó với văn hóa. Các cách thức để tăng cường hạnh phúc cũng được đề cập và các tác giả cũng đưa ra luận điểm về những tranh cãi xung quanh việc những báo cáo quốc gia của hạnh phúc chủ quan về chính sách công cũng nên được xem xét và tận dụng, cùng với những chỉ báo kinh tế và xã hội, tất cả những chỉ báo này đều có khả năng phản án và tăng cường chất lượng cuộc sống của đất nước đó. Một là, về khái niệm “hạnh phúc chủ quan” (Subjective Well-being), Ed Diener và Katherine Ryan định nghĩa “hạnh phúc chủ quan là thuật ngữ có tính khái quát được sử dụng để mô tả mức độ hạnh phúc mà con người trải qua dựa trên những đánh giá chủ quan của họ về cuộc đời”. Hai là, về các phương pháp mà các tác giả tiếp cận thì bao gồm các phương pháp tự thuật và các phương pháp đo lường không mang tính tự thuật. Các phương pháp tự thuật nhóm phương pháp đo lường phổ biến được sử dụng để tiếp cận hạnh phúc chủ quan. Nhóm phương pháp này yêu cầu người tham gia phải đưa ra những đánh giá theo tiêu chuẩn toàn cầu về sự hài lòng về cuộc sống hoặc mức độ họ trải nghiệm một số cảm xúc cụ thể. Những phương pháp này có thể khác biệt về thang đo, về khung thời gian, hoặc liệu rằng chúng có giống nếu so với các báo cáo được ghi lại trong quá khứ, tuy nhiên tất cả các phương pháp này đều hướng tới mục đích đo lường mức độ hạnh phúc từ góc độ chủ quan của các khách thể. Những phương pháp khác không mang tính tự thuật, ví dụ như quan sát, đánh giá nét mặt, đo lường chức năng sinh lý, và xem xét nhạy cảm cảm xúc giúp nhà nghiên cứu thu được những kết quả đo lường mang tính khách quan về hạnh phúc. 8
  18. Ba là, về lợi ích của hạnh phúc, Ed Diener và Katherine Ryan đã chỉ ra rằng hạnh phúc và sự hài lòng về cuộc sống ở mức độ cao cải thiện đáng kể cuộc sống của con người trong bốn lĩnh vực là các mối quan hệ xã hội, công việc và mức thu nhập, sức khỏe và tuổi thọ và các lợi ích xã hội. Tính ái kỷ Tính ái kỷ (tiếng anh gọi là Narcissism, nguồn gốc từ nghĩa La tinh là Narcissus). Xuất phát từ một câu chuyện thần thoại trong Hy Lạp khi chàng trai Narcissus đem lòng yêu bóng hình tuyệt đẹp của chính mình khi có một lần, chàng soi mình dưới dòng nước và yêu chính cái bóng đó. Cũng có truyện kể rằng chàng Narcissus vì không đáp lại tình yêu của nàng Echo xinh đẹp mà khiến nàng đau khổ tự vẫn chết. Chính sự kiêu ngạo này đã khiến Narcissus bị các vị thần giáng hình phạt là phải yêu chính cái bóng của mình dưới nước, mỗi lần chàng vươn tay định ôm lấy cái bóng đó thì nó lại tan biến đi mất. Vì quá buồn cho thứ tình yêu mà không được đền đáp đó, kết cục Narcissus đã chết bên cạnh dòng nước. Một loài hoa mang tên Thủy Tiên đã ra đời tại nơi anh chết (phỏng theo Gantz và cộng sự, 1993). Theo tác giả Kernberg (1975) thì thần thoại về câu chuyện của chàng trai mang tên Narcissus đặt nền móng cho miêu tả về một căn bệnh lâm sàng có đặc điểm yêu bản thân thái quá, biểu hiện trong các đặc điểm như: Mình cao đẹp hơn người khác, sự kỳ vọng được ca tụng tán dương hay hâm mộ, sự phóng đại tài năng của chính mình và lợi dụng người khác để làm tư lợi cá nhân. Các nghiên cứu đã cung cấp thêm nhiều bằng chứng về độ hiệu lực của tính ái kỷ như là một nét nhân cách, cũng như độ hiệu lực của thang NPI (Narcissism Personality Inventory). Cấu trúc yếu tố của thang NPI được tìm ra bởi Emmons (1984) cũng được xác nhận. Tính ái kỷ bao gồm 4 yếu tố có tương quan trung bình với nhau, liên quan đến 4 lĩnh vực lãnh đạo 9
  19. (leadership), tự ngưỡng mộ (self-admiration), ưu thế (superiority), và lợi dụng quan hệ với người khác (interpersonal exploitiveness). Mặc dù tính ái kỷ được chỉ ra có mối tương quan với lòng tự trọng (self- esteem) cao (Emmons, 1984), nhưng một số nhà lý thuyết (xem Kernberg, 1980) cho rằng vẻ ngoài tự tin chỉ dùng để che dấu sự yếu đuối sâu bên trong của tính ái kỷ, đặc biệt khi gặp thất bại hay bị chỉ trích. Dẫn dắt đến dự đoán của một số nhà nghiên cứu rằng các cá nhân ái kỷ sẽ phản ứng với các trải nghiệm tích cực và tiêu cực một cách mạnh mẽ và điều này phụ thuộc vào cảm giác về giá trị cá nhân của người đó. Thêm vào đó, chúng ta biết rằng hành vi ái kỷ được coi là kiểu phản ứng tương đối thiếu trường thành (Kernberg, 1980; Plutchik, Kellerman, & Conte, 1979), và những cá nhân thiếu trường thành có cái nhìn khá đơn giản về bản thân. Fischer (1984) khám phá ra rằng các cá nhân có tính ái kỷ cao có nhiều đặc điểm tích cực hơn là các cá nhân có tính ái kỷ thấp (dẫn theo Emmons, 1987). Mặc dù tính ái kỷ ở thời điểm hiện tại thu hút nhiều hứng thú, nhưng những nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này còn đang rất ít. Sẽ khó có thể tiến xa hơn này nếu không có được những lý thuyết có thể kiểm chứng và quan sát một cách thực nghiệm. Cần có thêm nhiều nghiên cứu mối quan hệ giữa hạnh phúc cá nhân, tính ái kỷ, sự phòng vệ, và lòng tự trọng ở cả những cá nhân ái kỷ bình thường và bệnh lý. Những nỗ lực đó sẽ mở rộng những vấn đề xung quanh khái niệm tính ái kỷ và giúp phân biệt giữa các biểu hiện bình thường và bệnh lý tính ái kỷ. Lòng tự trọng Tajfel và Turner đã phát triển tính đồng nhất xã hội và đưa ra hai khía cạnh riêng biệt trong tự ý thức bản thân: Đồng nhất cá nhân và đồng nhất xã 10
  20. hội. Tuy có nhiều công cụ đo lường lòng tự trọng nhưng chủ yếu tập trung vào đánh giá của cá nhân về tính đồng nhất cá nhân của họ. Một thang đo được xây dựng để đánh giá sự khác biệt cá nhân trong tập thể với 4 tiểu thang đo (lòng tự trọng hội viên, lòng tự trọng tập thể cộng đồng, lòng tự trọng tập thể riêng tư và tầm quan trọng về tính đồng nhất). Dựa trên mô hình ba phần của cái tôi (Brewer & Gardner, 1996), cái tôi bao gồm ba khía cạnh: cá nhân, quan hệ, và tập thể. Do đó mà các cá nhân có thể ý thức về sự tự đại (self-worth) thông qua các thuộc tính cá nhân của họ (lòng tự trọng cá nhân), mối quan hệ với những người quan trọng (lòng tự trọng quan hệ), hay là thành viên trong một nhóm xã hội (lòng tự trọng tập thể). Có một công cụ đo lường hiện nay về lòng tự trọng cá nhân và tập thể có thể sử dụng được trong tài liệu; tuy nhiên hiện chưa có thang đo nào đánh giá về lòng tự trọng quan hệ. Các tác giả đã phát triển một thang đo để đo lường sự khác biệt cá nhân đối với lòng tự trọng quan hệ và đã thử nghiệm nó với hai mẫu nghiên cứu ở sinh viên đại học Trung Quốc. Các cách tiếp cận giữa (between) và trong phạm vi hệ thống (within-network) đối với độ hiệu lực cấu trúc được sử dụng. Thang đo đã cho thấy độ tin cậy ổn định bên trong đầy đủ và các kết quả của phân tích nhân tố xác nhận cho thấy sự phù hợp. Nó cũng thể hiện mối tương quan có ý nghĩa với các cấu trúc lý thuyết liên quan trong hệ thống hợp pháp. Dựa vào vai trò quan trọng của sự tự đánh giá tích cực đối với sức khỏe tinh thần (Taylor & Brown, 1988), các nhà nghiên cứu đã dự đoán rằng các cá nhân có lòng tự trọng quan hệ cao cũng sẽ cho thấy sự hài lòng về cuộc sống là cao hơn. Mặc dù các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng lòng tự trọng cá nhân đem lại lợi ích cho sức khỏe tinh thần, các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng lòng tự trọng tập thể và quan hệ cũng có liên quan tới sức khỏe tinh thần. 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2