intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua 3 tác phẩm - Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai) Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến)

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

52
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong đề tài này, người viết cố gắng phát hiện và chỉ rõ nội dung, hình thức biểu hiện của chất thơ trong ba tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh trên các phương diện cụ thể tương ứng. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua 3 tác phẩm - Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai) Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THANH PHƢƠNG CHẤT THƠ TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH THỜI KỲ ĐỔI MỚI QUA 3 TÁC PHẨM: NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH) KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG (CHU LAI) TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ (PHẠM NGỌC TIẾN) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Hà Nội-2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THANH PHƢƠNG CHẤT THƠ TRONG TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH THỜI KỲ ĐỔI MỚI QUA 3 TÁC PHẨM: NỖI BUỒN CHIẾN TRANH (BẢO NINH) KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG (CHU LAI) TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ (PHẠM NGỌC TIẾN) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Dục Tú Hà Nội-2014 2
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn đƣợc hoàn thành tại Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. Em xin bày tỏ lời tri ân sâu sắc tới PGS. TS Lê Dục Tú, ngƣời đã hƣớng dẫn em thực hiện luận văn này bằng một tinh thần khoa học nhiệt thành và nghiêm túc. Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo trong khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã giảng dạy em, trang bị cho em những nền tảng kiến thức bổ ích, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện đề tài. Và xin cám ơn sự động viên, quan tâm giúp đỡ của những ngƣời thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời gian qua. Với trình độ và kiến văn còn hạn chế của ngƣời viết, luận văn chắc chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn mong muốn sẽ nhận đƣợc những nhận xét, góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và những ngƣời có quan tâm đến vấn đề đƣợc thực hiện trong luận văn. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội,10 .tháng 7 .năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thanh Phương 3
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 6 1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................ 6 2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................ 7 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................... 15 4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA LUẬN VĂN ............................................... 16 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................................... 16 6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN................................................................... 17 CHƢƠNG 1: CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI ..... 18 1.1. Chất thơ và vai trò của chất thơ trong văn xuôi ......................... 18 1.1.1. Chất thơ ....................................................................................... 18 1.1.2. Phân biệt chất thơ, chất trữ tình ............................................... 21 1.2. Vai trò của chất thơ trong văn xuôi ............................................. 22 1.3. Chất thơ trong tiểu thuyết ............................................................. 23 1.3.1. Từ những tiền đề lý luận của tiểu thuyết ................................... 23 1.3.2. Đến biểu hiện của chất thơ trong tiểu thuyết ............................ 26 1.3.2.1. Biểu hiện về nội dung................................................................ 26 1.3.2.2. Biểu hiện về hình thức nghệ thuật ........................................... 29 CHƢƠNG 2: BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐẬM CHẤT THƠ TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG, TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ ........................................................................................... 31 2.1. Bức tranh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng ................................... 31 2.1.1. Vẻ đẹp huyền bí, hoang dại của núi rừng ................................. 33 2.1.2. Vẻ đẹp thơ mộng của Hà thành ................................................. 35 2.2. Chất thơ từ những giấc mơ ........................................................... 38 2.2.1. Quan niệm về giấc mơ ................................................................ 38 2.2.2. Chất thơ biểu hiện từ giấc mơ ................................................... 40 2.3. Chất thơ từ vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ .......................................... 47 4
  5. 2.3.1. Vẻ đẹp trong trắng tinh khôi ...................................................... 48 2.3.2. Tình yêu trinh nguyên, nồng cháy............................................. 49 2.4. Chất thơ từ vẻ đẹp của ngƣời lính ................................................ 53 2.4.1. Tình yêu ngƣời lính ..................................................................... 53 2.4.2. Tình đồng đội............................................................................... 58 CHƢƠNG 3: NHỮNG PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA CHẤT THƠ QUA NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, KHÚC BI TRÁNG CUỐI CÙNG, TÀN ĐEN ĐỐM ĐỎ ..................................................................... 63 3.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu ........................................... 63 3.1.1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh .............................................................. 63 3.1.2. Ngôn ngữ giàu nhạc tính ............................................................. 70 3.2. Giọng điệu trữ tình ......................................................................... 75 3.2.1. Vài nét về giọng điệu .................................................................... 75 3.2.2. Giọng điệu trữ tình ...................................................................... 76 KẾT LUẬN ................................................................................................ 83 5
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Suốt ba mƣơi năm kháng chiến chống ngoại xâm, tiểu thuyết viết về chiến tranh đã góp phần quan trọng vào việc hình thành diện mạo nền văn học dân tộc. Sau 1975, trên tinh thần đổi mới tƣ duy nghệ thuật, tiểu thuyết về chiến tranh vẫn tiếp tục phát triển và góp phần không nhỏ vào sự đổi mới thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam. Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) thực sự là ba tác phẩm mang đến cho ngƣời đọc cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và cuộc sống của ngƣời lính thời hậu chiến, bổ khuyết những khoảng trống mà tiểu thuyết viết về chiến tranh giai đoạn trƣớc 1975 chƣa có điều kiện khám phá. Đây cũng chính là một đóng góp quan trọng của ba tác giả kể trên trong hành trình cách tân nghệ thuật tiểu thuyết. Ngoài những cách tân trên một số phƣơng diện thì theo ngƣời viết vẻ đẹp của chất thơ là một trong nét hấp dẫn, góp phần tạo nên thành công của ba cuốn tiểu thuyết nêu trên. Theo khảo sát thống kê, chất thơ trong tiểu thuyết đặc biệt tiểu thuyết viết về chiến tranh Việt Nam chƣa có nhiều công trình nghiên cứu. Hầu hết, các bài viết chỉ dừng lại ở một số bài viết riêng lẻ nói về tính chân thật, điểm mới trong đề tài chiến tranh sau chiến tranh. Với lý do đó, ngƣời viết đã chọn Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) làm đề tài nghiên cứu cho luận văn. . Với mong muốn khai thác tìm hiểu về chất thơ qua các vấn đề tiêu biểu và đóng góp thêm cái nhìn mới sâu sắc hơn, ngƣời viết đã chọn Chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm nói trên làm đề tài nghiên cứu luận văn. 6
  7. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Nghiên cứu chất thơ trong các tiểu thuyết về đề tài chiến tranh qua ba tác phẩm , ngƣời viết nhận thấy cần có khái lƣợc lịch sử nghiên cứu bài viết liên quan tới các tác phẩm này. Nỗi buồn chiến tranh là một trong những cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của văn học Việt Nam đƣơng đại. Sau khi đƣợc trao Giải thƣởng của Hội nhà văn (1991), cuốn tiểu thuyết này đã gây nên một làn sóng dƣ luận trong giới nghiên cứu phê bình và bạn đọc. Có khá nhiều xu hƣớng bình luận nghiên cứu khác nhau nhƣ: phê phán, phủ nhận, đánh giá dè dặt. Nhƣng hầu hết xu hƣớng đều đánh giá cao cuốn tiểu thuyết trên nhiều phƣơng diện, đƣợc coi là thành tựu xuất sắc của văn học thời kỳ đổi mới. Trong bài viết: Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Đỗ Văn Khang ở Báo Văn Nghệ số 43 năm 1991 nhận xét: “Những đổi mới nghệ thuật của Bảo Ninh nhƣ: cấu trúc trần thuật kép, tính chất đa thanh, kỹ thuật dòng ý thức chỉ là việc làm thuần túy để đánh lừa bạn đọc”. Trong bài Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh của Trần Duy Châu (Tạp chí Cộng sản số 10 năm 1994) nhấn mạnh: “Bảo Ninh đã tạo nên hình ảnh đảo ngƣợc của hiện thực, chuyển đổi các giá trị, biến trắng thành đen, thay khúc ca khải hoàn của dân tộc thành tiếng hát bi thƣơng ai điếu cho những kẻ lạc loài”. [25, tr. 25]. Một xu hƣớng khác nữa là sự cổ vũ động viên nhƣng e dè và đều chung câu hỏi: Liệu rằng cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh có bị dồn nén quá nhiều chất bi không? Nguyễn Phan Hách trong cuộc thảo luận về tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991) đã viết: “Lùi ra xa, đứng cao hơn một chút thì thấy có thể thông cảm đƣợc với tác phẩm này. Tôi chƣa hẳn tán thành hoàn toàn về nội dung, nhƣng cái đẹp, cái tuyệt kĩ, văn chƣơng là văn chƣơng của cuốn sách đã át đi đƣợc những e ngại khác...” [16, tr. 4] 7
  8. Cũng trong cuộc thảo luận này, Vũ Quần Phƣơng nhận xét: “Nếu cái đáng khen trong cuốn sách là chân thực trong tâm trạng, thì chỗ cần lƣu ý tác giả cũng là tính chân thực cần có, trong khi dựng lại bối cảnh hậu phƣơng miền Bắc và những trận đánh trả máy bay Mỹ. Bảo Ninh đã đánh mất cái hào khí rất đẹp của năm tháng ấy, có thể nó ấu trĩ, nhƣng nó có cảm giác tác giả có những điều không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có chỗ cực đoan. Đọc những chi tiết khủng khiếp, đay nghiến, thấy tác giả ác, ta chƣa thấy đƣợc nhân tố làm nên chiến thắng ở đây” [16, tr. 4]. Nhìn chung, các ý kiến của các cây bút nhìn chiến tranh quá gần, thậm chí cảnh giác với nguy cơ chiến tranh, e sợ tác giả rơi vào tình trạng giải thiêng cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Xu hƣớng đánh giá cao đóng góp của Bảo Ninh trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tiêu biểu có Nguyên Ngọc. Trong cuộc thảo luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu (Báo Văn nghệ số 37 năm 1991), ông khẳng định: “Cuốn sách Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là sự nghiền ngẫm về chiến thắng, ý nghĩa và giá trị to lớn và dữ dội của chiến thắng. Nó chỉ cho chúng ta biết rằng, chúng ta đã làm nên chiến công vĩ đại thắng Mỹ với cái giá ghê gớm đến chừng nào. Một đặc sắc nữa của cuốn sách này là tác giả viết với tƣ cách hoàn toàn của ngƣời trong cuộc, không đứng ngoài, đứng trên nhìn ngắm mà đứng trong, thậm chí ở tận đáy của cuộc chiến tranh. Anh viết về cuộc chiến tranh “của anh” gần nhƣ bằng tất cả máu của anh. Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất của văn học đổi mới”. [50, tr. 5]. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh mang lại một góc nhìn mới về chiến tranh, bổ sung cho cách nhìn đã quen, là tiểu thuyết về cuộc chiến tranh ấy (chiến tranh chống Mỹ) với tƣ cách là một cuộc chiến tranh. Tác giả đã trừu tƣợng bớt đi cái phần mục đích, chiến công, nhân tố thắng lợi để chỉ kể về cuộc chiến tranh với tất cả tính chất chiến tranh của nó. Văn học ta đã 8
  9. nói nhiều đến tính chính nghĩa, tính anh hùng, tính cách mạng của cuộc chiến tranh, nhƣng chƣa nói đƣợc gì đáng kể về tính tàn bạo, tính hủy diệt bi thảm của nó, những tính chất không chỉ thể hiện ở cái chết nơi chiến trận, mà còn mở rộng ra thành cái chết trong tâm hồn, tình yêu thành sự dở dang. Có thể nói, tác giả lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta đƣợc nhìn vào cái phía trong bị che khuất, lấp một chỗ trống chƣa đƣợc lấp. Đây là tiểu thuyết về nhà văn, về sự hình thành một kiểu nhà văn, dự báo những thay đổi đáng kể của ý thức văn học. Không nghi ngờ gì, Bảo Ninh đã đóng góp đáng kể, nhiều mặt cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đánh giá cái nhìn về hiện thực chiến tranh, cách viết về chiến tranh thời hậu chiến, trong bài viết Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến – Từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, trích trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975, Phạm Xuân Thạch đã đánh giá: “Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xác lập một cái nhìn mới về hiện thực lịch sử - hiện thực chiến tranh. Mới trong sự đối chiếu với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trƣớc 1986. Cái mới ở đây đƣợc xác định không chỉ ở việc anh đƣa vào trong tác phẩm của mình những chất liệu hiện thực chƣa từng có trong văn học chiến tranh (dẫu điều này cũng có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trƣớc hết thể hiện ở việc anh đã tìm đến một phƣơng pháp tiếp cận hiện thực khác với phƣơng pháp điển hình hóa của văn học hiện thực truyền thống. Anh không tiếp cận hiện thực thông qua những nhân vật điển hình, hoặc mang tính phản ánh, hoặc mang tính lý tƣởng (trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ là sự kết hợ cả hai yếu tố này). Anh xây dựng và tô đậm tính cá biệt của số phận nhân vật” [54, tr. 248]. Nguyễn Đăng Điệp lại nhìn thấy sự mới mẻ trong cách viết và tiếp cận hiện thực của Bảo Ninh qua bài viết: Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Theo ông, “Cho dù viết nhiều về chiến tranh 9
  10. nhƣng xét đến cùng tinh huyết của Bảo Ninh kết tụ trong cuốn tiểu thuyết để đời của ông: Thân phận tình yêu. Toàn bộ tác phẩm là niềm khắc khoải không nguôi của một ngƣời lính bƣớc ra từ cuộc chiến khắc nghiệt ấy. Vì thế, nó trung thực đến tận đáy. Và cũng vì thế mà khuôn mặt của chiến tranh là một khuôn mặt nhàu nát với bao nỗi đau chồng chất. Tên gọi hợp lý nhất cho nỗi đau ấy phải là Nỗi buồn chiến tranh. Bởi thế, đi liền và hòa lẫn với nỗi buồn chiến tranh là thân phận cay đắng của tình yêu. Cả hai chủ đề này xoắn kết với nhau. Nó tựa nhƣ hai mặt của một bản thể thống nhất. Bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của cuộc chiến, tình yêu cũng bị đày đọa, bị đẩy tới bờ vực của sự hủy diệt.[11, tr. 399]. Trong công trình Thi pháp hiện đại, bài viết Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Đỗ Đức Hiểu cũng đánh giá rất cao cuốn tiểu thuyết này: “Trong văn học Việt Nam mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết tình yêu xót thƣơng nhất trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài ba mƣơi lăm năm, những cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm. Nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu thấm vào nhau, hòa lẫn vào nhau, da diết, xót xa, hủy diệt, đó là hai nhịp mạnh của tiểu thuyết”. [22, tr. 266]. Trong cuốn Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, bài viết Thời gian trong Thân phận của tình yêu, Đào Duy Hiệp nhận xét: Tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là hồi ức về chiến tranh của một ngƣời lính – nhà văn. Tính chất hồi ức đã chi phối giọng điệu, tạo ra kiểu thời gian chồng chéo, đan cài vào nhau trong dòng chảy gần nhƣ dòng ý thức triền miên suốt gần 350 trang sách” [20, tr. 267] Trong cuốn Bàn về tiểu thuyết, với bài viết Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975, Bùi Việt Thắng nhấn mạnh tới vấn đề 10
  11. “vai trò của ký ức đối với những thay đổi của cấu trúc tiểu thuyết, nó đƣợc coi nhƣ một thành tố quan trọng dùng để tổ chức tác phẩm. Trong Thân phận của tình yêu (1990) của Bảo Ninh, tỷ lệ quá khứ - hiện tại là ba trên một. Ký ức chính là dòng hồi tƣởng “đi tìm thời gian đã mất” trong tâm lý nhân vật, nối quá khứ với hiện tại. Lối kiến trúc tiểu thuyết kiểu lồng ghép các “mảnh vỡ tâm trạng” khiến ngƣời đọc rất khó tiếp nhận theo lối truyền thống. Kiểu kết cấu này giống nhứ kỹ thuật thiết kế các ngôi nhà ống, ngƣời ta cố tạo ra những “giếng trời” – tức là những “khoảng trống”, dễ nhận ra trong Thân phận tình yêu” [57, tr. 83]. Trong Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu đánh giá Thân phận tình yêu là một hiện tƣợng ngôn từ lạ lùng, mang tính đa thanh, tính đối thoại, là tiểu thuyết mở, nảy sinh từ trực giác, vô thức (không loại trừ ý thức và lý trí). Đó là cuộc hành trình của những mộng du, tỉnh mê, huyền bí. Đi tìm thời gian đã mất của Marce Proust là điểm gặp gỡ của Bảo Ninh với lý luận hiện đại về văn học. [22, tr. 267] Có thể nói, Thân phận tình yêu hay Nỗi buồn chiến tranh ngày càng đƣợc đánh giá cao trong cái nhìn rộng rãi hơn cả về nội dụng, nghệ thuật. Năm 2003, trả lời phỏng vấn trên Báo Sinh viên Việt Nam về văn học 10 năm qua, Nguyên Ngọc lại một lần nữa khẳng định: Từ Nỗi buồn chiến tranh, chúng ta mới thực sự có tiểu thuyết hiện đại [48, tr. 9]. Khảo sát nghiên cứu cho thấy, chủ yếu là các công trình bài viết đánh giá về cái nhìn của Bảo Ninh khi viết về chiến tranh, bút pháp nghệ thuật. Cụ thể khi đề cập tới chất thơ thì chƣa có một công trình chuyên sâu. Chỉ dừng lại ở những bài viết đối sánh nhỏ lẻ nhƣ: Trong cuốn Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử (Phần 2), bài viết Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nguyễn Thị Bình đã nhận định về những văn bản đƣợc tạo lập theo nhãn quan thơ trong đó có Nỗi buồn chiến tranh. “Nhìn sâu vào cách tạo lập văn bản sẽ nhận ra những đặc trƣng của tƣ duy thơ đã 11
  12. chi phối từ quan niệm thể loại đến bút pháp tiểu thuyết. Thứ nhất là sự nổi bật nhịp điệu. Cảm xúc trong thơ đƣợc mã hóa bằng nhịp điệu. Ở Việt Nam, khái niệm “thơ ca” cũng cho thấy nhịp điệu có vai trò rất quan trọng đối với sáng tác thơ. Văn xuôi tự giác về điều này muộn hơn nhiều và nhịp điệu tiểu thuyết trong thời gian dài chủ yếu đƣợc nhìn nhƣ tốc độ trần thuật, sự luân phiên thành phần động – tĩnh. Với Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Chinatown (Thuận), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… nhịp điệu nổi lên nhƣ một cảm hứng sáng tạo, một sự “cố tình của bút pháp” và trở thành một cơ chế tổ chức văn bản” [4, tr. 485] Trong cuốn Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu có viết: “Chất thơ và hƣơng thơm trong cuốn tiểu thuyết chủ yếu tỏa lên từ mối tình của Phƣơng, từ thân thể và tâm hồn Phƣơng” [22, tr. 269]. Để tìm thấy một công trình nghiên cứu chuyên sâu về chất thơ trong Nỗi buồn chiến tranh là điều ít ỏi, vì thế ngƣời viết hy vọng qua luận văn này có thể tìm hiểu toàn diện vấn đề này trên phƣơng diện nội dung và nghệ thuật. * Khảo sát các công trình nghiên cứu tới chất thơ trong Khúc bi tráng cuối cùng của Chu Lai Thống kê cho thấy, hầu hết các bài nghiên cứu viết về Chu Lai cùng những đóng góp của ông trên phƣơng diện nghệ thuật trong thi pháp tiểu thuyết. Chƣa có bài báo, công trình nào đề cập tới chất thơ trong Khúc bi tráng cuối cùng. Sau khi phân loại và đánh giá, ngƣời viết nhận thấy có các vấn đề lớn đã đƣợc tìm hiểu nhƣ: Thứ nhất, Sự mở rộng và đi sâu vào đề tài chiến tranh, ngƣời lính. Phần lớn, các sáng tác của Chu Lai, dù ít hay nhiều, đều khai thác đề tài chiến tranh và ngƣời lính với cái nhìn sâu sắc, đau đàu và nhân bản. Trong Tiểu thuyết đương đại, Bùi Việt Thắng nhận xét: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý nghĩa nhƣ một đề tài lịch sử” [58, tr. 66]. Nguyễn 12
  13. Hòa lại từ một tác phẩm cụ thể của Chu lai mà khẳng định những phát hiện mới của nhà văn: “Với Khúc bi tráng cuối cùng, Chu Lai muốn thể hiện cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huống bi kịch để chiêm nghiệm xem con ngƣời đã làm thế nào để vƣợt thoát ra khỏi những tình huống bi kịch ấy” [58, tr.48]. Tiếp đó nữa là thành tựu về đề tài số phận ngƣời lính thời hậu chiến, vấn đề đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết Chu Lai. Trong Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi sau 1975 qua hệ thống môtíp chủ đề, Bích Thu cho rằng tiểu thuyết của Chu Lai “là sự truy đuổi cuối cùng của quá khứ để tìm nguyên nhân cái ác vì chỉ có nhìn thẳng vào quá khứ, con ngƣời mới tránh đƣợc thảm họa của cái ác, mới có thể trừng phạt cái ác để thanh thản sống với hiện tại, hƣớng tới lẽ phải và điều thiện” [61, tr. 8] Trên Tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng 2/ 1993, trong bài Một đề tài không cạn kiệt, Bùi Việt Thắng đã viết: “Nhân vật Chu Lai đƣợc thể hiện nhƣ những con ngƣời tâm linh. Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát. Đó là những con ngƣời trở về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm đƣợc sự yên ổn trong tâm hồn. Họ sống trong cảm giác không bình yên… đi vào ngõ ngách đời sống tâm linh con ngƣời. Chu Lai làm ngƣời đọc bất ngờ vì những phám phá nghệ thuật của mình. Nhân vật Chu Lai thƣờng tự soi mình, khám phá một bản ngã hay là một con ngƣời trong con ngƣời [56, tr. 104] Trong bài Cuộc tìm tòi về tiểu thuyết in ở Báo Văn Nghệ, số 26, năm 1993, Đỗ Văn Khang đề cập đến nghệ thuật đến nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có nhiều đóng góp mới. Ngày trƣớc nhân vật thƣờng mang một ý phổ quát, tức là có cái gì đó chung cho cả lớp ngƣời…, còn Hai Hùng của Chu Lai có cùng số phận đƣợc miêu tả nhƣ một yếu tố cá biệt, độc nhất 13
  14. nhƣng vẫn mang tính điển hình” [26, tr. 4]. Dù bƣớc đầu đã có một số công trình nghiên cứu khá đầy đủ về tiểu thuyết Chu Lai nhƣ: Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Chu Lai (Phạm Thúy Hằng, Luận văn Thạc Sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội, năm 2003), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai (Tạ Thị Thanh Thùy, Luận văn Thạc Sĩ, Đại học Sƣ phạm Hà Nội, năm 2005. Sự thể hiện hình tượng người lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết Chu Lai (Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Vinh, năm 2006). Nhƣng xét cách toàn diện, nghiên cứu về chất thơ trong tiểu thuyết của Chu Lai vẫn còn thiếu cái nhìn cụ thể chi tiết, chỉ dừng ở các bài khái quát nhƣ: Trên Tạp chí Nhà văn, số 8 năm 2006 với bài Nội lực của Chu Lai, Bùi Việt Thắng đƣa ra những đánh giá mang tính bao quát toàn bộ các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của Chu Lai ở phƣơng diện nhân vật và giọng điệu. Ông nhấn mạnh đến “những dấu son đỏ” nhƣ những cột mốc ghi nhận lộ trình sáng tạo của Chu Lai là Ăn mày dĩ vãng (1992) và Khúc bi tráng cuối cùng (2004) [55, tr. 6] Tựu chung lại đã có những đánh giá tƣơng đối hoàn chỉnh về tiểu thuyết Chu Lai cũng nhƣ những vấn đề xoay quanh việc viết văn của tác giả này. Nó cũng chỉ mới giới hạn ở một phạm vi của một tác phẩm cụ thể nào đó. Chƣa có công trình nghiên cứu về chất thơ trong Khúc bi tráng cuối cùng. Sau khi khảo sát, ngƣời viết phát hiện đây là hƣớng đi mới cho đề tài. * Khảo sát các công trình nghiên cứu tới chất thơ trong Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến Các bài viết về tác phẩm Tàn đen đốm đỏ không nhiểu. Có một số bài viết chủ yếu nói tới tiểu sử, đời tƣ của Phạm Ngọc Tiến ví nhƣ: Phạm Ngọc Tiến và những chuyện thật như đùa trên trang vietnamnet, xuất bản ngày 22/5/2011, Phạm Ngọc Tiến: Đọc Quyền Sư trên trang thông tin của Nguyễn Trọng Tạo, Chân dung Phạm Ngọc Tiến trên trang batinh.com, Nhà văn Phạm Ngọc Tiến: Quyết không sống nhạt trên trang báo Công an 14
  15. nhân dân, Biên kịch phim chính luận Phạm Ngọc Tiến: Đã cưỡi lên lưng hổ thì làm sao xuống được trên trang phaply.net.vn. Nổi bật duy nhất có một bài đề cập đến chất thơ trong sáng tác của Phạm Ngọc Tiến nói chung. Đó là bài Nhà văn Phạm Ngọc tiến: Chất thợ, chất lính, chất văn xuất bản trên báo Tiền Phong. Bài viết nói về những nét bình dị gần gũi trong cuộc sống của tác giả với một số câu chuyện đời tƣ. Mặt khác, bài viết nói về bản chất nội tại con ngƣời Phạm Ngọc Tiến. Ông khởi đầu văn chƣơng bằng một loạt những giải thƣởng. Ở bên trong con ngƣời lúc nào cũng ồn ã, nôn nóng, nồng nhiệt và chân thật đến thái quá, chất thợ, chất lính lấn át hết cả mọi ứng xử tạo nên cái dễ gần suồng sã và tin tƣởng ấy, là một tâm hồn nhạy cảm, cả nghĩ. “Ông viết nhƣ là tự giãi bày cái phần sâu kín bên trong con ngƣời mình, thành thử cái chất thợ, chất lính không còn là gam chủ lực. Hình ảnh ngƣời lính trở nên mềm mại tinh tế hơn cái anh lính có nguồn gốc thợ điện đời thƣờng. Văn Phạm Ngọc Tiến không màu mè ƣớt át, nhƣng cũng không thô tháp vụng về” [14]. Bài viết còn đề cập tới một thế mạnh riêng khác nữa của Phạm Ngọc Tiến: “Biên tập kịch bản nhƣ làm thợ” [14]. Tuy nhiên, ngƣời viết nhận thấy chƣa có bài viết cụ thể nào nói về chất thơ trong Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến. Chính vì vậy, khai thác chất thơ trong sáng tác của ông, ngƣời viết hy vọng sẽ đóng góp một phần nào những phát hiện mới về giá trị nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết theo phƣơng diện chất thơ. 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU * Đối tƣợng Chất thơ trong tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh thời kỳ đổi mới qua ba tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) 15
  16. * Phạm vi nghiên cứu Tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới có hàng trăm cuốn sách đƣợc xuất bản. Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, ngƣời viết chỉ khai thác chất thơ qua: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) Khúc bi tráng cuối cùng (Chu Lai) Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến) 4. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA LUẬN VĂN Triển khai đề tài này, ngƣời viết cố gắng phát hiện và chỉ rõ nội dung, hình thức biểu hiện của chất thơ trong ba tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh trên các phƣơng diện cụ thể tƣơng ứng. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đề ra, ngƣời viết sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp thống kê, phân tích tổng hợp: Phƣơng pháp thống kê giúp ngƣời viết khảo sát, tìm hiểu tần số xuất hiện, sự biểu hiện của những yếu tố có ý nghĩa quyết định, từ đó chỉ ra đƣợc chất thơ trong tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới. - Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: Phƣơng pháp này giúp ngƣời viết khảo sát, phân tích các phƣơng diện nghệ thuật biểu đạt nội dung nhƣ giọng điệu... một cách hệ thống. - Phƣơng pháp cấu trúc: Phân tích tác phẩm nhƣ một hệ thống các yếu tố, từ đó thấy đƣợc chức năng và mối quan hệ giữa các yếu tố ấy với nhau. Phƣơng pháp này có vai trò quan trọng làm rõ đƣợc những đặc trƣng về nghệ thuật (ngôn ngữ, giọng điệu...) gắn kết với việc biểu đạt nội dung nhƣ thế nào. - Phƣơng pháp so sánh: Phƣơng pháp so sánh đƣợc vận dụng để làm sáng rõ những yếu tố kế thừa cũng nhƣ cách tân về nghệ thuật, nội 16
  17. dung biểu hiện chất thơ 6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Chất thơ và chất thơ trong văn xuôi Chƣơng 2: Bức tranh hiện thực đậm chất thơ trong Nỗi buồn chiến tranh, Khúc bi tráng cuối cùng, Tàn đen đốm đỏ Chƣơng 3: Những phƣơng thức biểu hiện của chất thơ qua Nỗi buồn chiến tranh, Khúc bi tráng cuối cùng, Tàn đen đốm đỏ 17
  18. CHƢƠNG 1: CHẤT THƠ VÀ CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI 1.1. Chất thơ và vai trò của chất thơ trong văn xuôi 1.1.1. Chất thơ Xác định chất thơ là một vấn đề rất khó. Đúng nhƣ lời nhận xét của Nguyễn Tuân: “Định nghĩa về chất thơ cho thật chính xác và toàn thập tôi thấy nó cũng khó nhƣ định nghĩa cho chất Uymua (kermous)”. Nhƣng khi chúng ta đã quan niệm thơ không phải là một cái gì thần bí, siêu việt, thơ gắn liền với cuộc sống, với tâm hồn con ngƣời và năng lực sáng tạo qua ngƣời nghệ sĩ thì việc tìm hiểu chất thơ lại là cần thiết và có thể tiến hành đƣợc trên những nét lớn dễ chấp nhận. Hoài Nam từng viết: “Chất thơ của bài thơ nằm trong một cái đích rất mơ hồ nhƣng lại rất cụ thể, nó mơ hồ ở chỗ nó tan biến vào từng câu thơ, nó chảy ra bàng bạc trong từng tác phẩm nhƣng nó cụ thể ở chỗ nó tụ lại ở một điểm ngời sáng nào đó làm cho cái bàng bạc trải rộng kia lấp lánh lên. “Điểm ngời sáng” là nơi gặp gỡ của tất cả các câu thơ, ý thơ, là nơi ngã ba, ngã bảy toả đi các câu thơ, đối với ngƣời làm thơ là nơi cảm xúc gặp gỡ, đối với ngƣời đọc thơ là nơi cảm xúc toả đi. Ngƣời làm thơ mà không bắt nối các cảm xúc tinh tế và trải rộng đi nhiều hƣớng của mình khi tụ lại một điểm thì ngƣời đọc thơ cứ phải đuổi bắt chất thơ bàng bạc, chập chờn và phải sống trong trạng thái chờ đợi vô vọng, phải chịu đựng một bƣớc hẫng hụt trong thi ca” [42, 9] Theo các tác giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì “Chất thơ là chỉ những sáng tác văn học (bằng văn xuôi hoặc văn vần) giàu cảm xúc, nội dung cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu [53, tr. 310]. Hà Minh Đức cho rằng: “Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp đƣợc tạo nên từ nhiều nhân tố. Những nhân tố này cũng có thể có trong nội dung cấu tao của các thể loại khác, nhƣng ở trong thơ đƣợc biểu hiện tập trung hơn và đƣợc hòa hợp, liên kết một cách vững chắc để tạo nên những phẩm chất mới… Chất thơ gắn liền với những rung động và những cảm xúc trực tiếp. Thơ là ở tấm 18
  19. lòng nhƣng cũng chính là cuộc sống, thơ gắn liền với trí tƣởng tƣợng và chất thơ cũng gắn liền với cái đẹp” [15, tr. 36] Qua các ý kiến trên, chúng ta có thể rút ra một số khái quát về chất thơ trên các phƣơng diện: loại hình, mỹ học, cảm hứng, ngôn ngữ: Ở phương diện loại hình: Thơ gắn liền với phƣơng thức biểu hiện trữ tình, nó dành ƣu thế cho cảm xúc của cái tôi trữ tình. Đối với chất thơ trong văn xuôi cũng vậy. Chất thơ đó chính là tâm tình, là cảm xúc, cảm hứng của tác giả và nhân vật. Nhƣ vậy, có nghĩa là có những đối tƣợng cái nên thơ không đƣợc bộc lộ ra ở bên ngoài, nếu miêu tả theo cách sao chép và mô phỏng tự nhiên thì khó có thể tạo ra chất thơ trong tác phẩm. Nhƣng nếu phát hiện ra đƣợc một nét nào đó ẩn sâu trong bản chất của đối tƣợng và cung cấp cho nó một hình ảnh đẹp, một sự giải thích, một sự tô điểm giàu ý nghĩa thẩm mỹ và ý nghĩa xã hội thì chất thơ sẽ xuất hiện và thấm sâu vào hình tƣợng. Trên phương diện mỹ học: Chất thơ đƣợc xem là cái đẹp của tâm hồn, của cuộc sống và cao hơn nữa nó còn nói về cuộc sống với một lý tƣởng đẹp. Ngay khi thơ nói đến cái hùng, cái bi, cái cao cả, cái tầm thƣờng của cuộc sống thì cũng nhìn những cái đó dƣới con mắt của cái đẹp mới có chất thơ. Nếu nói ý thức và thiên hƣớng của mọi hoạt động sáng tạo của con ngƣời theo quy luật của cái đẹp nhƣ Mác nói thì với thơ, ý thơ và cảm hứng sáng tạo biểu hiện rõ rệt đặc tính này. Có 1 nhà thơ cho rằng: “Cái đẹp là địa hạt hợp pháp của thơ ca”, Bôđơle xem thơ ca là: “Ƣớc mong của con ngƣời vƣơn tới cái đẹp cao thƣợng”, Sile nhấn mạnh đến cái đẹp và năng lực tạo cái đẹp ở trong thơ: “Thơ ca biến mọi vật thành đẹp, nó làm tăng vẻ đẹp của những cái gì đẹp nhất, nó đem lại vẻ đẹp cho những cái gì xấu xí nhất”. Mặc dù quan niệm đó của Sile có hơi quá song thực tế nói đến thơ là nói đến cái đẹp, là sự phản ánh cái đẹp, làm đẹp lòng ngƣời, tâm hồn con ngƣời và đó hẳn là một điều hiển nhiên của thơ. 19
  20. Xét trên phương diện cảm hứng: Chất thơ gắn liền với cảm hứng bay bổng lãng mạn, đó là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tƣ tƣởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những ngƣời tiếp nhận tác phẩm. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, có viết: “Bê-lin-xki coi cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó biến sự chiếm lĩnh thuần tuý trí óc với tƣ tƣởng thành tình yêu đối với tƣ tƣởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [56, tr. 45]. Chất thơ đối lập với cái dung tục, thấp kém, đê tiện trong một hiện thực đầy phức tạp. Mặt khác, bản thân cái hiện thực đầy phức tạp, đầy xung đột với những dục vọng muôn vẻ của con ngƣời lại là mảnh đất nuôi dƣỡng cho chất thơ của cuộc sống, của tâm hồn con ngƣời cất cao lên, vƣợt lên khỏi mặt đất “hiện thực” nghiệt ngã để khẳng định giá trị con ngƣời. Nhƣ vậy, ở góc nhìn này chất thơ là một bình diện của hiện thực cuộc sống, nó xuất hiện chính trong cuộc đấu tranh của con ngƣời trong hiện thực vƣơn tới một hiện thực cao hơn. Cho nên, chất thơ không phải là một phần chất tâm hồn con ngƣời từ trên trời rơi xuống mà nó là một phần máu thịt của tâm hồn con ngƣời trong cuộc đấu tranh hiện thực chống lại các thế lực thù địch với con ngƣời. Phương diện ngôn ngữ: Thơ có tính nhạc. Trong dòng “phong cách trữ tình” ngôn ngữ giàu tính nhạc vì bản thân nó giàu chất thơ. Chất thơ trong thơ gắn với nhạc điệu, trong truyện, đặc biệt là truyện ngắn trữ tình, tính nhạc dẫu không rõ ràng lắm nhƣng chính âm hƣởng, tiếng vang của nó lan toả trong lòng ngƣời đọc lại chính là tiếng nhạc đậm đà, dịu dàng, nhẹ nhàng và cũng lại ấn tƣợng. Toàn bộ những phẩm chất trên hợp thành chất thơ trong đời sống văn học. Nó là một phẩm chất tổng hợp đƣợc tạo nên từ nhiều nhân tố nhƣ cảm xúc, cái đẹp, trí tƣởng tƣợng. Chất thơ thƣờng đƣợc dùng để chỉ những 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1