Luận văn Thạc sĩ Văn học: Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975
lượt xem 12
download
Thông qua việc thống kê, khảo sát, phân tích giải mã các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Tố Hữu, luận văn hướng tới mục đích làm rõ đặc điểm tư duy nghệ thuật thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu, góp phần khẳng định phong cách thơ độc đáo của nhà thơ Cách mạng này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HOÀNG THỊ KIM NHẪN BIỂU TƯỢNG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945 - 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- HOÀNG THỊ KIM NHẪN BIỂU TƯỢNG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945-1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân HÀ NỘI - 2014 2
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 3 1. Lý do chọn đề tài ................................................. …………………………3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 4 3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 7 4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 8 6. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 8 PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... …9 CHƢƠNG 1: BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO THƠ TỐ HỮU…………………………………………………... ........ 9 1.1. Biểu tƣợng ................................................................................................. 9 1.1.1 Quan niệm về biểu tƣợng từ các góc độ khác nhau .............................. 9 1.1.2 Quan niệm về biểu tƣợng của luận văn ............................................... 14 1.1.3 Phân biệt biểu tƣợng và một số khái niệm gần gũi ............................. 17 1.2 Hành trình sáng tạo thơ Tố Hữu .......................................................... 21 1.2.1 Tập thơ "Từ ấy" .................................................................................... 21 1.2.2 Tập thơ "Việt Bắc" ............................................................................... 23 1.2.3 Tập thơ "Gió lộng" .............................................................................. 26 1.2.4 Tập thơ "Ra trận" và "Máu và Hoa" ................................................. 28 1.2.5 Tập thơ " Một tiếng đờn" .................................................................... 30 1.2.6 Tập thơ " Ta với ta" ............................................................................. 30 3
- CHƢƠNG 2: CÁC HỆ BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945- 1975 .......................................................................................... 32 2.1 Những biểu tƣợng tiêu biểu diễn tả hiện thực chiến tranh ................ 32 2.1.1Biểu tƣợng lửa ........................................................................................ 32 2.1.2 Biểu tƣợng máu ..................................................................................... 46 2.2. Những biểu tƣợng diễn tả tình cảm lãng mạn Cách mạng ............... 55 2.2.1. Biểu tƣợng lá cờ ................................................................................... 55 2.2.2 Biểu tƣợng ngôi sao .............................................................................. 62 CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ TỐ HỮU GIAI ĐOẠN 1945- 1975..................................................... 68 3.1 Cách sử dụng các hình ảnh thơ.............................................................. 68 3.1.1 Hình ảnh cụ thể nâng lên tầm khái quát............................................ 68 3.1.2. Hình ảnh cụ thể nâng lên tầm kì vĩ, thiêng liêng ............................. 73 3.2. Giọng điệu thơ và các biện pháp tu từ ................................................. 77 3.2.1 Giọng điệu thơ ...................................................................................... 77 3.2.2. Các biện pháp tu từ ............................................................................. 79 KẾT LUẬN .......................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………....84 4
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhà phê bình Lê Thanh Nghị từng nhận xét: "Có một sự thật nhiều người biết, đó là trong suốt cuộc đời làm cách mạng và làm thơ, không một nhà thơ Việt Nam nào được nhớ, được đọc và được thuộc nhiều như Tố Hữu". Giáo sư Phong Lê cũng cùng quan điểm đó trong đánh giá rằng: "Tố Hữu là nhà thơ Việt Nam được đọc dài nhất trong thế kỷ XX". Quả đúng như vậy, bởi Tố Hữu là một nhà cách mạng làm thơ, nên thơ không chỉ là thơ với vẻ mượt mà văn chương mà còn là chan chứa tình yêu, lòng xót thương, khao khát đấu tranh, làm đẹp cho người, cho đời, cho quê hương đất nước. Bản thân nhà thơ Tố Hữu quan niệm rằng: "Thơ hay làm người ta quên thơ đi, để chỉ còn cảm thấy có tình người".Và chính cái tình trong thơ Tố Hữu đã đọng mãi trong lòng nhiều độc giả cho tới tận hôm nay. Con đường thơ Tố Hữu gắn bó mật thiết với con đường cách mạng Việt Nam, bởi vậy nên những giai đoạn lịch sử cam go nhất đặc biệt là thời chiến tranh, khoảng từ năm 1945 đến 1975, chính là những lúc thơ Tố Hữu thể hiện rõ nhất phong cách trữ tình chính trị của ông, và ở đó, ta thấy có những hình ảnh được tác giả nhắc đến nhiều lần. Đó không chỉ là những hình ảnh ngẫu nhiên mà có sức ám ảnh lớn đối với tác giả và mang tính biểu tượng cao. Những biểu tượng ấy có ý nghĩa sâu sắc, bởi qua đó, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc, mà trước hết là nó phản ánh được rõ nét hiện thực cách mạng, hơn thế, còn thể hiện được tình cảm, lý tưởng cách mạng cao đẹp của nhà thơ. Đã có không ít các học giả, nhà nghiên cứu có cảm hứng, xây dựng những công trình khoa học về thơ Tố Hữu. Ở một vài công trình cũng đã đề cập đến biểu tượng trong thơ Tố Hữu, nhưng nguồn biểu tượng đa dạng cùng với nét đặc sắc của nó vẫn rất hấp dẫn người yêu thơ Tố Hữu, và vẫn sẽ là nguồn đề tài hứng thú để tiếp tục giải mã những ý nghĩa ẩn sâu mà nhà thơ muốn chuyển tải.Với xu thế đó, đề tài "Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945- 1975" của chúng tôi cũng mong muốn khảo sát toàn diện hơn, đầy đủ hơn hệ thống các biểu tượng nghệ thuật đã góp phần làm nên nét đặc sắc 5
- trong thơ Tố Hữu, khẳng định được phong cách của Tố Hữu và vị trí của Tố Hữu trên thi đàn Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tố Hữu đến với thi ca khá sớm, từ năm 18 tuổi, và được coi là con chim đầu đàn vạch hướng cho cả nền thi ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Có những giai đoạn, thơ ông đã trở thành chỗ dựa tâm hồn cho mọi người. Sự nghiệp thơ ca của ông đã được khẳng định qua các giải thưởng cao quý như: Giải nhất giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955 cho tập thơ Việt Bắc; Giải thưởng Văn học ASEAN năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt I, 1996). Ông cũng là người có nhiều thơ được sử dụng giảng dạy trong nhà trường, từ bậc học phổ thông đến đại học. Chính vì thế đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu của các nhà thơ nhà văn như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông,… Các chuyên luận và bài nghiên cứu của các tác giả Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Văn Long… đều đã đề cập đến nhiều mặt quan trọng khác nhau của thơ Tố Hữu và còn một số bài viết của chính tác giả về đời mình và thơ của mình. Các công trình nghiên cứu, các bài viết tập trung vào một số vấn đề về đời và thơ Tố Hữu, cụ thể là: Nghiên cứu về chặng đường sáng tác, có nhóm bài viết về các tập thơ và khuynh hướng vận động của thơ Tố Hữu. Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật, có các công trình, các bài viết tập trung khai thác, khám phá những giá trị đặc sắc trong thơ Tố Hữu cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết đi sâu vào tìm hiểu, phân tích, thẩm bình những thi phẩm tiêu biểu của Tố Hữu qua các chặng đường thơ của ông. Cuối cùng là hồi ức, gồm những kỷ niệm của bạn bè, đồng nghiệp, người thân về cuộc đời và sự nghiệp nhà thơ Tố Hữu. Đặc biệt, có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Đó là: Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987). Công trình nghiên cứu của Lê Đình Kỵ với trên năm trăm trang, được coi là xuất hiện sớm và có những đóng góp đáng ghi nhận 6
- trong việc khảo sát đánh giá một cách toàn diện cả nội dung và nghệ thuật thơ Tố Hữu, mang tên Thơ Tố Hữu (xuất bản lần đầu năm 1979 tại NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp). Trong chuyên luận này, hầu hết các tập thơ quan trọng trên chặng đường sáng tác của Tố Hữu đã được khảo cứu, như Từ ấy (1937 - 1946), Việt Bắc (1946 - 1954), Gió lộng (1955 - 1961), Ra trận (1962 - 1971), Máu và Hoa (1972 - 1977). Để từ đó tác giả đã khái quát những chủ đề lớn trong thơ Tố Hữu như: chủ đề về Nhân dân, Đất nước, Đảng, Lãnh tụ…Ngoài ra là những đặc điểm phong cách, tư tưởng, nghệ thuật trong sáng tác của nhà thơ như: lãng mạn cách mạng, trữ trình cách mạng, phong cách dân tộc đậm đà… Có thể nói đây là chuyên luận trình bày rất cơ bản về sự nghiệp sáng tác, phong cách thơ Tố Hữu. Chuyên luận của Lê Đình Kỵ rất có ý nghĩa trong đời sống phê bình, nghiên cứu văn học. Tuy vậy, tác giả của chuyên luận vẫn là bước đầu tiếp cận thơ Tố Hữu về phương diện xã hội học. Vấn đề biểu tượng trong thơ Tố Hữu chưa thấy được nghiên cứu, tìm hiểu. Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (NXB Thuận Hóa, 1985) dài hơn hai trăm trang, về mặt phương pháp nghiên cứu, công trình vẫn tuân thủ chặt chẽ, tiếp cận theo hệ hình đi tìm sự tương đồng giữa tác phẩm văn học và đời sống trong phản ánh, tái tạo hình tượng nghệ thuật, phô diễn cảm xúc của chủ thể trữ tình. Cuốn sách cũng góp phần làm rõ đặc sắc nội dung tư tưởng và phong vị đậm đà trong thơ Tố Hữu qua ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, thể loại. Tuy nhiên mảng đề tài về biểu tượng trong thơ của Tố Hữu cũng chưa được bàn đến. Và nếu hai công trình trên khai thác thơ Tố Hữu về các mặt chủ đề, đề tài, những nét lớn trong phong cách chủ yếu theo phương diện xã hội học thì công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của tác giả Trần Đình Sử - được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1987 (NXB Hội Nhà văn), tái bản vào năm 1995 (NXB Giáo dục), đã đặt ra và giải quyết hàng loạt vấn đề mà trước đây phê bình văn học của Việt Nam ít quan tâm đến. Đó là những vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật, chất thơ và phương thức thể hiện dưới góc nhìn thi pháp học, một góc nhìn mới mẻ và hiện đại trong nghiên cứu văn học. Đặc biệt, chương III của chuyên luận, mang tên Không gian nghệ thuật là một trong những chương rất đặc sắc Trần Đình Sử đã nói đến không gian nghệ thuật trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây rồi từ đó khẳng định không gian nghệ thuật chủ yếu trong thơ Tố Hữu là không 7
- gian "con đường". Cũng từ không gian nghệ thuật này, lần đầu tiên có một công trình nghiên cứu lớn về thơ Tố Hữu đã đề cập đến vấn đề biểu tượng, cụ thể là con đường trong thơ ông, Trần Đình Sử khẳng định: "Hình tượng không gian quan trọng nhất, đóng vai trò xuyên suốt trong thế giới thơ Tố Hữu là con đường cách mạng. Hình tượng con đường có thể nói là đặc điểm chung của thơ ca cách mạng Việt Nam và của thơ ca cách mạng thế giới. Nhưng ở Tố Hữu được thể hiện nổi bật, nhất quán trở thành nét tư duy cơ bản nhất của thơ ông"[32, tr.218]. Và lần đầu tiên tác giả khẳng định: "Con đường là biểu tượng của sự thống nhất của không gian và thời gian, là không gian vận động, không gian của con người đi tới"[32, tr.218]. Bằng phương pháp liệt kê để thấy tần số xuất hiện biểu tượng qua từng chặng đường thơ, phương pháp phân tích để khái quát lên ý nghĩa của biểu tượng con đường, Trần Đình Sử đã cho thấy đó là không gian công cộng, không gian nhân dân, đó là không gian có hướng, hướng đi tới, đó là không gian lộ thiên, đầy ánh sáng, lộng gió thời đại, gió vũ trụ, và đó còn là không gian xã hội…Tuy vậy, Trần Đình Sử mới chỉ dừng lại ở một biểu tượng nổi bật là "Con đường" với tư cách là yếu tố thuộc không gian nghệ thuật, chứ chưa đề cập đến các hệ thống biểu tượng khác trong thơ Tố Hữu. Và có liên quan tới đề tài "Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975", khi nghiên cứu về Kinh nghiệm sống và biểu tượng thơ, Mã Giang Lân cũng có nhắc tới biểu tượng thơ Tố Hữu trong cuốn Những cấu trúc của thơ (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011). Theo tác giả, "Biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, ngược lại hiện thực khách quan là điều kiện hàng đầu tạo nên biểu tượng" [22, tr.128]. Tiếp đó tác giả điểm qua những biểu tượng của thơ ca dân gian, của thơ ca bác học, một số biểu tượng trong thơ ca nước ngoài, và một vài biểu tượng trong thơ ca của các nhà văn nhà thơ hiện đại Việt Nam, như biểu tượng "sông nước" trong thơ Tế Hanh, biểu tượng "bà" trong thơ Bằng Việt, biểu tượng "sao" trong thơ Chế lan Viên, "đất" trong thơ Nguyễn Đức Mậu, và rất nhiều biểu tượng khác trong thơ Lưu Quang Vũ… Riêng với Tố Hữu, tác giả nhận định "trong thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu, hình tượng con đường chiếm vị trí quan trọng." "Con đường là biểu tượng cho những cuộc lên đường từ gian khổ đến chiến công" [22, tr.139] . Cũng là Tố Hữu, tác giả còn nhận định thêm về hình ảnh người mẹ mang tính biểu tượng cao: "Khi nói đến hình tượng người mẹ trong thơ Tố Hữu, chúng ta nghĩ tới tầm vóc, tính khái quát về người mẹ đã trở thành biểu tượng của non sông đất nước"[22, tr.132]. Hướng nghiên cứu này của tác giả Mã Giang Lân có tính 8
- chất gợi mở rất lớn đối với luận văn trong việc tìm hiểu giá trị của các biểu tượng phản ánh sự vận động và phát triển của đời thơ Tố Hữu. Nghiên cứu về thơ Tố Hữu còn có nhiều tác giả khác: Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Huỳnh Lý, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đình Thi… Trải qua gần bảy mươi năm, các bài viết, phê bình, nghiên cứu về thơ Tố Hữu ngày một nhiều hơn. Nhìn chung sáng tác của Tố Hữu đã được soi chiếu, phát hiện nhiều giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Mỗi người có một cách đánh giá, phân tích riêng, song đều nhất trí cho rằng Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, là lá cờ đầu của văn học cách mạng Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là vẻ đẹp thơ Tố Hữu đã được khai thác đến tận cùng. Vấn đề biểu tượng trong thơ Tố Hữu vẫn chưa thành các đề tài, các công trình lớn. Trong khi đây là đề tài thú vị và là vấn đề có ý nghĩa trong nghiên cứu sự vận động và phát triển của tư tưởng nhà thơ. Với đề tài :"Biểu tượng thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975", chúng tôi mạnh dạn bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu giá trị của các biểu tượng tiêu biểu có ý nghĩa nổi bật trong những sáng tác thời chiến của Tố Hữu, và qua đó có thể nhận ra phong cách nghệ thuật Tố Hữu. 3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu xuyên suốt chặng đường thơ thời chiến của Tố Hữu từ năm 1945 đến năm 1975.Tác phẩm thuộc chặng đường thơ này bao gồm trọn vẹn tập thơ Việt Bắc, tập thơ Gió Lộng, tập thơ Ra trận,và một phần cuối tập Từ ấy, một phần đầu tập Máu và hoa. 4. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc thống kê, khảo sát, phân tích giải mã các biểu tượng nghệ thuật trong thơ Tố Hữu, luận văn hướng tới mục đích làm rõ đặc điểm tư duy nghệ thuật thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu, góp phần khẳng định phong cách thơ độc đáo của nhà thơ Cách mạng này. Qua việc phân tích, tìm hiểu ý nghĩa đa dạng của các biểu tượng, luận văn cho ta thấy rõ hơn sự phát triển của thơ ca thời chiến tranh. Trong đó đặc điểm nghệ thuật được đề cao là : Lời ít, ý nhiều. Một vài biểu tượng nghệ thuật đã có thể cho ta nhìn rõ hoàn cảnh thời chiến của một đất nước, cũng như phẩm chất gan dạ anh hùng của con người đất Việt. 9
- Luận văn cũng khẳng định tài năng, vị trí hàng đầu và những đóng góp của Tố Hữu trong nền văn học cách mạng Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thống kê, hệ thống hóa Sử dụng phương pháp thống kê, hệ thống hóa nhằm tìm ra một các chính xác số lần xuất hiện của các biểu tượng và so sánh được tấn suất xuất hiện giữa các biểu tượng. 5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp Sử dụng phương pháp phân tích để đi vào từng bài thơ, tập thơ cụ thể, khai thác các biểu tượng với các hàm nghĩa của nó. Từ đó nhằm làm nổi bật tính cụ thể, cảm tính và tính tượng trưng, tính kí hiệu, tính thẩm mỹ của các biểu tượng này trong hệ thống các biểu tượng của thơ Tố Hữu. Sử dụng phương pháp tổng hợp để khái quát lại, rút ra đặc điểm chung của các biểu tượng mà Tố Hữu thể hiện trong thơ. 5.3. Phương pháp so sánh So sánh các biểu tượng trong thơ Tố Hữu với các biểu tượng xuất hiện trong một số sáng tác của các nhà thơ cùng thời. Từ đó làm nổi bật những biểu tượng trong thơ Tố Hữu như một đặc điểm riêng, một nét đặc sắc để tìm ra bản sắc thơ thơ ông. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, và kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Biểu tượng trong thơ và hành trình sáng tạo thơ Tố Hữu. Chương 2: Các hệ biểu tượng trong thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975. Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong thơ Tố Hữu giai đoạn 1945-1975. 10
- PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO THƠ TỐ HỮU 1.1. Biểu tƣợng 1.1.1 Quan niệm về biểu tƣợng từ các góc độ khác nhau "Biểu tượng" trong tiếng Việt là một thuật ngữ có nguồn gốc ra đời từ rất sớm, trong buổi bình minh của nhân loại ở Hi Lạp (symbolon) để chỉ đối tượng giữ vai trò như một loại ''kí hiệu'' cổ. Thực tế đã khẳng định biểu tượng phát triển cùng quá trình tiến hoá của nhân loại. Cho tới ngày nay, thuật ngữ "biểu tượng" đã trở nên rất quen thuộc và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Theo triết tự Hán Việt: Biểu có nghĩa là: "bày ra", "trình bày", "dấu hiệu", để người ta dễ nhận biết một điều gì đó, Tượng có nghĩa là "hình tượng". "Biểu tượng" là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính trừu tượng.Thoạt tiên, biểu tượng được dùng theo một nghĩa thực dụng: là một vật (đá, ngọc, sành, hay gỗ) được chia làm hai trong một giao ước như tín vật, khi gặp nhau chắp lại để làm tin. Sau này, theo cách hiểu trừu tượng hơn, biểu tượng là phương tiện phản ánh tư duy, hành vi, khát vọng, kể cả điều cấm kỵ, ám ảnh, sợ hãi. Biểu tượng thể hiện những góc khuất của tiềm thức và vô thức, cho nên biểu tượng "bộc lộ rồi lủi trốn; càng tự phơi bầy sáng tỏ, nó lại càng tự dấu mình đi. Các biểu tượng tiết lộ mà che giấu và che giấu mà tiết lộ"[4, tr.XIV]. Biểu tượng là phương tiện chuyển tải tư tưởng, thông điệp vượt ra ngoài khuôn khổ của dấu hiệu, hình ảnh, âm thanh. Biểu tượng mang đến nhiều điều bất khả tri giác. Nhà từ điển Pháp André Lalande định nghĩa: "Biểu tượng là cái biểu hiện một cái khác căn cứ vào một tương ứng loại suy". Giản dị hơn, "biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động hay đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự hay một điều gì đó"[11, Pg.978]. Bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng chính là sự chia ra và kết lại với nhau, nó hàm chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng luôn biến ảo, nó bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện lại vừa mất đi, khiến cho tư duy luôn phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt lấy vô vàn những ý nghĩa đang còn 11
- tiềm ẩn ngay trong lòng của nó. Chính tính chất đa nghĩa, trừu tượng, thậm chí là mơ hồ của các biểu tượng khiến cho việc phân tích và giải mã biểu tượng trong các tác phẩm văn học không dễ dàng, đôi khi lâm vào tình trạng bế tắc, tạo nên những "cuộc tranh luận liên miên về ý nghĩa của những biểu tượng" (Raymond Firth). Để tháo gỡ những bế tắc nói trên, chỉ "một mình" phê bình văn học sẽ rất khó giải quyết được hết những "đặc tính khó lường" của biểu tượng. Vì vậy, vấn đề giải mã biểu tượng cần có một cái nhìn tổng thể bao gồm cả văn học cũng như những ngành học thuật khác có liên quan như triết học, logic học, ký hiệu học, nhân học,… 1.1.1.1 Biểu tượng, nhìn từ góc độ triết học Theo Từ điển triết học: "Biểu tượng là hình ảnh trực quan, cảm tính, khái quát về các sự vật và hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo lại trong ý thức và không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật và các hiện tượng đến giác quan"[38, tr.98]. Như vậy, nhìn từ góc độ triết học, biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, ngược lại hiện thực khách quan là điều kiện hàng đầu tạo nên biểu tượng. Theo đó, biểu tượng chỉ phản ánh những dấu hiệu đặc trưng của sự vật hiện tượng một cách khái quát, lược bỏ đi những nét riêng biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những gì chung nhất, tiêu biểu nhất mà thôi.Từ cách hiểu này, mọi sự vật của tồn tại khách quan đều có thể trở thành biểu tượng khi được con người tiếp nhận theo ý thức chủ quan của mình.Và, có thể hiểu: "biểu tượng" là khái niệm dùng để chỉ một thực thể bao gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này (cái được biểu đạt). 1.1.1.2 Biểu tượng, nhìn từ góc độ tâm lý Theo quan điểm tâm lí học, biểu tượng là hiện tượng tâm sinh lí do có một sự việc ở ngoại giới tác động vào giác quan khiến ý thức nhận biết được hình ảnh của vật kích thích trở lại trí tuệ hay cảm giác. Từ điển tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, 2000) định nghĩa rằng: "Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri 12
- giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai"[6, tr.41]. Quan niệm tương tự về biểu tượng cũng thấy trong Từ điển Tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên: "Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt".[30, tr.26] Như vậy, tâm lý học coi biểu tượng là một giai đoạn của nhận thức cảm tính cao hơn cảm giác, hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Cùng với cảm giác và tri giác, biểu tượng đã tạo ra những tiền đề cơ sở cho nhận thức lí tính. Nó còn góp phần giúp con người nhận thức được những thuộc tính: bản chất, tính quy luật của sự vật, đem lại nhiều hiểu biết sâu sắc về sự vật. Bởi lẽ biểu tượng luôn gắn liền với các khái niệm với những phán đoán, suy lí, đặc biệt là trí tưởng tượng. Cũng từ đây, tâm lý học chia biểu tượng thành hai loại là biểu tượng của trí nhớ (là hình ảnh của tri giác lúc trước được tái hiện lại trong một hoàn cảnh nhất định) và biểu tượng của tưởng tượng (là hình ảnh mới được trí tưởng tượng tạo nên trên nền của biểu tượng). Trong đó biểu tượng của tưởng tượng là loại biểu tượng thường thấy trong nghệ thuật, đặc biệt ở thể loại thơ ca. 1.1.1.3 Biểu tượng, nhìn từ góc độ văn hóa Theo toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International Thesaurus on Cultural Development) của UNESCO: "Văn hoá là một tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt" [2, tr.164]. Trước đó, C. Levy-Strauss, người đặt nền tảng cho chủ nghĩa cấu trúc, nhà nhân chủng học vĩ đại nhất của Pháp cũng đã rút ra một khái niệm tương tự từ nghiên cứu nhân loại học về các sự kiện văn hoá. Ông viết: "Mọi nền văn hoá đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp ở hàng đầu là ngôn ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo".[4, tr.XXIII] . Cũng ở lĩnh vực nghiên cứu văn hoá học, về phần mình, L.White - nhà nhân học Hoa Kỳ không đồng ý cách hiểu văn hoá như một "trừu tượng lý thuyết", một cấu trúc logic chỉ tồn tại trong tư duy của con người mà nêu lên một định nghĩa nhấn mạnh vào ý nghĩa biểu tượng của văn hóa. White cho 13
- rằng: "Văn hoá là cơ chế của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu tượng hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng đó". Quan niệm của các tác giả về những định nghĩa văn hoá nhìn chung đã có một sự tương đối đồng thuận. Họ thống nhất với nhau ở một điểm, văn hóa, đó là cái làm nên sự khác biệt giữa người và động vật và là cái đặc trưng cho xã hội loài người. Nhà văn hoá học Nga L. Iô-nhin trong lời kết thúc bản tóm tắt giới thiệu các định nghĩa khác nhau về văn hoá đã nhận định "... Các tác giả định nghĩa về văn hoá đã đồng ý với nhau, rằng văn hoá di truyền không theo con đường sinh học mà bằng con đường học tập. Tiếp đó, họ thừa nhận văn hoá trực tiếp gắn liền với các ý tưởng, chúng tồn tại và được truyền đạt dưới hình thức biểu tượng (Symbol)" Qua một số quan niệm về văn hoá nêu ở trên ta thấy có sự tương đồng về mặt ý nghĩa. Các tác giả đều cho rằng, yếu tố cốt lõi của văn hoá chính là "hệ thống các biểu tượng", nó được xem là "tế bào" của văn hoá. Có thể xem "thế giới biểu tượng "- hệ thống các "ký hiệu hàm nghĩa" là hình thái ngoại hiện của văn hoá, còn "hệ giá trị - xã hội" nằm trong lòng mỗi biểu tượng là nội dung cơ bản của nó. Do vậy, "đơn vị cơ bản" của văn hoá chính là "biểu tượng", vật hàm chứa những thông tin - xã hội. Đó cũng là "hạt nhân di truyền" của xã hội, nó làm nên toàn bộ đời sống văn hoá và chi phối mọi hoạt động, mọi ứng xử của con người trong đời sống xã hội, và là cái làm nên sự khác biệt giữa hoạt động của người với động vật. 1.1.1.4 Biểu tượng, nhìn từ góc độ ngôn ngữ học Ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ văn học là "kho tàng" bảo lưu những giá trị văn hóa của một dân tộc. Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể không xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ học dựa trên sự phân tích bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thấy rằng: với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập một tín hiệu, bao giờ cũng phải có hai mặt: Đó là mặt biểu hiện (hình thức tín hiệu) và mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu). Mặt hình thức của tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ. Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại. Như vậy, để trở 14
- thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm hai mặt khác nhau là mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện. Mặt biểu hiện làm nhiệm vụ trung chuyển những ý nghĩ, tình cảm, xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe. Nếu không có cái biểu hiện thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là "ngôn ngữ không hành chức". Mối liên hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là mối liên hệ rất đặc trưng của ngôn ngữ. Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: mỗi một cái biểu hiện luôn chỉ có một cái được biểu hiện tương ứng. Khi mối liên hệ 1–1 này bị cắt đứt thì các quá trình giao tiếp sẽ bị ảnh hưởng hoặc không thể thực hiện được. Do tính chất và số lượng của các từ trong một ngôn ngữ là vô cùng lớn nên ngôn ngữ học cấu trúc luận cho rằng mối liên hệ 1–1 này phải được coi là võ đoán với nhau và phải được quy ước. Ta thấy cả tín hiệu ngôn ngữ và biểu tượng đều có hai bình diện là cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nhưng về mối liên hệ giữa hai mặt đó nói chung có sự khác nhau cơ bản. Mối quan hệ giữa hai bình diện này, đối với hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nói chung là không có lí do, còn với biểu tượng, mối quan hệ ấy là có lí do và cái được biểu đạt luôn luôn lớn hơn cái biểu đạt. Nhà ngôn ngữ học F.Saussure đã khẳng định biểu tượng có một đặc tính là "không bao giờ hoàn toán võ đoán, nó không phải là trống rỗng" vì nó có một "mối tương quan thô sơ nào đó" giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện.Về chức năng, tín hiệu ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp thuần túy, hướng vào đối tượng giao tiếp, còn biểu tượng thực hiện chức năng nhận thức và biểu hiện đối tượng, chức năng đó "không chỉ hướng vào đối tượng mà còn hướng vào bản thể đối tượng". 1.1.1.5 Biểu tượng, nhìn từ góc độ văn học: Từ góc độ văn học, theo Từ điển thuật ngữ văn học thì trong nghĩa rộng, biểu tượng thể hiện "đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật".Theo nghĩa hẹp, "biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời" [12, tr.24].Văn học, nhìn nhận biểu tượng ở hai mặt. Thứ nhất, biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan. Thứ hai, biểu tượng 15
- không chỉ mang nghĩa đen, nghĩa biểu vật, nghĩa miêu tả… mà nói đến biểu tượng là nói đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa biểu cảm. Tóm lại, mỗi ngành khoa học tiếp cận biểu tượng lại có quan niệm, cách định nghĩa về biểu tượng khác nhau căn cứ theo đặc trưng của chuyên ngành mình. Trong mỗi định nghĩa về biểu tượng bên cạnh những nét chung, cơ bản (dấu hiệu - biểu trưng; vật biểu trưng mang một ý nghĩa lớn hơn nó...) lại có những nét riêng phụ thuộc vào từng khoa học khác nhau và trong từng thời kì lịch sử, từng nền văn hóa khác nhau. Vậy, có thể hiểu một cách cơ bản biểu tượng là những hình ảnh tượng trưng được phô bày khiến người ta có thể cảm nhận một giá trị trừu xuất nào đó đang tiềm ẩn trong lòng của nó. Cấp độ đầu tiên của biểu tượng là mẫu gốc. Khi đi vào đời sống văn hoá, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác nhau, dấu vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục. Vì vậy, con đường giải mã biểu tượng để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau những hình tượng có nguồn gốc từ biểu tượng. Riêng biểu tượng ngôn từ có nét đặc biệt ở chỗ, nó không phải là biểu tượng trực quan có thể thấy ngay qua ngũ quan mà phải được chuyển hóa thành một biểu tượng phi trực quan, nó không thể hiện những hình ảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng mà là sự tổng hòa và thẩm thấu toàn bộ những biểu hiện ngẫu nhiên và cá biệt để đạt đến cái bản chất, tất yếu của đối tượng. Biểu tượng nghệ thuật được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa, bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nó chính là sự mã hoá cảm xúc, ý tưởng của nhà văn. Biểu tượng trở thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều biểu tượng thể hiện sự chối từ cách viết trực tiếp giãi bày tâm tư, tình cảm (nhất là đối với thơ ca). Chính điều đó khiến cho biểu tượng nghệ thuật một mặt dễ thức dậy những nỗi niềm từ ngàn đời trong tâm thức của độc giả, mặt khác lại tạo nên cảm hứng về những điều mới lạ cần khám phá. 1.1.2 Quan niệm về biểu tƣợng của luận văn 1.1.2.1 Khái niệm biểu tượng Như đã trình bày ở trên, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm "biểu tượng". Trong luận văn này,chúng tôi tiếp thu cách hiểu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngân Hoa trong luận án tiến sĩ Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam rằng : "Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm biểu tượng dùng để chỉ một thực thể gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con 16
- người (cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này (cái được biểu trưng)"[16, tr.15]. Bởi chúng tôi thấy khái niệm về biểu tượng nói riêng, những lý thuyết về biểu tượng nói chung trong chuyên đề này rất phù hợp với việc tìm hiểu (giải mã) biểu tượng trong thơ Tố Hữu mà chúng tôi sẽ giải quyết trong luận văn của mình. Ở đây mối quan hệ mang tính có lí do, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu tượng, chính là điểm chủ yếu để phân biệt biểu tượng với dấu hiệu, kí hiệu. 1.1.2.2 Tính chất của biểu tượng Từ khái niệm biểu tượng đã nêu, có thể xác định được những tính chất cơ bản của biểu tượng, cụ thể như sau: Tính chất thứ nhất, không thể thiếu của biểu tượng là tính có lý do. Biểu tượng luôn có hai mặt:"Cái biểu trưng" và "cái được biểu trưng", hai mặt này được kết hợp theo tư duy liên tưởng và theo một quan hệ mang "tính có lí do, tính tất yếu". Có lẽ ví dụ tiêu biểu nhất cho điều này, chính là một ví dụ của F.Saussure, cái "biểu trưng công lý là cái cân không phải muốn lấy cài gì thay thế cũng được" [5, tr.124]. Cái cân - "cái biểu trưng" - trong thực tế, khi ở trạng thái thăng bằng nó giữ thế dung hòa, tránh lệch lạc, tránh xung đột giữa hai bên đĩa cân và quả cân, giữ được thế yên ổn, vì lí do như thế, mà người ta đã gán cho nó ý nghĩa biểu trưng cho công lí - lĩnh vực luật pháp luôn đặt mục đích giữ công bằng trong xã hội lên hàng đầu, nhằm giải quyết các mâu thuẫn xung đột của cuộc sống, giữ cho đời sống được ổn định. Ở đây đã có một mối quan hệ nội tại giữa hai bình diện của biểu tượng, chứ không phải là sự quy ước hoàn toàn võ đoán (rất hay gặp trong tín hiệu ngôn ngữ). Cái được biểu trưng (biểu đạt) của biểu tượng chỉ nảy sinh trên cơ sở những đặc điểm bản thể của cái biểu trưng. Các ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng là có thể lí giải được chứ không phải là sự quy ước tùy tiện. Các tác giả Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới đã chỉ ra rất đúng rằng: "Biểu tượng cơ bản khác với dấu hiệu là một quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau, trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức"[4, tr.XIX]. Tính chất thứ hai: Biểu tượng mang tính đa trị. Thực ra, ngôn ngữ tự nhiên cũng có tính đa trị nhưng là đa trị trên bình diện hệ thống, còn khi đi vào hoạt động cụ thể thì tính đa trị trùng với tính đơn trị (chỉ có một nghĩa 17
- được hiện thực hóa trong hoạt động giao tiếp). Ở biểu tượng, tính đa trị thể hiện ở trên cả bình diện hệ thống và bình diện hoạt động. Như đã nói ở trên, nếu như các kí hiệu, tín hiệu thông thường, tỉ lệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là 1:1(một cái biểu đạt cho một ý nghĩa được biểu đạt), thì tỉ lệ này trong biểu tượng lại không như vậy, mà là "chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra được nhiều cái biểu đạt hoặc đơn giản hơn,...cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt"[4, tr.414]. Lại có thể lấy ngay ví dụ về sự đa trị của biểu tượng như các biểu tượng Âm - Dương trong Kinh Dịch: Vạch liền (-) là tượng Dương, còn hiểu là cha, mặt trời, lửa, ngày, hoà bình v.v…; Vạch đứt (--) là tượng Âm còn hiểu là mẹ, mặt trăng, nước, đêm, chiến tranh v.v… Tính chất thứ ba, tính đa chiều: Các hướng nghĩa biểu trưng của biểu tượng không chỉ phong phú mà còn đa chiều, nó không phải xoay quanh một trục duy nhất mà nó thường có nhiều trục, không phải được lưỡng cực hóa mà là đa cực hóa. Ở biểu tượng chấp nhận cái thứ ba (nghĩa là ngoài sự đối cực hai chiều, còn có thể có ý nghĩa khác nữa). Chính vì thế, Henry Corbin đã nhận định: "Biểu tượng báo hiệu một bình diện ý thức khác với cái hiển nhiên lí tính, nó là mật mã của một bí ẩn, là cách duy nhất để nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác; nó không bao giờ có thể được cắt nghĩa một lần là xong, mà cứ phải giải mã lại mãi, cũng giống như một bản nhạc không bao giờ chơi một lần là xong, mà đòi hỏi một lối biểu diễn luôn luôn mới [4, tr.XVIII]. Hiểu được các tính chất này của biểu tượng, chúng ta sẽ giải mã được các biểu tượng một cách khoa học hơn, thấu đáo hơn. 1.1.2.3 Các cấp độ của biểu tượng: mẫu gốc, biểu tượng văn hóa, biểu tượng nghệ thuật và biểu tượng ngôn ngữ nghệ thuật Cấp độ đầu tiên của biểu tượng là mẫu gốc. Mẫu gốc là những tín hiệu thẩm mĩ xuất hiện từ thuở sơ khai trong nền văn hóa chung của nhân loại. Mẫu gốc hay còn gọi là nguyên mẫu, nguyên hình huyền thoại, nguyên sơ tượng hay siêu mẫu, khi đi vào đời sống văn hoá, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh những biểu tượng văn hoá khác nhau, dấu vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong tục. Mẫu gốc nói một cách đơn giản là biểu tượng mẹ, nguyên mẫu của các biểu tượng. 18
- Biểu tượng văn hóa: Các cổ mẫu khi đi vào trong những nền văn hóa khác nhau, chịu sự tác động về những điều kiện kinh tế, xã hội, về tự nhiên, về tôn giáo thì có thể sản sinh ra các biểu tượng văn hóa. Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kị, thần linh. Các biểu tượng văn hóa này vừa có sự duy trì những ý nghĩa biểu trưng của mẫu gốc, vừa có sự điều chỉnh và biến đổi… Biểu tượng văn hóa là sự tồn tại ở bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan. Biểu tượng nghệ thuật: Từ bình diện văn hóa, chuyển hóa vào các loại hình văn hóa, nghệ thuật, một hệ biểu tượng được sáng tạo lại theo những đặc trưng loại hình nhất định: hội họa, sân khấu, văn học,...Có thể nói, mỗi tác phẩm nghệ thuật được hình thành trên một cấu trúc chung nhất đó là "cái biểu đạt" và "cái được biểu đạt".Trong đó, tác phẩm nghệ thuật được hình thành từ nền tảng xã hội trên cơ sở của thực tại xã hội. Bằng ngôn ngữ biểu tượng của mỗi loại hình nghệ thuật, người nghệ sĩ sử dụng những chất liệu xã hội đó để hình thành nên các tác phẩm nghệ thuật . Biểu tượng ngôn từ nghệ thuật: Các mẫu gốc, các biểu tượng văn hóa khi đi vào trong tác phẩm nghệ thuật sẽ chịu sự điều biến của yếu tố chủ thể, từ đó mà sản sinh ra các biểu tượng ngôn từ. Trong loại hình nghệ thuật ngôn từ (văn học), biểu tượng bắt buộc phải xa rời đời sống nguyên khởi của nó để khoác lấy cái vỏ âm thanh ngôn ngữ. Do đó biểu tượng ngôn từ là các biểu tượng nghệ thuật (biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa) cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn ngữ trong văn học. Thế nên, con đường giải mã biểu tượng trong tác phẩm văn học sẽ phải đi từ chính ngôn từ, kết cấu, các thủ pháp,… để tìm ra cái ẩn chìm đằng sau những hình tượng có nguồn gốc từ biểu tượng. 1.1.3 Phân biệt biểu tƣợng và một số khái niệm gần gũi Do là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau, lại có nhiều cách hiểu không hoàn toàn thống nhất nên không dễ dàng xác định ngay được nội hàm của khái niệm biểu tượng. Đôi khi khái niệm này còn dễ bị hiểu lầm lẫn với một số khái niệm gần gũi khác. Nhằm xác định chính xác nội hàm, ý nghĩa thuật ngữ biểu tượng, ta cần phân biệt biểu tượng với hình tượng, tượng trưng, ẩn dụ, phúng dụ.... 19
- 1.1.3 .1 Biểu tượng và hình tượng Cả biểu tượng và hình tượng đều có thể tồn tại trong cùng một tác phẩm nghệ thuật. Và ở mặt nào đó,chúng có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau, rất có thể nhầm lẫn hai khái niệm. Mặc dù về bản chất, chúng có mặt khác nhau cơ bản. Bất cứ một sự vật, hiện tượng khách quan nào có trong đời sống hiện thực, nếu được mô phỏng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều trở thành hình tượng nghệ thuật. Nhưng để có những biểu tượng trong tác phẩm, trước hết nhà văn phải tạo ra được những hình ảnh cụ thể cảm tính có đường nét, màu sắc, hình hài mà người đọc có cảm giác có thể nhìn thấy, sờ thấy, nghe thấy (cái biểu đạt). Tiếp đến, nhà văn chú ý đến việc sắp xếp, bố cục sao cho hình ảnh cụ thể cảm tính đó trở nên nổi bật, gây ấn tượng sâu sắc về mặt ý nghĩa, làm cho người đọc luôn có cảm tưởng rằng đằng sau những hình ảnh, chi tiết, hình tượng có một vài ý nghĩa nào đó khiến họ cảm thấy bị ám ảnh (cái được biểu đạt). Hình tượng giống với biểu tượng ở chỗ: chúng đều được biểu hiện bằng giá trị nhận thức, cảm tính, chủ quan của nhận thức trong việc phản ánh thực tại khách quan của người nghệ sĩ, vả nữa cả hai đều sử dụng những phương tiện biểu đạt chung là ngôn ngữ. Nhưng điểm khác biệt rõ nhất giữa hình tượng và biểu tượng là tính kí hiệu ở biểu tượng, một đặc điểm nổi bật đặc trưng, còn ở hình tượng văn học thì tính kí hiệu không nổi rõ. Cùng là giá trị nhận thức cảm tính nhưng sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật không vượt quá giới hạn của một hình thức biểu đạt cụ thể, trong khi biểu tượng lại vượt quá khuôn khổ của sự biểu đạt, biểu nghĩa. Hình tượng nghệ thuật chỉ chở tải được một ý nghĩa biểu đạt duy nhất mà người nghệ sĩ đã có dụng ý lựa chọn, còn biểu tượng thì năng lực biểu hiện của nó rộng lớn hơn cái ý nghĩa có giới hạn gắn cho nó một cách nhân tạo. Nó có một sức vang cốt yếu và tự sinh. Biểu tượng thực sự có tính cách tân. Qua đây cũng thấy "hình tượng" ở phương diện nào đó là cơ sở hình thành nên "biểu tượng", bởi biểu tượng thực chất là sự nâng cấp của những hình ảnh, chi tiết – nâng cấp bằng cách trao cho nó những ý nghĩa sâu sắc, giàu ấn tượng, chẳng hạn như hình ảnh "Đoàn tàu" trong Hai đứa trẻ ( Thạch Lam) có thể coi là biểu tượng về một cuộc sống đáng mơ ước.., Tuy nhiên không phải hình tượng nào cũng trở thành biểu tượng. Không phải cứ lấy một biểu tượng trong đời sống đưa vào tác phẩm nghệ thuật là lập tức có biểu tượng nghệ 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 257 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 301 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 213 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 149 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 150 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 143 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 170 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 143 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 157 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 121 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 61 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn