intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm hồi kí của các nhà thơ Lưu Trọng Lư – Huy Cận – Xuân Diệu

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

27
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn góp phần tạo một cái nhìn rộng mở, linh hoạt hơn về thể loại hồi kí, đồng thời có những đóng góp nhất định nhằm làm sáng rõ vị trí, đặc điểm của các nhà thơ ở thể loại này. Có thể khẳng định, đây là công trình đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của hồi kí Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm hồi kí của các nhà thơ Lưu Trọng Lư – Huy Cận – Xuân Diệu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐẶNG NGỌC HUYỀN ĐẶC ĐIỂM HỒI KÍ CỦA CÁC NHÀ THƠ LƯU TRỌNG LƯ – HUY CẬN – XUÂN DIỆU LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại Hà Nội-2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐẶNG NGỌC HUYỀN ĐẶC ĐIỂM HỒI KÍ CỦA CÁC NHÀ THƠ LƯU TRỌNG LƯ – HUY CẬN – XUÂN DIỆU Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại Mã số:60.22.34 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân Hà Nội-2010
  3. MỤC LỤC Trang Mục lục…………………………………………………………………..... 1 PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................... 4 L ........................................................................................ 4 2. Lịch sử vấ ............................................................................................ 4 2.1 Nghiên cứu khái quát về sự nghiệp của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu .............................................................................................................. 5 2.1 Nghiên cứu về hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu............. 6 3 Đố ượ g v p ươ g p áp g ê ứu................................................... 7 3.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 7 3.2. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 8 3.2.1 Phương pháp phân tích tổng hợp.......................................................... 8 3.2.2 Phương pháp khảo sát thống kê............................................................ 8 3.2.3 Phương pháp so sánh............................................................................ 8 4. Nhiệm vụ nghiên cứu v ó g góp ủa luậ vă .................................... 8 4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................... 8 4.2 Đóng góp của luận văn............................................................................ 8 5. Cấu trúc nội dung luậ vă ...................................................................... 8 C ươ g : Khái quát v hồi kí ................................................................... 9 1.1. G ớ uyế v ểl ạ ồ k ........................................................................ 9 1.1.1. Định nghĩa hồi kí.................................................................................. 9 1.1.2. Quan niệm về hồi kí của người viết...................................................... 13 1 2 Hồ k r g vă V ệ Nam ệ ạ ……………………………. 17 1
  4. 3 Hồ k ủa Lưu Tr g Lư, Huy Cậ , Xuâ D ệu…………………….. 22 C ươ g 2: Đặ ểm ộ u g ủa ồ k Lưu Tr g Lư, Huy Cậ , Xuâ D ệu ………………………………………………………………… 26 2 Ga ả v uổ ơ………………………………………………….. 26 2.1.1 Hình ảnh người mẹ và người cha thân yêu .…………………………. 26 2.1.2 Gương mặt những người thân và những câu chuyện đáng nhớ của tuổi thơ................................................................................................................... 31 2.2 Tháng ng y và ữ g gườ bạ quý………………………... 33 2.2.1 Cuộc sống dưới mái trường…………………………………………... 33 2.2.2 Những người thầy tài năng và tâm huyết…………………………….. 36 2.2.3 Những người bạn đáng quý …………….............................................. 38 2.2.3.1 Nhà thơ Xuân Diệu………………………………………………… 39 2.2.3.2 Nhà văn Nguyễn Tuân …………………………………………….. 41 2.2.3.3 Nhà thơ Phạm Hầu ………………………….…………………….. 42 2.2.3.4 Những nhà văn cùng thời khác…………………………………….. 44 2 3 N ữ g mố ì ơ mộ g………………………………………………... 46 2.4 Quá trình sáng tác ……………………………………………………….. 53 2.4.1 Bức tranh đời sống xã hội ……………………………………………….. 53 2.4.2 Quá trình trưởng thành và sáng tác …………………………………. 59 2.5. H ạ ộ g xã ộ ……………………………………………………… 61 2.5.1 Nghề nghiệp …………………………………………………………. 61 2.5.1.1 Nghề giáo………………………………………………………….. 62 2.5.1.2 Nghề báo…………………………………………………………... 64 2.5.1.3 Viên chức………………………………………………………….. 65 2.5.2 Công tác cách mạng ………………………………………………… 66 2
  5. C ươ g 3: Đặ ểm g ệ uậ ủa ồ k Lưu Tr g Lư, Huy Cậ , Xuâ D ệu …………………………………………………………………. 68 3.1. Ng ệ uậ ẫ ắ, l ê ……………………………………. 68 32 G g ệu rầ uậ ………………………………………………... 72 3.2.1 Giọng trữ tình thấm thía ……………………………………………... 74 3.2.2 Giọng điệu ngọt ngào ………………………………………………... 77 3.2.3. Giọng suy tư, triết lý…………………………………………………. 79 3 3 Ngô gữ rầ uậ ………………………………………………….. 82 3.3.1 Ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh ………………………………… 83 3.3.2 Ngôn ngữ đan xen giữa lời kể, lời cảm và miêu tả…………………… 89 KẾT LUẬN.................................................................................................... 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 97 3
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hồi kí phát triển mạnh mẽ ở Phương Tây từ thế kỉ XIX và đã trở thành một thể loại văn học Việt Nam vào những năm 30, 40 của thế kỉ XX. Sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội về tất cả mọi mặt, sự giao lưu văn hóa Đông Tây trở nên gần gũi và sâu rộng hơn bao giờ hết đã thúc đẩy tinh thần dân chủ phát triển. Nhu cầu bộc lộ bản thân, hoặc trình bày thẳng thắn những suy tư, quan điểm được tự do thoải mái hơn trước. Hồi kí như một dòng sông âm ỉ chảy theo dòng phát triển xã hội khi nhiều người có nhu cầu viết về mình. Người ta có quyền nói ra tất cả sự thật mà họ biết, đã trải qua, hay đã được chứng kiến; có quyền lên tiếng đánh giá sự việc, hiện tượng nào đó theo cách nhìn của cá nhân. Hồi kí là thể loại hữu dụng được lựa chọn, vì không thể loại văn học nào cho phép người biết tự do trình bày kí ức, tâm tư, tình cảm của mình như hồi kí. Viết hồi kí, cũng không phân biệt nghề nghiệp, giới tính, lĩnh vực hoạt động. Người viết có thể là chính trị gia, ca sĩ, diễn viên, người mẫu, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học…thậm chí có thể là một cá nhân vô danh nào đó nhờ các trang báo điện tử, diễn đàn mạng đăng tải. Sự xuất hiện của các tác phẩm hồi kí đều được dư luận chú ý. Trong số đó, hồi kí do các nhà văn, nhà thơ, những người hoạt động ở lĩnh vực văn học nghệ thuật viết vẫn được độc giả quan tâm hơn cả. Đề tài nghiên cứu Đặc điểm hồi kí Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu của chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé làm sáng rõ những đặc trưng nội dung và hình thức của thể loại này qua các tác phẩm hồi kí của ba nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 4
  7. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, là ba nhà thơ tiêu biểu, với ba phong cách riêng tạo nên sự phong phú cho thơ ca Việt Nam. Trong cả sự nghiệp cầm bút, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đã gặt hái được nhiều thành công và có vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà. Xuân Diệu, Huy Cận được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I) năm 1996, đến năm 2000 – Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cũng có tên Lưu Trọng Lư. Bên cạnh những vần thơ tha thiết, nồng nàn, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu cũng viết hồi kí như để tổng kết lại quãng thời gian cuộc đời đã qua. Ki ức của bất kì ai cũng có những điểm tối và những ánh sáng lấp lánh. Hồi kí của các ông bên cạnh những câu chuyện riêng tư vẫn đậm đà tư liệu xã hội. Dù thơ ca mới là lĩnh vực sáng tác chính nhưng hồi kí vẫn mang dấu ấn phong cách đặc sắc của các nhà thơ. Cùng những công trình nghiên cứu sâu sắc về sự nghiệp thơ văn của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, chúng tôi, muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định sự đa dạng trong sáng tác của các nhà thơ thông qua việc khảo sát một số tác phẩm hồi kí: Những bước đường tư tưởng của tôi (Xuân Diệu – 1958), Hồi kí song đôi (Huy Cận – 1986), Mùa thu lớn (Lưu Trọng Lư – 1978), Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư 1987) Số lượng tác phẩm dù không nhiều nhưng những cuốn hồi kí của các nhà thơ thực sự có một nội dung tư tưởng phong phú và đặc sắc về nghệ thuật. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Nghiên cứu khái quát về sự nghiệp của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu. Là những nhà thơ lớn, có phong cách độc đáo, sáng tác của các Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu rất được giới nghiên cứu phê bình quan tâm. Số lượng công trình nghiên cứu về ba nhà thơ mới tài hoa này thực sự đồ sộ và phong phú. 5
  8. Dường như việc nghiên cứu về họ là nguồn không bao giờ cạn. Sau gần một thế kỉ xuất hiện trên văn đàn, cho đến nay Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu vẫn là những chân dung được chú ý. - Thơ Lưu Trọng Lư – Những lời bình. Mai Hương - tuyển chọn và biên soạn. Nxb. Văn hóa thông tin, 2000 - Xuân Diệu – về tác gia và tác phẩm. Lưu Khánh Thơ tuyển chọn và giới thiệu. NXb Giáo dục, 1995. - Huy Cận – về tác gia và tác phẩm. Trần Khánh Thành, Lê Dục Tú tuyển chọn và giới thiệu. NXb Giáo dục, 2000 ….. 2.2 Nghiên cứu về hồi kí của Lưu Trọng Lư – Huy Cận – Xuân Diệu Hồi kí không phải là lĩnh vực sáng tác chính của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu. Viết hồi kí với các nhà thơ chỉ là nhu cầu tâm lí, muốn được giãi bày, được sống lại một thời đã qua. Những câu chuyện của các nhà thơ chính là nguồn tư liệu phong phú để người đọc hiểu thêm về bức tranh xã hội mà họ đã sống, về cuộc đời, về những tác động sâu sắc đến tư tưởng thơ văn của họ. Mùa thu lớn (1976), Nửa đêm sực tỉnh (1989) của Lưu Trọng Lư viết về kí ức tuổi thơ và những mối tình thơ mộng, đã thu hút người đọc ở những câu chuyện cảm động và lối kể có duyên. Hồi kí song đôi (2000) được Huy Cận viết từ những năm 90 nhưng đến năm 2000 sau khi sửa chữa, bổ sung mới cho xuất bản. Đây là hồi kí Huy Cận viết khi Xuân Diệu mất, ông đang ở Pari không về kịp. Nỗi đau ấy ngoài Huy Cận không ai có thể hiểu được. Xuân Diệu đâu chỉ là đồng nghiệp mà trên hết Xuân Diệu với Huy Cận là người bạn thân thiết nhất. Hai người như hai anh em sinh đôi. Vì vậy mà Huy Cận đặt tên hồi kí của mình là “Hồi ki song đôi”. Cuộc sống và thơ 6
  9. đã cho tôi người bạn thân nhất, cho tôi tâm hồn tri kỉ, tấm lòng tri âm nơi Xuân Diệu(…). Tôi đang viết hồi kí chung cho cả hai người…Phần hồi kí của Xuân Diệu do Xuân Diệu kể lại với Hoàng Trung Thông và Tịnh Hà (em trai ông) nhưng được Huy Cận viết lại cho gọn lời và mạch lạc. Những bước đường tư tưởng của tôi (1959) được biết đến là tác phẩm tiểu luận, phê bình. Trong đó ông cũng kể lại một cách thành thực quá trình lột xác của mình, chuyển bờ tư tưởng, từ ý thức cá nhân, tiểu tư sản trở thành ý thức công dân, ý thức Cách mạng. Cách mạng đã thay đổi đời và thay đổi thơ ông, đem lại cho ông cũng như nhiều nhà Thơ mới cuộc giải phóng thực sự về tư tưởng, hướng tới cái chung của Tổ quốc, của cộng đồng và nhân dân. Qua những trang hồi kí, các nhà thơ đã thể hiện được suy nghĩ của mình ở nhiều phương diện: nghệ thuật, xã hội và con người. Có thể nói rằng việc nghiên cứu hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu còn là một đề tài mới mẻ, chưa được chú ý. Nhưng chúng tôi hi vọng rằng sau công trình này sẽ có thêm nhiều nghiên cứu, chuyên luận cùng đề tài để hoàn thiện và làm phong phú hơn sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu cũng như của văn học Việt Nam hiện đại. Hiện nay chúng tôi chưa tìm thấy công trình nghiên cứu nào về hồi kí của ba nhà thơ. Có chăng chỉ là một số bài báo nhận xét, đánh giá khi các cuốn hồi kí xuất bản, hoặc trong một vài bài báo nghiên cứu về hồi kí của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam nói chung có nhắc đến như: - Đặc điểm của Hồi kí 1975-2000, Nguyễn Quang Hưng, (Tạp chí văn học nghệ thuật, số 4.2006). - Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, Lý Hoài Thu, Tạp chí văn học nghệ thuật số 10.2008 7
  10. Vì thế hi vọng qua đề tài nghiên cứu này chúng tôi sẽ đem tới cái nhìn tương đối đầy đủ về số lượng hồi kí hạn chế của ba nhà thơ. 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm nổi bật trong hồi kí của các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu qua các tác phẩm Mùa thu lớn, Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư), Hồi kí song đôi (Huy Cận), Những bước đường tư tưởng của tôi (Xuân Diệu). 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Phương pháp phân tích tổng hợp Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng trong việc nghiên cứu của đề tài. Trên cơ sở phân tích các dẫn chứng tiêu biểu, giá trị nội dung và nghệ thuật của các cuốn hồi kí chúng tôi sẽ khái quát đặc trưng nổi bật ở hồi kí Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu. 3.2.2 Phương pháp khảo sát thống kê. Chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát thống kê để có được những dẫn chứng cho việc nghiên cứu đề tài. 3.2.3 Phương pháp so sánh Để làm nổi bật đặc trưng ở mỗi cuốn hồi kí của các nhà thơ, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với các tác phẩm hồi kí của nhiều nhà văn, nhà thơ khác. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của luận văn 4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có gắng tổng hợp các thành tựu nghiên cứu trước đây về giới thuyết về hồi kí. Đồng thời, luận văn đi tìm hiểu nội dung của các cuốn hồi kí để tái 8
  11. hiện chân dung người kể chuyện với các tư cách đời sống: con người nghệ sĩ, con người bình thường và nhân chứng lịch sử xã hội. Cùng với khía cạnh nội dung, luận văn cũng làm sáng rõ đặc điểm nghệ thuật trong các cuốn hồi kí từ cách chọn lọc, dẫn dắt tình tiết, đến ngôn ngữ trần thuật và giọng điệu trần thuật. 4.2 Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần tạo một cái nhìn rộng mở, linh hoạt hơn về thể loại hồi kí, đồng thời có những đóng góp nhất định nhằm làm sáng rõ vị trí, đặc điểm của các nhà thơ ở thể loại này. Có thể khẳng định, đây là công trình đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của hồi kí Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu. Từ những cuốn hồi kí được nghiên cứu, độc giả sẽ có thêm cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc đời, sự nghiệp và con người của các nhà thơ thông qua những gì họ bộc lộ qua dòng hồi ức. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành ba chương: Chương 1: Khái quát về hồi kí Chương 2: Đặc điểm nội dung hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu. Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật biểu hiện hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu. 9
  12. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỒI KÍ 1.1 Giới thuyết về thể loại hồi kí 1.1.1 Định nghĩa hồi kí Theo 150 thuật ngữ văn học “Tác phẩm hồi kí là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả (“tôi” tác giả, không phải là tôi hư cấu ở một số tiểu thuyết, truyện ngắn), kể về những sự kiện trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến. Hồi ký rất gần với nhật ký ở hình thức giãi bày, ở chỗ không dùng các thủ pháp cốt truyện, ở cách kể theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý đến các sự kiện mang tính chất tiểu sử” (1;155). Sách Từ điển văn học định nghĩa “Hồi kí: còn được gọi là hồi ức (...) Lời văn của hồi kí cốt xác đáng, trung thực, giàu suy nghĩ và cảm tưởng cá nhân” (10;319). Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm Hồi kí là ghi chép dựa trên sự hồi tưởng lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người chứng kiến hoặc tham dự”, “là thể văn thuật lại những sự việc mà tác giả đã trải qua hoặc chứng kiến, phần nào có mối liên hệ với thời đại” (9;61). Như vậy, hầu hết các từ điển đều thống nhất cho rằng hồi kí có tính xác thực về sự kiện và tính chủ quan của người viết. Ở châu Âu, hồi kí ra đời sớm, từ thời cổ đại Hi Lạp phát triển liên tục ở các thời trung đại, Phục Hưng, Khai Sáng, cho đến hiện nay. Trong văn học hiện đại, hồi kí là thể loại thông dụng, với rất nhiều tác phẩm nổi tiêng của các nhà văn tiêu biểu. Hồi kí vì thế trở thành nguồn cung cấp thông tin về tiểu sử, về tư liệu lịch sử, xã hội. Nhưng không phải tất cả hiện thực xã hội, hay tất cả tiểu sử cuộc đời đểu có trong hồi kí mà chỉ những phần hiện thực thuộc về tầm nhìn, thuộc về quãng 10
  13. thời gian mà người viết trực tiếp trải qua và thực sự mới được tái hiện. Cho nên trong hồi kí, nhân vật chính, vẫn là cái tôi cá nhân của tác giả, người cung cấp thông tin về con người, hiện thực quanh mình. Như Huy Cận nói: Viết hồi kí là sống lại một lần nữa cuộc đời mình, mà cũng là san sẻ cho người khác trong thiên hạ vui buồn của mình, thân phận của mình và phần nào những trải nghiệm dọc đời tôi đã sống. Có nhiều nhà văn lớn viết hồi kí và không ít trường hợp, các cuốn hồi kí đó đã trở thành sáng tác làm nên sự nghiệp văn chương của họ. Hồi ký thường mang đậm tính chủ quan, các sự kiện được kể lại ở đây là ấn tượng của trí nhớ nhưng không phải lúc nào cũng chính xác và đầy đủ tuyệt đối. Kí ức luôn bị bao phủ bởi lớp sương mờ ảo của thời gian, cho nên đôi khi những sự kiện, thông tin từ hồi kí còn mang tính phiến diện, chủ quan. Tuy nhiên ở một khía cạnh nào đó những sự thiếu hụt về sự kiện, sự phiến diện đó lại được bù đắp bằng sự diễn đạt sinh động của tác giả. Chính điều này đem đến cho hồi kí giá trị như một tư liệu của đương thời. Do không đòi hỏi nhiều ở tính định hình cấu trúc và định hướng thẩm mĩ nên một số tác phẩm hồi kí có mối quan hệ gần giống với: văn xuôi lịch sử, truyện, chân dung văn học, tự truyện, nhật kí…Tôn trọng tính chân thật về số liệu, thời gian, địa điểm hồi kí gần với văn xuôi lịch sử và có cốt truyện, tình tiết, đề tài cuộc sống như truyện. Ở một phương diện nào đó, khi các nhà văn, nhà thơ viết hồi kí, nhớ lại về bạn bè, về đồng nghiệp thì hồi kí gần với chân dung văn học. Nhưng phải nói rằng hồi kí giống với nhật kí và tự truyện hơn cả. Nhật ký là loại văn ghi chép hàng ngày, vốn thiên về tóm tắt sự kiện đang diễn ra trong chính cuộc sống thường nhật của người viết theo hình thức trần thuật ngôi thứ nhất số ít, có đáng số ngày tháng. Nhật kí là sự ghi chép lại câu chuyện, cảm xúc của cá nhân, nó thường rất chân thành, không hề có yếu tố hư 11
  14. cấu hay bịa đặt. Nhật kí ghi lại những gì đã xảy ra, đã trải nghiệm. được viết ra chỉ cho bản thân người ghi chứ không tính đến việc công bố ra dư luận. Người viết nhật kí tôn trọng sự thật, nhưng cũng có cách đánh giá theo cảm nhận chủ quan của mình. Nhật kí giống hồi kí ở chỗ không có sự cách biệt giữa thời gian viết và thời gian được nói tới. Tự truyện bao gồm cả yếu tố truyện (hình thức, một thể loại tự sự) và yếu tố tự thân (nội dung, bản thân) của người của người viết truyện. Tác phẩm tự truyện thường có thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua của tác giả như một chỉnh thể, tạo nên những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người viết tự truyện có khi vận dụng hư cấu, thêm thắt hoặc xắp xếp lại các chi tiết của cuộc đời mình. Nếu tác giả tự truyện thường tập trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tương tác với thế giới bên ngoài, thì hồi ký thường lưu ý trước hết đến thế giới bên ngoài ấy, với những con người, cảnh quan đã được tác giả tiếp xúc, nếm trải. Sự khó khăn trong việc phân định loại thể của tự truyện so với hồi ký sẽ chỉ được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học giải quyết với từng trường hợp cụ thể, tác phẩm nhấn mạnh ở khía cạnh tự truyện hơn hay hồi ký hơn, mà thôi. Trong thực tế sáng tác, hồi ký có thể được khai thác theo nhiều hướng. Có tác phẩm chủ yếu nhằm miêu tả cuộc sống khách quan với những bức tranh xã hội rộng rãi mà người viết có dịp chứng kiến và thể nghiệm. Tác giả ít nói đến mình, cái tôi như lui về bình diện thứ hai, còn nhân vật chính là quần chúng, là nhân dân. 1.1.2 Quan niệm về hồi kí của người viết Viết hồi kí là một nhu cầu chính đáng của con người nhằm kể lại cuộc đời của mình hoặc một giai đoạn lịch sử mà mình là nhân chứng tham gia. 12
  15. Hồi kí là thể loại đặc biệt. Nó làm sống lại thời kì lịch sử mà tác giả đã trải qua với những dấu tích độc đáo về mọi phương diện của cuộc sống. Hồi nghĩa là quay lại, trở lại. Hồi kí nghĩa là ghi lại những sự việc, sự kiện thuộc về quá khứ đã đi qua, nó là phần hồi ức, kỉ niệm sâu đậm của người viết. Mọi câu chuyện trong hồi kí đề được khơi lại từ màn sương kí ức của tác giả. Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ, thuộc về cái đã qua. Hồi kí có thể nặng về người hoặc việc, có thể theo dạng kết cấu - cốt truyện hoặc kết cấu – liên tưởng. Trên cơ sở những ấn tượng của hồi ức, người viết hồi kí tiếp nhận và ghi chép lại hiện thực ở bình diện ngôi thứ nhất. Vì vậy, hồi kí có thể không tránh khỏi phiến diện, mang tính chủ quan. Theo quan niệm của nhà văn Tô Hoài, một người có rất nhiều tác phẩm hồi kí xuất sắc, muốn viết cho được hồi kí, người viết rất cần có sự dũng cảm và trung thực. Trong cuộc sống bộn bề phức tạp, dám nhìn thẳng vào sự thật là một điều hết sức đáng quý. Không phải ai cũng sẵn sang và đủ bản lĩnh để đối đầu lại với những cái đã qua đặc biệt là những cái đã qua mang ấn tượng không vui, không tốt đẹp. Viết hồi kí, cũng như sáng tác các thể loại khác cần phải có tài năng, kinh nghiệm sống dồi dào được đào sâu tích luỹ từ hiện thực khách quan. Nếu ai cho rằng viết hồi kí là dễ dàng bởi chỉ đơn thuần là trần thuật lại sự việc, biến cố, kỉ niệm theo trí nhớ thì thật sai lầm. Nhớ lại quá khứ thì dễ, nhưng làm sông dậy quá khứ ấy lại chẳng dễ chút nào. Trải qua biết bao nhiêu phong ba bão táp của lịch sử với cả vinh quang và cay đắng, con người càng muốn được viết lại, ôn lại kí ức. Nhiều cái hồi trẻ ta thấy đúng thấy hay, về già lại thấy sai thấy xấu, đó cũng là đối cực tạo cảm xúc, nhu cầu muốn viết lại. Thời đã qua đối với người đọc mọi thế hệ đều là kho thông tin bí mật và giàu có để có thể hiểu sâu sắc hơn về xã hội về cuộc đời. Hồi kí giống 13
  16. như những thước phim quay ngược lại để “xem” lại những gì mình trải qua trong quá khứ. Hồi kí ghi nhận lại dòng hồi tưởng, hồi ức bằng trí nhớ nhớ về những sự việc đã xảy ra đối với bản thân trong quá khứ. Tất nhiên chỉ những sự kiện thực sự có ấn tượng mạnh mới đủ sức in sâu đậm trong tâm trí người viết, ít có yếu tố hư cấu, thường kể ở ngôi thứ nhất. Hồi kí rất gần với tiểu thuyết tự truyện khi cùng khai thác về cuộc sống của cá nhân mình và đem vào đó cuộc sống của nhiều người khác nữa. Viết hồi kí là thêm một lần được “sống lại” như Lưu Trọng Lư đã nói. Thời gian cuộc đời chẳng chờ đợi ai cả, chẳng cho ai cái quyền được thắm lại lần thứ hai. Nhưng con người hoàn toàn có quyền cho mình cơ hội được là mình, được kinh qua lại những cảm giác xa xưa bằng cách hồi tưởng, bằng cách nhớ nhung. Và tất nhiên bao giờ niềm thương, nỗi nhớ ấy cũng để lại trong tâm hồn chúng ta sự xót xa vì hoài niệm và nhớ tiếc, “tiếc nhớ những cái gì chỉ đến một lần mà thôi” (Lưu Trọng Lư). Tôn trọng và yêu thương quá khứ là tôn trọng và yêu thương bản thân mình. Dù cái ngày đã qua nhiều tiếng cười hay thấm đẫm nước mắt nó vần là một phần không thể nào chối bỏ. Soi vào kí ức là để nhận ra mình, để được cùng buồn, cùng vui với cái ngày xưa. Mười năm trở lại đây, khi các tác phẩm văn học ít gây được tiếng vang đối với bạn đọc thì các cuốn hồi kí hay tự truyện xuất bản và không xuất bản lại tạo ra một làn sóng xã hội mạnh mẽ. Vậy tại sao hồi kí lại thu hút được đông đảo người viết và người đọc trong xã hội Việt Nam những năm gần đây đến như vậy? Sự phát triển mạnh mẽ của nó có đơn thuần chỉ là sự a dua theo trào lưu hay thực sự là nhu cầu tự thân của người viết? Tất nhiên trước hết, viết hồi kí là một nhu cầu khách quan. Nhưng không phải ai, tác giả nào khi bắt tay viết hồi kí đều có sự suy xét kĩ về hiệu ứng dư luận khi hồi kí được tung ra. Cho nên không phải cuốn hồi kí nào được xuất bản, hay 14
  17. được truyền tải đến độc giả đều thực sự có giá trị. Có những cuốn hồi kí tạo ra ấn tượng mạnh mẽ tác động vào lương tâm bạn đọc, có cuốn dựng lên sự choáng váng bởi nó vén mở một bí mật hay một nhân vật một sự thật nào đấy, và cũng có những cuốn hồi kí u ám hận thù. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí đặc biệt là báo chí mạng (internet)…đôi khi lại trở thành công cụ hữu dụng cho những cuốn hồi kí “đen”. Thực tế xã hội cho thấy, có nhiều cuốn hồi kí, hay trang hồi kí ra mắt bạn đọc đem đến tranh luận gay gắt trong cộng đồng về nhiều vấn đề thậm chí cả những vấn đề liên quan bí mật quốc gia, hay bôi nhọ, xuyên tạc khía cạnh nào đó của lịch sử. Không phải chưa từng có cuốn hồi ki nào bị cấm xuất bản hay bị Cục Văn hóa thông tin cấm lưu hành (trường hợp hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh). Lịch sử vẫn diễn ra liên tục, người viết hồi kí mang sứ mệnh như một nhà sử gia, ghi chép và phản ánh chân thực đời sống xã hội này chứ không phải tô nhọ, bôi đen hay bóp méo, xuyên tạc sự thật, con người nào đó. Nếu đi quá xa, người viết hồi kí không những sẽ làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người khác mà còn xúc phạm đến danh dự của người khác. Khi viết hồi kí, không thể vì ý nghĩa cá nhân mà sao lãng mối quan hệ với đồng loại. Khi ấy, chính người viết hồi kí sẽ trở thành “thủ phạm” bóp méo hình ảnh của mình. Hồi kí dựa trên sự hồi tưởng của kí ức một cách khách quan góp phần xác minh khôi phục sự thật lịch sử, liên quan đến một thời đại, một cộng đồng lớn hoặc nhỏ, cho đến một nhóm người hoặc một cá nhân. Trong những trường hợp nào đó, hồi kí nhằm đính chính lại những sai lầm về nhận thức quá khứ, trả lại công bằng và công lao đích thực cho những nhân vật bị lãng quên hay bị hiểu lầm, tìm lại chính xác nguyên nhân của những thất bại, những thiếu sót trước đây. Như thế có thể thấy, hồi kí là một phương tiện hữu hiệu để con người bày tỏ quan điểm một cách công khai về chính bản thân mình cũng như về 15
  18. người khác, để thực hiện trên diễn đàn công khai sự minh oan chính đáng cho những con người mà mình yêu mến, cảm phục. Nhưng viết hồi kí cũng là một công việc thực sự khó khăn, bởi mấy ai can đảm nhìn vào sự thật một cách công tâm, khách quan, nhất là những sự thật phũ phàng. Khi nói không đúng sự thật thì không phải là hồi kí nữa. Viết hồi kí là đấu tranh với bản thân mình. Ở góc độ là một tác phẩm văn học, hồi kí là nơi để người viết giãi bày tâm sự, bộc lộ suy ngẫm của mình, có thể liên quan đến cuộc đời, lẽ sống và cả đến những vấn đề lớn lao của nhân loại, của đất nước. Yêu cầu giãi bày hay bộc lộ này thường gặp ở những người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hay hoạt dộng chính trị - xã hội. Rất nhiều người trong số họ đã để toàn bộ tâm sức còn lại vào những năm tháng cuối cùng của mình để có được một thiên hồi kí như cầu mong sự đồng cảm của người đời nay và cả người đời sau. Từ những trang hồi kí văn học của các nhà văn, nhà thơ bên cạnh tư liệu lịch sử, cuộc sống chúng ta còn tìm thấy rất nhiều tư liệu quý giá về người viết như quá khứ tuổi thơ, gia cảnh gia đình, mối quan hệ bạn bè…Cái người ta mong đợi nhất ở một cuốn hồi kí chính là phần liên quan đến nghề nghiệp của tác giả trên nền chung của xã hội mà nghề đó có liên quan. Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta thấy ông đã khẳng định mình thuộc dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Hay Lưu Trọng Lư tự đánh giá mình trong Nửa đêm sực tỉnh qua lời nhận xét của cụ Phan Khôi về tập truyện ngắn “Người sơn nhân”: “Tôi là người viết truyện giỏi nhất, từ Hoàng Ngọc Phách đến Tự lực văn đoàn cũng không ai hơn tôi”. Tô Hoài lại rất tâm đắc với câu nói về mình “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba mươi năm trước 1945, và viết như chạy thi”. Tuy nhiên vị trí của hồi kí chưa được chú ý nhiều. Xuân Diệu cũng suy nghĩ “hồi kí nước mình như một thửa ruộng bắt đầu cày; không ai, hay ít ai chịu viết 16
  19. hồi kí trong khi ở các nước Âu Tây người ta đào sâu từng li, từng tí vào các kỉ niệm. Các nhà văn ở nước mình ít ai kể lại tỉ mỉ về mình, cũng như thể người ta ăn mía nhai dâp dập đã nhả bã. Sống qua loa đại khái, chưa hút hết nước mía đã nhả bả rồi” (3;121). Do đó, viết hồi kí và nghiên cứu về hồi kí cần được chú ý nhiều hơn nữa. Một mặt để xây dựng được kho tư liệu sử quý giá, một mặt để có định hướng phát triển với tương lai. Hồi kí tập trung vào cái đã qua, vào ấn tượng của quá khứ nên tất nhiên nó sẽ phản ánh, phong tục tập quán, hay đặc điểm cuộc sống của con người và xã hội thời đó. Đấy là nguồn tư liệu xác đáng và vô cùng dồi dào, phục vụ đắc lực cho công tác nghiên cứu lịch sử, xã hội, văn hoá… khi nó thực sự có giá trị và tuân thủ đúng chức năng của một tác phẩm văn học: nhận thức – giáo dục – thẩm mĩ. 1.2 Hồi kí trong văn học Việt Nam hiện đại Viết hồi kí là một nhu cầu chính đáng của mỗi người khi muốn kể lại cuộc đời của mình hay kể lại một giai đoạn lịch sử đáng nhớ nào đó mà mình là nhân chứng. Đại hội Đảng năm 1986 không chỉ đặt gạch dấu đầu tiên cho sự nghiệp Đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực xã hội mà còn đặt ra vấn đề đổi mới văn học nước nhà. Không phải ngẫu nhiên mà từ cuối những năm 1990 của thế kỉ XX thể loại hồi kí lại phát triển nhanh mạnh đến thế. Sự ra đời hàng loạt tác phẩm hồi kí đặc biệt của các nhà văn, nhà thơ đã tạo nên không khí vô cùng sinh động cho văn học Việt Nam. Nhiều sự kiện văn học, nhiều số phận cùng vô vàn vấn đề phức tạp của quá khứ gần xa…được trải lên mặt giấy. Có người viết để tái hiện một thời đại lịch sử với những nhân vật của thời đại đó. Có người viết để suy ngẫm hay độc thoại với chính mình. Có người viết để tôn vinh, để bày tỏ tình cảm với người khác…Có nhiều tác phẩm được xuất bản 17
  20. tạo được một ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Nhiều cuốn hồi kí đã xuất bản từ lâu khi tái bản vẫn được độc giả yêu mến đón nhận. Cho đến nay, số lượng hồi kí trong văn học Việt Nam hiện đại là vô cùng đồ sộ và phong phú, bao gồm cả những tác phẩm được xuất bản thành sách và hàng trăm trang hồi kí đăng tản mát trên các báo, tạp chí…đã tạo nên bức tranh sinh động trong nền văn học nước nhà. Tác giả của các cuốn hồi kí không chỉ là những người hoạt động trong lĩnh vực văn chương, mà còn thuộc nhiều ngành nghề khác nhau: chính trị gia, ca sĩ, cầu thủ bóng đá, diễn viên, người mẫu… Thậm chí, đôi khi có những người còn xem viết hồi kí là một cơ hội để nổi tiếng, chứ không hẳn chỉ đơn giản là nhìn lại quãng thời gian đã sống và trải nghiệm của mình. Chính vì thế không phải tác phẩm hồi kí nào cũng thực sự có giá trị cho người đọc. Hồi kí phải tôn trọng sự thực lịch sử, xã hội, kể lại nó với tất cả diễn biến như đã diễn ra, nhưng khi sự thật đó được tung ra trước công chúng rộng rãi thì không phải chỉ là chuyện quyền được nói, quyền được biết nữa. Người viết hồi kí không thể vin vào chiêu bài “sự thật trên hết”, “sự thật lên tiếng” mà quên đi hậu quả xã hội của nó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được nói tới hồi kí của các nhà văn, nhà thơ, nhà lí luận phê bình văn học, tức là những tác giả sống và gắn bó với văn chương nghệ thuật. Hầu hết tác phẩm của họ đều có giá trị đóng góp cho đời sống văn học Việt Nam hiện đại. Các tác giả phần lớn đều trưởng thành từ trước Cách mạng tháng tám, trải qua hai cuộc kháng chiến và chứng kiến nhiều biến động lớn của văn học nước nhà. Hồi kí của họ ra đời cũng tạo nên những tiếng vang nhất định. Nhiều sự kiện văn học trong quá khứ, nhiều số phận, gương mặt được tái hiện lại theo cách nhìn mới. Nhóm nhà văn có: Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu, Nguyễn Công Hoan với Đời viết văn của tôi, Tô Hoài với Cỏ dại, Tự truyện, Những gương mặt – 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2