Luận văn Thạc sĩ Văn học: Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945
lượt xem 8
download
Đề tài nghiên cứu có cấu trúc gồm 3 chương trình bày chủ đề xê dịch trong hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân; những cảm hứng lớn trong đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945; chủ nghĩa xê dịch nhìn từ những phương thức nghệ thuật.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ NGUYỄN TUYẾT NHUNG CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ NGUYỄN TUYẾT NHUNG CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội – 2014 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan những luận điểm đƣợc trình bày trong Luận văn này là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trƣớc những luận điểm khoa học mà tôi nêu ra trong Luận văn này. Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Tuyết Nhung 3
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Hà Văn Đức, ngƣời thày đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn tri ân tới các thày cô giáo trong khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Xin cảm ơn sự động viên, quan tâm giúp đỡ của những ngƣời thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn ở bên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945 không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong muốn nhận đƣợc sự góp ý chân thành của thày cô và các bạn. Tôi hi vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận văn sẽ trở thành nguồn tƣ liệu có giá trị đối với việc dạy học tác phẩm văn chƣơng của nhà văn Nguyễn Tuân. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 12 năm 2014 Tác giả luận văn Nguyễn Tuyết Nhung 4
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 7 1. Lí do lựa chọn đề tài.................................................................................. 7 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 9 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu.............................................. 13 4. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................... 14 5. Những đóng góp của Luận văn ............................................................... 14 6. Cấu trúc của Luận văn............................................................................. 15 CHƢƠNG 1. CHỦ ĐỀ XÊ DỊCH TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN .................................................................................. 16 1.1. Chân dung một nhà văn độc đáo, tài hoa ............................................. 16 1.2. Hành trình sáng tác và những tác phẩm chính về đề tài xê dịch.......... 21 1.2.1. Hành trình sáng tác của một cuộc đời phong phú ........................ 21 1.2.2. Những tác phẩm chính về đề tài xê dịch .................................... 24 1.3. Đề tài chủ nghĩa xê dịch trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945.................. 25 1.3.1. Giới thuyết ..................................................................................... 25 1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và đề tài xê dịch ............... 25 1.3.3. Quan niệm về xê dịch .................................................................... 31 CHƢƠNG 2. NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG ĐỀ TÀI XÊ DỊCH CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM .............. 35 2.1. Cảm hứng về cảnh sắc thiên nhiên....................................................... 35 2.1.1. Cảnh sắc đất nước quê hương ...................................................... 35 2.1.2. Cảnh sắc những miền đất lạ ......................................................... 43 2.2. Cảm hứng về con ngƣời ....................................................................... 48 2.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân về con người ................ 48 2.2.2. Các kiểu người giang hồ xê dịch................................................... 49 5
- CHƢƠNG 3. CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH NHÌN TỪ NHỮNG PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT .................................................................................. 82 3.1. Xây dựng thành công những biểu tƣợng độc đáo về xê dịch .............. 82 3.1.1. Biểu tượng thiên nhiên .................................................................. 83 3.1.2. Biểu tượng hành động, ngôn ngữ .................................................. 89 3.1.3. Biểu tượng sự vật, đồ vật .............................................................. 90 3.2. Sử dụng thể loại tùy bút ....................................................................... 95 3.2.1. Nguyễn Tuân gắn bó với thể loại tùy bút ...................................... 95 3.2.2. Tùy bút thể hiện thành công đề tài xê dịch ................................... 97 3.2.3. Tùy bút xê dịch chứa đựng thông tin phong phú, đậm yếu tố tự sự và giàu chất thơ ..................................................................................... 101 3.3. Lối hành văn tài hoa, uyên bác .......................................................... 106 3.4. Vẻ đẹp ngôn ngữ, nghệ thuật từ pháp ................................................ 113 KẾT LUẬN ................................................................................................... 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 123 6
- MỞ ĐẦU 1. Lí do lựa chọn đề tài Nguyễn Tuân (1910 - 1987), là một tác gia lớn của văn học hiện đại Việt Nam, “là một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX" (Nguyễn Ðình Thi), đồng thời cũng là một trong những hiện tƣợng phức tạp của văn học. Ông là một cây bút có sức hút kì lạ, có cách viết độc đáo lôi cuốn. Đọc Nguyễn Tuân độc giả cảm nhận đƣợc những nét đặc biệt, mới mẻ, không bị hoà lẫn vào những cái lờ nhờ, không màu sắc. Trong hơn 50 năm cầm bút, với tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, ông đã để lại một di sản văn học đồ sộ, với nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tùy bút... làm phong phú, đa dạng cho văn học hiện đại Việt Nam. Nguyễn Tuân còn là một định nghĩa về ngƣời nghệ sĩ tài hoa. Ông viết văn với phong cách lạ, “ngông”, uyên bác, là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa nhƣ những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. Có thể nói trong suốt cuộc đời, bằng ngòi bút điêu luyện, Nguyễn Tuân đã làm cho cái đẹp thăng hoa. Ông là nhà văn duy mĩ, có quan niệm nghiêm túc về văn chƣơng nghệ thuật: là nhà văn thì phải để lại một dấu ấn độc đáo, không giống ai trong cuộc đời. Sinh thời, Nguyễn Tuân từng ao ƣớc không ai giống đƣợc mình, khi chết là đem theo nguyên cảo, nguyên bản không để lại một bản sao nào ở đời. Ông đến với cuộc đời, đến với làng văn để đóng một dấu ấn lạ, đem đến một luồng gió mới rồi đột ngột biến mất. Không giống tiền nhân, chẳng có hậu duệ, ông là ngƣời cực đoan, hết mình, đã đẩy sự độc đáo lên thành chủ nghĩa độc đáo. Giống nhƣ một số nhà văn, nhà thơ lớn cùng thời nhƣ Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... Nguyễn Tuân có hai chặng đƣờng sáng tác, 7
- trƣớc và sau Cách mạng. Chặng đƣờng nào cũng thành công, đều có những thành tựu nổi bật, những cống hiến nghệ thuật lớn lao cho nền văn học hiện đại của dân tộc. Trƣớc Cách mạng, Nguyễn Tuân say mê đi tìm hạnh phúc trong chủ nghĩa xê dịch, trong quá khứ Nho giáo đẹp đẽ, đôi khi lại là tìm quên trong truỵ lạc. Sau Cách mạng, nhà văn lại hăm hở hoà mình vào cuộc sống muôn màu muôn sắc của nhân dân. Ngƣời đọc luôn bắt gặp một Nguyễn Tuân đầy cá tính với những trang văn độc đáo, tinh thần lao động nghệ thuật công phu, nghiêm túc trên hành trình đi khám phá tìm hiểu cái đẹp. Văn Nguyễn Tuân còn là một lối văn kén độc giả, chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức (Vũ Ngọc Phan). Là một nhà văn tài hoa, ngƣời đọc mến Nguyễn Tuân về tài nhƣng còn trọng về nhân cách. Mặc dù những sáng tác của ông coi trọng tính thẩm mĩ cao nhƣng Nguyễn Tuân không phải là ngƣời theo chủ nghĩa hình thức. Các tác phẩm của ông bộc lộ quan niệm Tài phải đi với Tâm. Đó là Thiên lƣơng trong sạch, là lòng yêu thiên nhiên yêu nƣớc thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trƣớc uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục. Xê dịch là một đề tài quen thuộc, chiếm một mảng quan trọng của sáng tác Nguyễn Tuân. Đề tài này phù hợp với tâm hồn lãng mạn, tự do, phóng túng, ghét sự gò bó của nhà văn. Đọc những sáng tác này ngƣời đọc vô cùng thích thú, nhƣ đƣợc nhập cuộc trong những cuộc du hí hấp dẫn qua những miền đất lạ, khám phá cảm giác mới mẻ, lạ lẫm trƣớc phong cảnh, phong tục, con ngƣời; thấy rõ hơn những tâm tƣ sâu kín của tác giả và thêm yêu mến thiên nhiên, con ngƣời của đất nƣớc quê hƣơng. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về Nguyễn Tuân nhƣng chúng tôi nhận thấy chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Là một giáo viên phổ thông, chƣơng trình dạy ở Nhà trƣờng 8
- có hai tác phẩm tiêu biểu cho hai chặng đƣờng sáng tác của nhà văn, đó là truyện ngắn Chữ người tử tù (trích trong Vang bóng một thời) và tùy bút Người lái đò Sông Đà (trích tùy bút Sông Đà). Nhƣng để hiểu thấu đáo cái hay cái đẹp của từng trang viết, từng đặc trƣng thể loại văn Nguyễn Tuân đến học sinh phổ thông không phải là dễ dàng. Bản thân tôi luôn hứng thú, yêu mến những trang viết tài hoa và phong cách độc đáo của ông. Đi sâu tìm hiểu về đề tài này, tôi có cơ hội bổ sung, trau dồi kiến thức về Nguyễn Tuân thêm phong phú, vững vàng; hiểu hơn về một nhà văn mà tôi luôn yêu mến, kính trọng cũng nhƣ mang lại có cái nhìn rộng mở hơn khi dạy các tác phẩm của ông trong nhà trƣờng. 2. Lịch sử vấn đề Hơn một nửa thế kỷ qua, từ khi Nguyễn Tuân xuất bản tác phẩm đầu tay Một chuyến đi cho đến hôm nay, văn chƣơng và con ngƣời của ông luôn trở thành đề tài gây sự chú ý cho ngƣời đọc nói chung và cho các nhà nghiên cứu nói riêng. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con ngƣời và các sáng tác của ông trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám 1945. 2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung Là một nhà văn lớn tài hoa, độc đáo, là một hiện tƣợng văn học phức tạp, nên sáng tác của Nguyễn Tuân thu hút sự chú ý, quan tâm mạnh mẽ của các nhà nghiên cứu nhƣ Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh, Giáo sƣ Phan Cự Đệ, Giáo sƣ Trƣơng Chính, Giáo sƣ Phong Lê, nhà văn Vũ Ngọc Phan, nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn, Ngọc Trai, Nguyễn Thị Thanh Minh, Hoài Anh, Nguyễn Thành, Lê Quang Trang, PGS.TS Hà Văn Đức, PGS.TS Tôn Thảo Miên, ... Những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm nói chung. Ở nhóm này, tập trung các bài viết của các nhà phê bình nghiên cứu nhƣ Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh với Con đường Nguyễn Tuân đi đến với bút ký chống Mỹ. Nhà nghiên cứu Vƣơng Trí Nhàn với bài Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn 9
- Tuân - huyền thoại một thời. Nguyễn Trung Thành với Nguyễn Tuân, người săn tìm cái đẹp. Nguyễn Thị Thanh Minh với Nguyễn Tuân và cái đẹp... Những bài viết về phong cách Nguyễn Tuân qua một số tác phẩm cụ thể. Ở nhóm này, có một số bài viết cụ thể sau: Đọc lại Vang bóng một thời của nhà văn Thạch Lam, Tác phẩm Chùa Đàn của Giáo sƣ Hoàng Nhƣ Mai, Cái thật và cái tài hoa trong Chữ người tử tù của Nguyễn Ngọc Hóa, Đọc Sông Đà của Nguyễn Tuân của Trƣơng Chính, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Hoài Anh... Những bài viết ghi lại những hồi ức kỷ niệm về Nguyễn Tuân. Ở nhóm này có thể kể đến những bài viết của vợ nhà văn, của bạn bè viết về ngƣời chồng, ngƣời chú, ngƣời bạn và ngƣời thầy của mình. Đây là những bài viết bộc lộ những cảm xúc rất thật, rất chân thành về nhân cách và tài năng của Nguyễn Tuân. Hồi ức của họ là một trong những tƣ liệu quý giá nhất về nhà văn. Những bài nghiên cứu về tùy bút Nguyễn Tuân: bài viết của Giáo sƣ Phong Lê Nguyễn Tuân trong tùy bút; Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh có bài Thể tài tùy bút của Nguyễn Tuân (Trích trong lời giới thiệu cuốn Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập một, NXB Văn học 1981). Đó làm rõ mối quan hệ giữa thể văn tùy bút với sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật và dấu ấn độc đáo cũng nhƣ sở trƣờng của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “cá tính và phong cách của Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tùy bút nhƣ là một tất yếu”. Trong văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan nhất và tự do nhất”. PGS.TS Hà Văn Đức có bài Tùy bút của Nguyễn Tuân sau Cách mạng Tháng Tám (Một số đặc điểm thể loại) in trong tập Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996) đã đƣa ra nhiều đánh giá và nhận định sâu sắc về những đặc điểm của tùy bút Nguyễn Tuân xét về mặt thể loại... 10
- 2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết giới thiệu về Tuyển tập Nguyễn Tuân (1981) đã khẳng định: trƣớc Cách mạng Nguyễn Tuân không thuộc số những cây bút hoàn toàn thoát li xã hội, mất hẳn gốc rễ với cuộc đời. Con người ấy có thói quen đi để viết, để thỏa mãn khao khát tự do, khao khát sự thoải mái, khao khát được ngắm trời ngắm biển, được thưởng thức cho đầy đủ, thỏa thuê vẻ đẹp của quê hương, đất nước mình ... Một cái tôi xê dịch và hưởng lạc coi cuộc đời chỉ như một trường du hí. Đi không mục đích và qua những bức tranh ngoại cảnh đã bộc lộ chất thơ của một tâm hồn xê dịch. PGS.TS Hà Văn Đức cũng cho rằng: không gian có một sức cuốn hút mãnh liệt đối với Nguyễn Tuân. Ông khao khát được tự do, được thỏa sức ngắm trời, ngắm biển. Tâm hồn của nhà văn lãng mạn Nguyễn Tuân hướng tới sự xê dịch cũng là để thỏa mãn những đòi hỏi của giác quan và thưởng thức những khoái cảm thẩm mĩ mà những miền đất mới, xa lạ đem lại ... Cái đẹp mà Nguyễn Tuân tìm kiếm trước hết là vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh vật trên con đường xê dịch. Những cảnh sắc thiên nhiên của nhiều miền quê khác nhau được Nguyễn Tuân miêu tả thật đẹp, thật nên thơ, nên họa (Nguyễn Tuân và cái đẹp, Tạp chí khoa học, 5/1994). Nhà văn Vũ Ngọc Phan lại đánh giá về ham muốn xê dịch của Nguyễn Tuân: du lịch trở nên một bệnh, vai chính trong truyện là một chàng thiếu nên lúc nào cũng muốn đi, lúc nào cũng muốn mình cần phải đi. Không đi thì buồn bã, mệt mỏi, rầu rĩ, khổ não, đau đớn. Chiếc vali, tẩu thuốc lá, sân ga, con tàu là những vật chính để đưa người lãng tử lê gót bốn phương trời. Nhưng đây là đi, không có định kiến; không có mục đích gì cả, đi cho chán chân, rồi lại trở về nhà ít lâu rồi lại lấy sức mà đi nữa. Con bệnh cố nhiên không phải là một người ốm yếu mà là người sung sức quá, lại không có một công việc gì lớn lao dùng cái sức của chàng nên chàng phải tiêu đi trong sự 11
- xê dịch, tiêu đi để cho não cân được căng thẳng, tiêu đi để mua lấy sự phát triển giác quan. (Nhà văn hiện đại, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989). Nhận định của Giáo sƣ Trƣơng Chính đã chỉ ra nguyên nhân lối sống và đề tài xê dịch trong sáng tác Nguyễn Tuân: Ông là một nhà văn lãng mạn đại diện cho phong trào lãng mạn của ta khi đã suy vong. Cái lối sống ấy chỉ có thể đưa ông đến một cái tự tử, tự tử dần trong cuộc sống: tức là sự trác táng và sự xê dịch. Xê dịch không mục đích, xê dịch mà để xê dịch. Trác táng là thoát li trong thời gian và xê dịch là thoát li trong không gian. Thế rồi, rượu, thuốc phiện, ả đào, và đi, đi để thay đổi hoàn cảnh, để có dịp trụy lạc thêm. Những khi không có dịp trụy lạc và xê dịch thì hiu quạnh, thẫn thờ như người không hồn, buồn da diết, buồn có thể tự tiêu diệt mình được. Ông kéo dài cuộc sống bê tha đó, tưởng không có ngày nào chấm dứt. Đó không phải là hình ảnh riêng của Nguyễn Tuân mà còn là hình ảnh của một số thanh niên trí thức tiểu tư sản thành thị sống bế tắc trong chế độ cũ (Vài nét về con người và tác phẩm của Nguyễn Tuân, Tuyển tập Trƣơng Chính, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội ,1997). Giáo sƣ Phan Cự Đệ cũng có nhiều bài nghiên cứu với cái nhìn mới mẻ và xác đáng. Bài viết trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, tập 2, Phan Cự Đệ đã có cái nhìn tổng quát về quá trình “lột xác” đầy đau khổ và sự thay đổi quan điểm thẩm mỹ của nhà văn. Ông cũng có những đánh giá mới mẻ nghiêng về khía cạnh nghệ thuật: Trước Cách mạng, các nhân vật trong tùy bút lãng mạn của Nguyễn Tuân chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của tính cách nhà văn mà thôi. Tác giả đã hóa thân ra thành Nguyễn, Vi, Bạch, Hoàng, Thông Phu để tìm cách nói lên những cạnh khía khác nhau của cái Tôi kênh kiệu, lập dị, của cái Tôi nổi loạn đập phá, của cái Tôi giang hồ lãng tử [16;110]... Nhìn chung, những bài nghiên cứu về Nguyễn Tuân đã cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin về nhà văn này. Các bài viết đều đã tiếp cận và đánh 12
- giá về nhân cách cũng nhƣ những đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân đối với nền văn học Việt Nam, một cái tôi vận động trƣởng thành qua hai giai đoạn trƣớc và sau 1945, gắn với những bƣớc ngoặt to lớn của lịch sử dân tộc. Đặc biệt, các bài viết về đề tài xê dịch đều khẳng định: Nguyễn Tuân là ngƣời ham đi, luôn thích xê dịch, đam mê cuộc sống phiêu lãng giang hồ; một cái Tôi cá nhân độc đáo, ngông ngạo; gắn bó thủy chung với thể tùy bút, có sở trƣờng về tùy bút và chỉ ở thể văn này ông mới bộc lộ rõ nhất cái tôi khinh bạc, lãng tử, tài hoa của chính mình. Những bài viết đó đã mang đến cho chúng tôi những hiểu biết ban đầu khi nghiên cứu đề tài này. Tiếp thu truyền thống nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi xin góp một chút công sức của mình vào kho tƣ liệu nghiên cứu về tác gia Nguyễn Tuân với đề tài Chủ nghĩa xê dịch trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đề tài của chúng tôi chủ yếu phác họa hình tượng cái tôi giang hồ lãng tử Nguyễn Tuân qua việc tìm hiểu và phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài xê dịch cũng nhƣ tập trung khảo sát thế giới nghệ thuật của nhà văn thông qua các tác phẩm ấy. 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng: Luận văn chúng tôi quan tâm tới là những biểu hiện của bức tranh thiên nhiên, cảnh vật, phong tục, con ngƣời; cái Tôi tác giả đƣợc miêu tả trong những sáng tác ở đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, chúng ta thấy cả trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đều thể hiện niềm đam mê xê dịch. Tuy nhiên, ở mỗi chặng đƣờng sáng tác, mục đích và cảm hứng xê dịch của ông khác nhau. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát đề tài xê dịch trong các tác phẩm trƣớc 1945 đƣợc in trong Nguyễn Tuân toàn tập, Tập I và Tập II do Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh sƣu tầm và biên soạn. 13
- Chúng tôi tiến hành khảo sát du kí Một chuyến đi (1938), tiểu thuyết Thiếu quê hương (1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943) để làm nổi bật những đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong đề tài xê dịch. 3.3. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu: Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu, lí giải trên cơ sở khoa học những đặc điểm thiên nhiên, cảnh vật, con ngƣời đƣợc miêu tả trong những sáng tác xê dịch; những đặc sắc nghệ thuật và đánh giá về thế giới quan, hình tƣợng cái Tôi Nguyễn Tuân trƣớc 1945. Từ đó, chúng tôi muốn một lần nữa tái khẳng định tài năng và phong cách độc đáo của ông. Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc, có hệ thống đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám. Từ đó, thấy đƣợc vị trí của đề tài xê dịch trong sự nghiệp sáng tác của ông, đặc biệt thấy đƣợc hình tƣợng cái tôi lãng tử cũng nhƣ tài năng của một ngƣời nghệ sĩ suốt đời cống hiến cho nghệ thuật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những công trình đi trƣớc kết hợp với những tìm hiểu, nghiên cứu riêng trong phạm vi một đề tài nghiên cứu, luận văn của chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau: Phƣơng pháp lịch sử; phƣơng pháp hệ thống; phƣơng pháp loại hình; phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học. 5. Những đóng góp của Luận văn 5.1. Luận văn vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trƣớc, vừa tìm tòi lựa chọn khám phá để từ đó làm hiện rõ những đặc điểm của chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng. 5.2. Kết quả của Luận văn ít nhiều góp phần gợi mở hƣớng tiếp cận, đọc hiểu những tác phẩm của Nguyễn Tuân ở đề tài xê dịch nói riêng và các tác phẩm 14
- văn xuôi cùng đề tài xê dịch của một số nhà văn khác nói chung trên phƣơng diện lí thuyết loại hình và đặc trƣng thi pháp. Giải quyết những vấn đề đặt ra, luận văn không chỉ đem lại cho độc giả không chỉ yêu mến nhà văn Nguyễn Tuân mà còn có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về tác giả. Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh khi nghiên cứu về tác phẩm, tác giả Nguyễn Tuân. 6. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn chúng tôi gồm có 3 chƣơng với các nội dung sau: Chƣơng 1: Chủ đề xê dịch trong hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân Chƣơng 2: Những cảm hứng lớn trong đề tài xê dịch của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng 8 - 1945 Chƣơng 3: Chủ nghĩa xê dịch nhìn từ những phƣơng thức nghệ thuật Và cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo. 15
- CHƢƠNG 1 CHỦ ĐỀ XÊ DỊCH TRONG HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN 1.1. Chân dung một nhà văn độc đáo, tài hoa Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910, quê ở làng Nhân Mục, Thƣợng Đình, nay thuộc phƣờng Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông là nhà văn chính gốc Hà Nội, mặc dù ông có một thời gian khá dài sống lang thang xê dịch nhiều nơi, sau này mới gắn bó với Hà Nội. Nguyễn Tuân trƣởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Cả một thế hệ, trong đó có cụ Tú Lan, thân sinh của nhà văn, vốn gắn bó với cửa Khổng sân Trình bỗng dƣng trở nên lỗi thời trƣớc xã hội giao thời lộn xộn, sinh ra tƣ tƣởng chán nản bất đắc chí. Ngay từ nhỏ, ông đã đƣợc lớn lên trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc với những phong tục, nề nếp từ một thời xƣa đang tàn dần và biến đổi vì sự xâm nhập của văn minh phƣơng Tây. Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tƣ tƣởng cũng nhƣ phong cách nghệ thuật của ông. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt vọng. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (1929) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu ngƣời Việt. Học bạ ghi trong 5 năm không công sở nào đƣợc nhận vào làm việc. Lúc này cha mẹ, vợ và các em đều ở thị xã Thanh Hóa, nơi cụ thân sinh làm việc. Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì "xê dịch" qua biên giới Đông Dƣơng sang đất Thái Lan không có giấy phép. Theo hồi kí Cát bụi chân ai của Tô Hoài kể lại trong chuyến tàu hoả từ Nôm Pênh ra đến Poipet có hai ngƣời trẻ tuổi, mặt non choẹt, vƣợt biên giới sang Xiêm, đó là Nguyễn Tuân và Lƣơng Đức Thiệp. Cả hai từng tham gia bãi khóa phản đối rồi bị đuổi học. Không biết ai đã nghĩ ra cuộc đi mạo hiểm này, có thể bởi những uất ức khi bị đuổi học, cuộc sống tù 16
- túng, cùng quẫn hay cách nghĩ bồng bột tƣởng bƣớc chân đến những nơi xa xôi là lên hƣơng đổi đời. Để làm lộ phí, Nguyễn Tuân đã phải lấy đi hoa tai, khuyên vàng của vợ. Đến Thái Lan, hai ngƣời bị cảnh sát bắt vì vƣợt biên trái phép; bị giam chung với những tội phạm ngƣời Xiêm rồi bị giải về Nôm Pênh. Đến Nôm Pênh, bị tống ngay xuống Sài Gòn, giam ở bóp cảnh sát. Hôm sau giải ra Hải Phòng, Hà Nội, rồi về giam tại Thanh Hóa khoảng một năm. Ở tù ra, ông định vào Nam Kỳ nhƣng đi đến Vinh thì bị bắt trở lại. Kể từ đây, ông lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con đƣờng ăn chơi trụy lạc, thành kẻ "bất đắc chí", nhƣ một ngƣời hư hỏng hoàn toàn. Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì gặp gỡ, tiếp xúc với những ngƣời hoạt động chính trị. Gia đình dựng nhà cho ông tại quê, tức làng Mọc, Ngã Tƣ Sở, Hà Nội. Ngôi nhà hai tầng, Nguyễn Tuân gọi là “Am Sông Tô”. Theo Tô Hoài trong Cát bụi chân ai, ông còn có một chỗ ở khác là một gian gác xép tại phố Hàng Đẫy (tức phố Nguyễn Thái Học ngày nay): Khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho ra nhân vật nào cũng là nhân vật Tôi. Trong sách cũng tương tự ngoài đời, người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà dư tửu hậu chán chê rồi rời bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà... Nguyễn Tuân có một gian gác nhỏ ở một phố khuất. Trong buồng mắc chéo cái võng đay. Không bàn ghế, không hoả lò không be lọ, không trai gái. Chỉ độc chai nước lọc mấy quyển sách dưới sàn với hộp cá sácđin và bánh mì. Có khi nằm võng cả tuần không ló ra đường, không cầm bút, không khách khứa nào gõ cửa cái buồng đã khoá trái, khước từ mọi trò chuyện, chỉ mình với mình, gần như tịch cốc. Rồi bất thần lại biền biệt đi đâu, chìm đắm trong cuộc truy hoan nào rồi lại về náu mình ở cái buồng con [29]. Từ 1942 -1945, Nguyễn Tuân ngày càng bế tắc, suy sụp và đã có ý định tự sát. Cách mạng tháng Tám đã thay đổi cuộc đời và trang viết nhà văn. Ông nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến; hân hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử, tự "lột xác" đứng vào hàng ngũ nhà văn 17
- Cách mạng. Ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc đi kháng chiến, liên tục đi và viết. Từ 1948 - 1957, ông giữ chức Tổng thƣ kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông đi nói chuyện nhiều nơi và trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Nguyễn Tuân mất ngày 28/7/1987 tại Hà Nội để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo tài hoa. Năm 1996, ông đƣợc Nhà nƣớc truy tặng Giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Nguyễn Tuân là một nhà văn hóa lớn, một trí thức giàu lòng yêu nƣớc và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nƣớc của ông có những nét riêng: yêu phong cảnh đẹp của quê hƣơng đất nƣớc, tha thiết với tiếng Việt và gắn bó với những giá trị văn hóa cổ truyền, những nhạc điệu đài các của lối hát ca trù, những thú chơi tao nhã cổ truyền, những nét đẹp rất riêng của Việt Nam. Nguyễn Tuân là nhà văn có cá tính rất độc đáo và ý thức cá nhân phát triển cao. Ông là ngƣời tự do, phóng túng; ông quan niệm “đời là một trƣờng du hí”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Viết là một hình thức chơi văn độc đáo nhƣng ông đã đẩy việc chơi đến đỉnh cao – chơi một cách nghệ thuật. Viết văn trƣớc hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình. Ham du lịch, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này thành lý thuyết - “chủ nghĩa xê dịch”. Học theo chủ nghĩa xê dịch, nhà văn thể hiện khát khao thích phiêu lƣu, thèm khát những cảm giác mới lạ, những nẻo đƣờng, những miền đất mới, đƣợc gặp gỡ muôn mặt ngƣời trên con đƣờng giang hồ mê mải. Với ông, xê dịch là một nguồn sống bồng bột để giải thoát những bế tắc chán chƣờng trong cuộc đời. Hơn nữa, là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những cảm giác mãnh liệt, Nguyễn Tuân không thích cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt, khuôn phép, yên ổn, cầu toàn; ông thích khám phá những phong cảnh tuyệt mĩ của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội... Nguyễn Tuân còn là ngƣời rất mực rất mực tài hoa uyên bác, am tƣờng Hán học, Tây học. Rất mực đề cao và gìn giữ nhân cách nghệ sĩ nên ông trân trọng những thú chơi tao nhã của những trí thức Nho gia tài hoa sinh bất 18
- phùng thời, căm ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn hóa. Ông am hiểu nhiều ngành văn hóa, nhiều môn nghệ thuật khác nhau nhƣ hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, địa lí... để tăng cƣờng khả năng diễn tả của nghệ thuật ngôn từ. Sự tài hoa uyên bác khiến cho các trang tùy bút Nguyễn Tuân lấp lánh chất trí tuệ; mang đến cho ngƣời đọc những khoái cảm thẩm mỹ và vốn tri thức văn hóa, khoa học ở nhiều các lĩnh vực khác nhau. Nguyễn Tuân là nghệ sĩ chân chính có tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, quý trọng nghề nghiệp và ý thức cá nhân phát triển cao. Ông quan niệm nghề văn đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn (truyện Nhà Nguyễn,1945); ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp (truyện Hai tấm vé số, 1944) và nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí khổ hạnh (Tùy bút Những đứa con hoang, 1943). Đối với ông văn chƣơng trƣớc hết phải là văn chƣơng, nghệ thuật trƣớc hết phải là nghệ thuật và làm nghệ thuật phải có phong cách độc đáo. Ông đƣợc đánh giá là định nghĩa hoàn hảo nhất về ngƣời nghệ sĩ. Nhƣng về bản chất ông không theo chủ nghĩa hình thức thuần túy, đánh đu biến hóa với tu từ chữ nghĩa mà Tài phải đi với Tâm. Đó chính là Thiên lƣơng trong sạch; là lòng yêu đất nƣớc, tha thiết với những giá trị cổ truyền; là nhân cách cứng cỏi, đức tính thẳng thắn trung thực. Bạn đọc khâm phục ông về tài nhƣng còn trọng ông về nhân cách. Khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ ra lơi lỏng mà ngƣợc lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Ông thực sự là một nhà văn suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật (Nguyễn Ðình Thi), là ngƣời "sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa". Trƣớc Cách mạng tháng Tám, sáng tác của ông dồn sức chủ yếu vào việc phục hiện các giá trị văn hóa tinh thần. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xƣa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù điều kiện không cho phép nhà văn bộc lộ trực tiếp tâm sự u hoài, ngƣời đọc vẫn cảm nhận đƣợc một tấm lòng chân thành đối với dân, với nƣớc. Ông đã 19
- ghé vai vào chống chọi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ vọng gìn giữ những giá trị thiêng liêng vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt Nam. Nếu có thể ví trang sách nhƣ tấm lá chắn hữu hiệu thì Nguyễn Tuân, giai đoạn trƣớc 1945, chính là ngƣời chiến sĩ chiến đấu với cái Xấu cái Ác, để bảo vệ thành trì Chân - Thiện - Mĩ. Là nhà văn yêu cái Đẹp, nhƣng trƣớc Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Ðẹp của ông đậm màu sắc chủ quan; là cái Đẹp thuần túy, duy mỹ, nghệ thuật vị nghệ thuật. Ông chủ trƣơng một cái Đẹp không có nội dung xã hội, giai cấp, thời đại; tách rời cái có ích và quan niệm đạo đức, một cái đẹp chỉ nhằm thỏa mãn những khoái cảm thẩm mĩ cá nhân. Sau Cách mạng, quan niệm của ông đã có sự hài hòa cân đối. Cái Ðẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu của Nhân Dân nhƣ có thể cầm lên tay mà nâng niu ngắm nghía. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng mà đƣợc nâng lên thành ý thức về sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại. Trƣớc Cách mạng tháng Tám, trung tâm thế giới nghệ thuật Nguyễn Tuân là những cái tôi xê dịch: những con ngƣời buồn chán sống vô vị; mang tâm trạng dằn vặt. Không gian thiên nhiên chỉ là những cái mơ hồ vụn vặt gắn với nỗi ám ảnh thời gian và gợi sự bức bối, ngột ngạt. Ngƣợc lại sau Cách mạng, thực tế phong phú tƣơi rói, sống động trang văn của ông: vùng đất Tây Bắc, vùng giới tuyến Vĩnh Linh. Cảnh vật mang tầm vóc lớn lao kỳ vĩ và là bè bạn với con ngƣời, tham gia vào công cuộc cải tạo của con ngƣời. Không còn bắt gặp những cá nhân luôn đấu tranh nội tâm mà đại diện cho những phẩm chất đẹp, tƣ thế khoẻ, tinh thần hứng khởi của ngƣời công dân một nƣớc độc lập. Ông có dịp đi nhiều, mở lòng đón nhận thanh sắc của cuộc sống mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trƣớc kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu nƣớc thƣơng dân một cách kín đáo, thì giờ đây con ngƣời tài hoa uyên 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm (bản diễn nôm) đến Truyện Kiều (Nguyễn Du)
86 p | 310 | 60
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại Việt Nam
87 p | 231 | 53
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 306 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vị trí của thể loại truyền kì trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam
150 p | 192 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Tạ Duy Anh
113 p | 105 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những cách tân kịch của A.P. Chekhov
142 p | 129 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Trương Duy Toản
171 p | 94 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hiện tượng Epiphany trong tập truyện ngắn "Người Dublin" của James Joyce
137 p | 96 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn