1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Hoài Ngọc

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN LƯU TRỌNG LƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Hoài Ngọc

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN LƯU TRỌNG LƯ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 602 234

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012

3

MỤC LỤC DẪN NHẬP ....................................................................................................... 4 1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 4 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 10 4. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 11 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 11 6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 12 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN CỦA LƯU TRỌNG LƯ ..... 14 1.1. Truyện ngắn và truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước năm 1945 ...... 14 1.1.1. Truyện ngắn – khái niệm, đặc trưng ............................................. 14 1.1.2. Vài nét về truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945 .................. 18 1.2. Lưu Trọng Lư và truyện ngắn của ông ............................................... 23 1.2.1. Lưu Trọng Lư – tiểu sử, sự nghiệp sáng tác ................................. 23 1.2.2. Vị trí của truyện ngắn trong sáng tác của Lưu Trọng Lư ............. 25 1.2.3. Chất thơ trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư ............................ 32 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU TRỌNG LƯ .................................................................................................................... 38 2.1. Đề tài trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư ............................................. 38 2.2. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư .................... 40 2.2.1. Cảm hứng trữ tình ......................................................................... 41 2.2.2. Cảm hứng thế sự ............................................................................ 54 CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU TRỌNG LƯ...................................................................................................... 69 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................ 69 3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và tạo dựng tình huống truyện ........... 77 3.2.1. Tổ chức cốt truyện ......................................................................... 77 3.2.2. Tạo dựng tình huống truyện .......................................................... 79 3.3. Kết cấu ................................................................................................ 81 3.3.1. Kết cấu tuyến tính .......................................................................... 81 3.3.2. Kết cấu phi tuyến tính .................................................................... 88 3.4. Ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư ........................ 94 3.5. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư ................ 100 KẾT LUẬN .................................................................................................... 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 112

4

DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài

Nền văn xuôi hiện đại Việt Nam ra đời từ khoảng cuối thế kỉ XIX đầu

thế kỉ XX. Trong giai đoạn giao thời của nền văn học (từ cuối thế kỉ XIX đến

năm 1930), văn xuôi chưa có nhiều thành tựu nổi bật. Nhưng bước sang giai

đoạn 1930 – 1945, nó phát triển mạnh mẽ chưa từng có và gặt hái nhiều thành

quả to lớn.

Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn là một thể loại kết tinh thành tựu của

văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Chưa bao giờ truyện ngắn nước ta

lại phong phú và đặc sắc như thế: truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công

Hoan; truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh; truyện

ngắn phong tục của Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân; truyện ngắn viết về cái đẹp

một thời vang bóng của Nguyễn Tuân; truyện ngắn viết về người nông dân và

người trí thức nghèo mang tư tưởng sâu sắc, ý nghĩa khái quát rộng lớn với

những trang miêu tả, phân tích tâm lí đạt tới trình độ bậc thầy của Nam

Cao,… Mỗi nhà văn mỗi phong cách đã góp phần tạo nên một diện mạo đa

dạng và đầy sức sống của truyện ngắn Việt Nam hiện đại.

Tuy nhiên, bên cạnh các cây bút truyện ngắn đã thực sự khẳng định

được tài năng và có một vị trí vững vàng trong nền văn học dân tộc và trong

lòng công chúng, vẫn còn không ít tác giả mà mấy chục năm qua, vì lí do này

khác, ít được nhắc đến, chỉ tới gần đây một số mới được phát hiện lại như

Xuân Diệu, Thế Lữ, Thanh Châu, Ngọc Giao, Trần Tiêu,…

Lưu Trọng Lư có lẽ cũng là một trường hợp như thế. Ông vốn là một thi

sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Nhắc tới Lưu Trọng Lư, chúng ta không

thể không nhớ đến những vần thơ đa tình và ảo mộng, trong đó có Tiếng thu

từng làm thổn thức, ngân vang, vương vấn trái tim bao thế hệ.

5

Không chỉ có một di sản thơ đặc sắc, Lưu Trọng Lư còn sáng tác một

khối lượng văn xuôi phong phú, trong đó có nhiều truyện ngắn. Tuy nhiên,

truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, cũng như văn xuôi của ông nói chung, ít được

chú ý so với thơ của ông. Có lẽ vì thế mà có rất nhiều truyện ngắn của Lưu

Trọng Lư, sau lần đầu tiên công bố cách đây hơn nửa thế kỉ, đã rơi vào quên

lãng. Mãi đến năm 2011, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của tác giả, các

truyện ngắn đó mới được sưu tầm và công bố lại đầy đủ. Bấy giờ, độc giả mới

được tiếp xúc gần như toàn bộ truyện ngắn Lưu Trọng Lư, từ đó chú ý hơn

đến ông với tư cách một cây bút viết truyện ngắn.

Truyện ngắn của Lưu Trọng Lư đã bị lãng quên trong một thời gian

dài, có thể do chúng không thành công như thơ của ông hay cũng không đặc

sắc như truyện ngắn của các nhà văn cùng thời. Nhưng dù sao đi chăng nữa,

việc tìm hiểu truyện ngắn Lưu Trọng Lư một cách toàn diện, hệ thống nhằm

phát hiện và ghi nhận lại những giá trị của nó cũng là việc đáng làm. Với suy

nghĩ như vậy, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài tìm hiểu Đặc điểm truyện

ngắn Lưu Trọng Lư. Đây cũng là cách chúng tôi bày tỏ tấm lòng yêu quý

trước tài năng đa dạng của ông và sự trân trọng đối với những di sản văn

chương của dân tộc.

2. Lịch sử vấn đề

Con đường hoạt động nghệ thuật của Lưu Trọng Lư trải dài hơn nửa

thế kỉ. Ở đó, Lưu Trọng Lư nhận được nhiều sự yêu thương, quan tâm ưu ái

của độc giả, giới văn sĩ và những người nghiên cứu. Cho nên, có nhiều công

trình, bài viết đã nghiên cứu về quê hương, con người và cuộc đời nghệ thuật

của Lưu Trọng Lư. Tuy nhiên, trong các công trình, bài viết này, hầu hết các

nhà nghiên cứu đều tập trung, đi sâu vào những sáng tác thơ của Lưu Trọng

Lư, đặc biệt là thơ trước Cách mạng tháng Tám.

6

Lưu Trọng Lư với tư cách một nhà thơ đã được ghi nhận và đánh giá.

“Có thể tóm tắt tất cả những ý trong thơ của Lưu Trọng Lư vào hai chữ tình

và mộng. Lưu Trọng Lư là một thi sĩ đa tình và mơ mộng. Ông say sưa tất cả

những cái đẹp của người và của tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức,

trí não ông lúc nào cũng mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng

với thực, thổ lộ nên những lời thơ huyền ảo vô cùng” [52, 672]. Thơ Lưu

Trọng Lư còn là những vần thơ chứa đựng nhiều cảm xúc chân thành và rất

giàu nhạc điệu: “Âm nhạc là đặc trưng nổi bật, là nhịp mạnh của Thơ mới. Đó

là một sự sáng tạo kì diệu của nó. Và trong Thơ mới, Lưu Trọng Lư là nhà

thơ, nhạc sĩ hơn cả, thơ Lưu Trọng Lư hầu như chỉ là những bản nhạc thuần

túy, những bản nhạc mờ ảo trên nền những bức tranh cũng mờ ảo” [27, 287-

288]. Về thơ Lưu Trọng Lư sáng tác sau năm 1945, nhà nghiên cứu Nguyễn

Văn Long nhận xét: “Lưu Trọng Lư là một trong số những nhà thơ lớp cũ đã

sớm tìm được tiếng nói mới cho thơ ở những ngày đầu kháng chiến. Từ bỏ

những cảm xúc, những hình ảnh và ngôn từ quen thuộc của “thơ mới”, Lưu

Trọng Lư đưa thơ mình về gần với tâm tư, tiếng nói và cách diễn tả của quần

chúng. Trong xu hướng đại chúng hóa của thơ ca kháng chiến, Lưu Trọng Lư

đã sớm góp được tiếng thơ khỏe khoắn, chân thực” [27, 92].

So với thơ, truyện ngắn của Lưu Trọng Lư ít được quan tâm hơn. Cho

nên, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào lấy truyện ngắn Lưu

Trọng Lư làm đối tượng nghiên cứu. Truyện ngắn thường chỉ được nhắc đến

cách rất sơ lược trong các bài viết về sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư.

Các ý kiến nhận định cũng chỉ xoay quanh ba truyện ngắn đầu tay in trong tập

Người sơn nhân, còn những truyện ngắn viết sau đó hầu như không được

nhắc tới.

Có thể điểm qua một số ý kiến của các nhà nghiên cứu nhận định về

truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, như sau:

7

Năm 1933, khi tập truyện Người sơn nhân ra mắt công chúng, Phan

Khôi đã nhận định truyện ngắn Người sơn nhân (của Lưu Trọng Lư) và Hồn

bướm mơ tiên (của Khái Hưng) là hai tác phẩm văn học khá nhất trong năm

1933 [42, 5].

Trong loạt bài mang tiêu đề chung Văn học Việt Nam hiện đại đăng

nhiều kì trên tuần báo Loa ở Hà Nội từ tháng 7 đến tháng 10/1935, nhà phê

bình Trương Tửu đánh giá cao các truyện ngắn Người sơn nhân, Ly Tao tuyệt

vọng và coi Lưu Trọng Lư là một trong ba nhà văn có lối tả cảnh mới mẻ

nhất, tính đến thời điểm ấy. “Bốn truyện Người sơn nhân, Tiếng địch trong

rừng sim, Hương giang sử, Ly Tao tuyệt vọng đã thiết lập cho ông một vị trí

chức sắc trong làng văn hiện đại” [56, 146].

Năm 1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan cho rằng truyện

Người sơn nhân “cũng cảm động, nhưng cũng không phải tốt đẹp quá như lời

Phan Khôi đã phê bình”. “Trong tập truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, Người

sơn nhân có thể coi là một truyện kết cấu khéo léo. Thế thôi. Còn hai truyện

kia là thứ truyện tầm thường, không có gì đặc sắc cả. Ngay những truyện

ngắn về sau này của Lưu Trọng Lư cũng đều tầm thường cả” [52, 684].

Mục từ “Lưu Trọng Lư” trong Từ điển văn học (1983) chỉ nhắc qua về

tập truyện ngắn Người sơn nhân: “1933, xuất bản tập Người sơn nhân, gồm

ba truyện ngắn và mười bài thơ, gây được chú ý” [18, 904].

Trong Thơ – những gương mặt, tác giả Thiếu Mai nhận xét: “Lưu

Trọng Lư, ngoài thơ ra còn viết nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn. Truyện của

anh phần lớn có tính chất hoài cổ (Chiếc cáng xanh, Dòng họ) hoặc đi sâu vào

tình ái lãng mạn (Huế, một buổi chiều, Cô gái hái dâu), hoặc miêu tả những

chuyện thần tiên ma quái (Huyền không động), nói chung thuộc xu hướng

lãng mạn tiêu cực. Tuy vậy trong số đó nổi bật lên vài truyện phảng phất đôi

8

chút tinh thần dân tộc và ý thức phản kháng chế độ (Con voi già của vua Hàm

Nghi, Người sơn nhân), hoặc trân trọng đối với cuộc sống cay cực của người

nghèo (Con chim sổ lồng, Khói lam chiều) [27, 208].

Trong Lời giới thiệu Lưu Trọng Lư tuyển tập (thơ, văn xuôi, kịch thơ)

năm 1987, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long có những nhận xét về ba truyện

ngắn trong tập Người sơn nhân: “Người sơn nhân là một tiếng nói phản

kháng, một khao khát tự do nhưng khá mơ hồ và bế tắc (…) Truyện Con chim

sổ lồng có sự cảm thông với số phận của một đứa trẻ nghèo, bút pháp của

truyện gần với tả thực hơn, có pha một chút chua chát. Ly Tao tuyệt vọng đậm

màu sắc lãng mạn huyền hoặc, nhưng mang được mối đồng cảm xót xa với

thân phận những kẻ sĩ bạc mệnh” [39].

Trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỉ XIX đến

1945) xuất bản năm 2001 có bảy mục từ lược thuật bảy tác phẩm tự sự của

Lưu Trọng Lư, trong đó có đề cập đến tập truyện Người sơn nhân với ba

truyện ngắn Người sơn nhân, Con chim sổ lồng, Ly Tao tuyệt vọng. Bên cạnh

việc tóm tắt ba câu chuyện trên, các tác giả còn nhận xét: “Trong tập truyện

này, Người sơn nhân là truyện hay hơn cả. Kết cấu của truyện khéo léo, chặt

chẽ, những đoạn đối thoại giữa ông cố đạo và ngươi sơn nhân giàu tính triết

lý và có kịch tính” [2, 236].

Trong bài viết Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư in trong Lưu Trọng Lư,

tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết (năm 2011), nhà nghiên cứu Lại Nguyên

Ân đã đưa ra một số nhận xét về mảng văn xuôi Lưu Trọng Lư viết trước năm

1945. Trước tiên, nhà nghiên cứu đã điểm lại lịch sử nghiên cứu, đánh giá văn

xuôi của Lưu Trọng Lư từ trước đến nay. Theo ông, “sự nghiệp văn nghệ của

Lưu Trọng Lư với tư cách nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt

Nam thế kỉ XX, thoạt nhìn, cho đến những năm đầu thế kỉ XXI, tưởng chừng

9

như được ghi nhận và đánh giá ổn thỏa; nhưng nhìn kỹ, ta lại thấy nhiều nét

trái ngược. Chẳng hạn, theo một nền nếp “phân vùng” có từ thời bao cấp, Lưu

Trọng Lư được nghiễm nhiên coi như một “nhân sự” thuộc giới sân khấu nên

giới chức quản lý văn học đôi khi tặc lưỡi bỏ qua ông, hoặc người ta xem ông

chỉ như nhà thơ để khỏi phải tính đến ông như người viết văn xuôi, viết

truyện, bất chấp cái thực tế là: số truyện ngắn truyện dài của Lưu Trọng Lư đã

viết và đã in ra trong toàn bộ đời văn của mình nhiều gấp vài ba lần số tập thơ

hay số vở kịch ông đã viết, đã dàn dựng” [42, 9]. Kế đến, tác giả bài viết liệt

kê các nguồn tư liệu sách, báo mà ông và người bạn đã sử dụng trong công

việc sưu tầm các tác phẩm văn xuôi của Lưu Trọng Lư để hoàn thành bộ sưu

tập Lưu Trọng Lư tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết. Cũng trong bài viết

này, Lại Nguyên Ân đã đưa ra nhiều nhận xét đi sâu vào các phương diện nội

dung và nghệ thuật của văn xuôi Lưu Trọng Lư. Theo Lại Nguyên Ân, “thế

giới thơ của Lưu Trọng Lư thật ra không tách rời, mà ngược lại, có sự tiếp nối

với thế giới văn xuôi do ông sáng tạo, đó là cuộc sống trong các truyện ngắn,

truyện dài ông viết” [42, 14]. Truyện của Lưu Trọng Lư có nhiều loại: truyện

thần tiên, ma quái; truyện truyền thuyết, dã sử; truyện tâm lý xã hội hoặc

truyện thế sự. Trong những truyện thần tiên, ma quái, Lưu Trọng Lư thường

dùng lời văn kể chuyện và lối mô tả khá ước lệ và gần gũi với giọng thơ lãng

mạn của ông; còn đề tài hầu hết những truyện thần tiên này là đề tài tình yêu,

những tình yêu không bị giới hạn bởi ranh giới tiên – tục, thần – người, thầy

tu – gái điếm. Khả năng cảm nhận và biểu hiện đời sống đương thời của ngòi

bút viết truyện Lưu Trọng Lư cũng được nhắc đến. Theo tác giả bài viết,

những dáng nét đời sống đương thời, cụ thể như dáng nét của giới học sinh

Hà Thành những năm 1930, của nam nữ học sinh xứ Huế ở tác phẩm Lưu

Trọng Lư “có lẽ còn rõ rệt hơn thậm chí so với không ít tác phẩm của các tác

gia trong Tự Lực văn đoàn, hoặc so với một vài đàn anh trong số những người

10

cùng cộng tác với nhà Tân Dân như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố” [42,

17]. Về thế giới nhân vật trong truyện của Lưu Trọng Lư, theo Lại Nguyên

Ân, kiểu nhân vật nổi bật là những con người thất bại. Sau cùng, Lại Nguyên

Ân khẳng định, lãng mạn là nét phong cách khá nổi bật ở văn xuôi tự sự trước

1945 của Lưu Trọng Lư.

Trên đây là một số ý kiến nhận xét của các nhà nghiên cứu về những

vấn đề có liên quan đến đề tài. Qua đó có thể khẳng định rằng chưa có một

công trình nghiên cứu nào lấy truyện ngắn của Lưu Trọng Lư làm đối tượng

nghiên cứu độc lập và toàn diện. Những nhận định về truyện ngắn Lưu Trọng

Lư từ trước đến nay còn khá ít ỏi và mang tính sơ bộ. Tuy nhiên, đáng ghi

nhận ở chỗ mặc dù các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn thống nhất trong việc

đánh giá khả năng viết truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, song đều công nhận

một số truyện ngắn của ông là khá đặc sắc. Những ý kiến của nhà nghiên cứu

đi trước, đặc biệt ý kiến của Lại Nguyên Ân, là những định hướng quý báu

cho việc tìm hiểu truyện ngắn Lưu Trọng Lư nói riêng, văn xuôi Lưu Trọng

Lư nói chung của những người nghiên cứu tiếp sau. Trên cơ sở tiếp thu, kế

thừa những ý kiến và thành tựu nghiên cứu đó, chúng tôi sẽ nỗ lực khảo sát,

phân tích những truyện ngắn của Lưu Trọng Lư nhằm phát hiện, lí giải, khái

quát những đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn của ông.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trước năm 1945, Lưu Trọng Lư sáng tác khá nhiều truyện ngắn. Các

truyện ngắn của ông được được in thành sách hoặc đăng trên các báo thời bấy

giờ. Phần lớn truyện ngắn này được sưu tầm và tập hợp lại trong Lưu Trọng

Lư – tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết (tập 1) do Nhà xuất bản Lao động -

Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông tây phát hành năm 2011. Bao gồm 26

truyện ngắn: Người sơn nhân, Con chim sổ lồng, Ly tao tuyệt vọng, Cô bé hái

11

dâu, Chân ái tình, Cái đời hát xẩm, Anh Neo, Bạn tôi, Cái chết hiếu danh,

Chiêm Thành, Con vú em, Thi sỹ, Con sáo, Chiếc áo rét, Bó lan trắng, Người

mua hoa, 15 truyện ngắn, Nàng Vân may áo chồng, Sầm Sơn vui thú xiết bao,

Tình trong giây lát, Cái vò sữa của cô Perrette, Một lần tôi đi qua, Bạn tôi

cưới vợ, Em hãy còn thơ, Cắm neo, Khỏi truông.

Các truyện ngắn vừa kể trên là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài.

Trong quá trình nghiên cứu, để làm rõ những giá trị nổi bật của chúng, chúng

tôi cũng sẽ so sánh, đối chiếu với một số sáng tác thơ và văn xuôi khác của

Lưu Trọng Lư, cũng như truyện ngắn của một số nhà văn cùng thời như Khái

Hưng, Thạch Lam, Xuân Diệu, Nam Cao…

Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung tìm hiểu một số phương

diện thuộc nội dung và hình thức nghệ thuật của truyện ngắn Lưu Trọng Lư

như đề tài và cảm hứng nghệ thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, xây dựng

kết cấu và ngôn ngữ tác phẩm. Những yếu tố này sẽ giúp chúng tôi thấy được

một cách tương đối khái quát những nét đặc sắc, riêng biệt trong truyện ngắn

Lưu Trọng Lư.

4. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài nghiên cứu này, mục đích của chúng tôi là tìm kiếm, phát

hiện và ghi nhận lại những giá trị nổi bật của truyện ngắn Lưu Trọng Lư.

Chúng tôi hi vọng sẽ có những đóng góp nhất định trong việc đem đến một

cái nhìn tương đối toàn diện và sâu sắc hơn về truyện ngắn Lưu Trọng Lư;

góp phần làm phong phú những hiểu biết về Lưu Trọng Lư, không chỉ như

nhà thơ tài năng mà còn như nhà viết truyện ngắn đặc sắc.

5. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã dựa trên quan điểm Mác-xít trong

nghiên cứu văn học. Đó là việc nghiên cứu văn học trong mối quan hệ với bối

12

cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội; xem xét tác phẩm trong mối quan hệ giữa

nhà văn – cuộc sống và bạn đọc; chú ý qui luật thống nhất nội tại giữa nội

dung và hình thức trong tác phẩm văn học.

Chúng tôi cũng vận dụng những thành tựu của các khoa học liên ngành

như lý luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phương pháp luận nghiên

cứu văn học,… trong quá trình nghiên cứu.

Ngoài những vấn đề có tính chất phương pháp luận như trên, trong quá

trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp

chủ yếu, cụ thể như sau:

- Phương pháp phân tích –tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong

luận văn. Đi từ việc khảo sát, phân tích từng truyện ngắn, từng yếu tố nổi bật

trong việc thể hiện nội dung tư tưởng và nghệ thuật, chúng tôi sẽ đưa ra

những nhận xét khái quát về đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư.

- Phương pháp hệ thống: khi xem xét các yếu tố trong mỗi truyện ngắn

của Lưu Trọng Lư, chúng tôi luôn đặt chúng trong hệ thống chỉnh thể của tác

phẩm. Đồng thời đặt mỗi tác phẩm trong hệ thống lớn hơn là những sáng tác

cùng thể loại, rộng hơn nữa là toàn bộ sáng tác của tác giả để thấy được cái

riêng của từng truyện cũng như cách viết truyện ngắn của tác giả.

- Phương pháp so sánh cũng được chúng tôi sử dụng trong phạm vi

nhất định. Để thấy cái riêng độc đáo và sự đóng góp của Lưu Trọng Lư trong

nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh với một số

cây bút truyện ngắn khác như Thạch Lam, Thanh Tịnh,… về từng vấn đề có

liên quan.

Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như

phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp lịch sử,…

13

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn được trình bày thành ba

chương:

Chương 1: Khái quát về truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Ở chương này,

ngoài việc nhắc lại khái niệm truyện ngắn và vài nét về truyện ngắn Việt

Nam hiện đại trước 1945, chúng tôi sẽ tìm hiểu sơ lược về vị trí của

truyện ngắn trong toàn bộ di sản văn học của Lưu Trọng Lư.

Chương 2: Đặc điểm nội dung của truyện ngắn Lưu Trọng Lư. Ở chương

này, luận văn tập trung miêu tả đặc điểm của hai phương diện thuộc về

nội dung của truyện ngắn Lưu Trọng Lư là đề tài và cảm hứng nghệ

thuật.

Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Lưu Trọng Lư. Ở đây,

người viết sẽ tìm hiểu đặc điểm của cách xây dựng nhân vật, cốt truyện

và kết cấu, ngôn ngữ nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong truyện

ngắn Lưu Trọng Lư.

14

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN CỦA LƯU TRỌNG LƯ

1.1. Truyện ngắn và truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước năm 1945

1.1.1. Truyện ngắn – khái niệm, đặc trưng

Truyện ngắn là một thể loại không thể thiếu trong bất kì nền văn học

dân tộc nào. Đây là một thể loại hết sức gần gũi và có nhiều ý nghĩa đối với

sự phát triển toàn diện và vững chắc của văn học, cũng như đối với sự rèn

luyện mài dũa ngòi bút của các nhà văn.

Truyện ngắn là một khái niệm quen thuộc nhưng tìm một định nghĩa

duy nhất, đầy đủ, chính xác về nó thì không dễ. Trong Từ điển văn học bộ

mới, truyện ngắn được xác định là “một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được

viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện đời sống của con người và

xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích

hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [18,

1846-1847]. Mục truyện ngắn trong Từ điển thuật ngữ văn học ghi nhận

truyện ngắn là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao

trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng

cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một

mạch, đọc một hơi không nghỉ” [22, 370].

Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm

nhận cụ thể và một số đúc kết đa dạng. Aimatov đã phát biểu: “Truyện ngắn

giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ,

cô đúc, các phương tiện phải được tính toán một cách tinh tế, nét vẽ phải

chính xác. Đây là một việc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất hẹp,

đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác” [49, 146].

15

Nhấn mạnh đến chi tiết, Nguyễn Công Hoan cho rằng: “Truyện ngắn không

phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [63, 186].

Các quan niệm trên đều thống nhất nhận diện truyện ngắn ở những tiêu

chí cốt lõi sau:

Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Hình thức “nhỏ”, “ngắn” là dấu

hiệu đầu tiên để người đọc nhận diện truyện ngắn. Dung lượng truyện ngắn

kéo dài từ vài chục chữ đến khoảng 20000 chữ. Nếu tính theo số trang, dung

lượng của một truyện ngắn thường co giãn khoảng từ 3 đến 50 trang. Dưới

con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, “truyện ngắn trong lòng

bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa; trên 100 trang là

tiểu thuyết. Những cách gọi này tương ứng với các khái niệm “đoản thiên tiểu

thuyết” (truyện ngắn), “trung thiên tiểu thuyết” (truyện vừa) và “trường thiên

tiểu thuyết” (tiểu thuyết) vốn phổ biến ở nước ta thời kì đầu văn xuôi tự sự

hiện đại. Tuy nhiên, tính chất “nhỏ” của truyện ngắn không chỉ nằm trong

dung lượng, mà quan trọng hơn là ở cách nắm bắt cuộc sống của thể loại.

Truyện ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn,

hoành tráng. Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc. Nguyên tắc chung

nhất của truyện ngắn không cho phép dồn ép hoặc nhồi nhét rút gọn nội dung

của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế, thành một

truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và

chặt chẽ. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: “Truyện ngắn cũng

y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì

được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện ngắn phải là “một lát cắt

gọn gẽ”, “toàn truyện là một vòng tròn khép kín không quá dài, không quá

ngắn, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào” [60,

365].

16

Bên cạnh đặc điểm “ngắn”, các nhà nghiên cứu còn khu biệt truyện

ngắn ở tính chất giới hạn trong việc phản ánh đời sống và ở hiệu quả nghệ

thuật mà nó tạo ra khi so sánh với một thể loại gần gũi là tiểu thuyết.

Cùng thuộc về loại hình tự sự hư cấu, truyện ngắn gần gũi tiểu thuyết ở

chỗ nó cũng có khả năng phản ánh hầu hết các phương diện của đời sống như

đời tư, thế sự hay sử thi. Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời hay một

đoạn đời, một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật, nhưng cái

chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện, mà ở cái nhìn tự sự đối

với cuộc đời.

Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự

đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một

hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống

tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự

kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân

vật của truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không

nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong

tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho

một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con

người. Mặt khác, do đó truyện ngắn lại có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu

loại nhân vật đa dạng của cuộc sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất thân,

gia hệ, bạn bè,… những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra thấp

thoáng trong các nhân vật phụ.

Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không

gian hạn định. Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện

ngắn lại là mặt cắt của dòng đời. Nếu tiểu thuyết diễn tả một quá trình vận

động của cuộc sống thì truyện ngắn lại tập trung vào một tình thế thể hiện một

17

bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật. Truyện ngắn “khái

quát cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối

cái vĩnh cửu” [62]. Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống

động tự nhiên, truyện ngắn phải “lựa chọn được một cách nhìn và một điểm

nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của thấu kính, tập trung ánh sáng mặt

trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [73, 14]. Cốt truyện của truyện ngắn có

thể nổi bật, hấp dẫn, nhưng chức năng của nó nói chung là để nhận ra một

điều gì. Cái chính của truyện là gây ra một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và

tình người.

Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng nhiều tuyến như

tiểu thuyết mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên

tưởng. Kết cấu của truyện ngắn đòi hỏi phải có sự chặt chẽ, sao cho chủ đề

tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác

phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất, để có thể tạo nên hiệu quả nghệ thuật

duy nhất, từ đó tạo nên một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. “Cũng

như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một công việc tổ chức và cấu

trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo – kĩ

thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật làm pháo, dồn nén tư

tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [7, 251].

Chi tiết là yếu tố rất quan trọng trong truyện ngắn. Chi tiết góp phần tạo

dựng cảnh trí, không khí, tình huống và khắc họa hành động, tính cách, tâm tư

nhân vật. Nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định “Truyện ngắn có thể có cốt

truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể

chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo

chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [17, 33]. Chi tiết trong truyện ngắn thường cô đúc

và có dung lượng lớn. Cùng lối hành văn mang nhiều ẩn ý, chúng tạo cho tác

18

phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên

đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [63, 84].

Tóm lại, với những đặc điểm cơ bản vừa nêu, có thể khẳng định truyện

ngắn là một thể loại dân chủ, gần gũi với đời sống hằng ngày, lại súc tích, dễ

đọc, có tác dụng và ảnh hưởng kịp thời trong đời sống.

1.1.2. Vài nét về truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945

Từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một thời kì

rất quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử văn học nói riêng.

Với không đầy nửa thế kỉ, xã hội Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc chưa

từng thấy. Vượt lên sự kìm hãm của các thế lực thực dân phong kiến, hòa

nhịp với sự lớn mạnh của dân tộc, nền văn học nước nhà đã phát triển theo

hướng hiện đại hóa với tốc độ rất nhanh và đạt được những thành tựu to lớn.

Đặc biệt là ở giai đoạn 1930 – 1945, các đặc điểm của thời kì văn học đều

được đẩy lên một bước cao nhất, sâu sắc nhất, toàn diện nhất, do đó cũng nổi

rõ nhất.

Trong bức tranh đa dạng của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến

Cách mạng tháng Tám năm 1945, truyện ngắn là một trong những mảng màu

chủ đạo.

Nền truyện ngắn hiện đại Việt Nam được hình thành từ cuối thế kỉ XIX

với tác phẩm mở đầu là Thầy La-za-rô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản.

Sáng tác văn xuôi quốc ngữ đầu tiên này tuy còn vụng về, non yếu nhưng lại

là “con chim lạ từ phương Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng

loại”; “nổi lên như một ốc đảo chơi vơi vào nửa sau thế kỉ XIX, không riêng ở

Nam Kì mà ở cả Việt Nam” [19, 303].

19

Bước sang những năm 1920 – 1930, với sự xuất hiện của hai cây bút

truyện ngắn nổi bật là Phạm Duy Tốn và Nguyễn Bá Học, truyện ngắn nước

ta đã có những bước tiến nhất định trên con đường hiện đại hóa. Tuy nhiên, số

lượng truyện ngắn ở giai đoạn này còn khá ít ỏi. Yếu tố của văn học trung đại

vẫn còn tồn tại phổ biến từ nội dung đến hình thức tác phẩm.

Đến giai đoạn 1930 – 1945, nền văn học đã hoàn tất quá trình hiện đại

hóa với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Cùng với thơ và tiểu

thuyết, truyện ngắn giai đoạn này đã phát triển với một tốc độ như vũ bão. Về

lượng, số truyện ngắn đã xuất bản thành tập hoặc đăng tải rải rác trên báo chí

khắp cả nước chắc chắn phải lên đến con số hàng ngàn. Riêng một nhà văn

Nguyễn Công Hoan cũng đã có khoảng hai trăm truyện ngắn. Về chất, thật

không khó để kể tên những cây bút truyện ngắn tài năng và những tác phẩm

đặc sắc, trong đó một số truyện xứng đáng gọi là kiệt tác.

Như vậy, chỉ trong vài ba mươi năm, thể văn xuôi mới mẻ này từ chỗ

chập chững tập dượt, đã trưởng thành vượt bậc để trở nên thành thục, đạt tới

cao độ nghệ thuật, thực sự hoàn thiện.

Truyện ngắn hiện đại Việt Nam trước 1945 không chỉ phát triển mạnh

mẽ, nhanh chóng theo hướng hiện đại, mà còn phân hóa theo nhiều xu hướng

phức tạp. Trong đó nổi lên hai xu hướng chính là lãng mạn trữ tình và hiện

thực phê phán. Hai xu hướng này tồn tại song song, vừa đấu tranh với nhau,

vừa ảnh hưởng, tác động qua lại, có khi chuyển hóa lẫn nhau.

Xu hướng lãng mạn trữ tình được khơi nguồn từ sự khẳng định cái tôi

cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và về trí tưởng tượng.

Nó coi con người là trung tâm của vũ trụ, khẳng định cái tôi cá nhân, đề cao

con người thế tục, đề cao đến những số phận cá nhân và những quan hệ riêng

tư. Xu hướng văn học này thường tìm đến các đề tài tình yêu, về thiên nhiên

20

và quá khứ thể hiện khát vọng vượt trên cuộc sống hiện tại chật chội tù túng,

dung tục, tầm thường. Về hình thức nghệ thuật, có thể xem truyện ngắn trữ

tình là hình thức thơ trong văn xuôi, bởi có sự du nhập khá mạnh mẽ của các

yếu tố thơ vào văn xuôi, làm cho văn xuôi tự sự trở thành những bài thơ văn

xuôi với sự gợi ám và lắng đọng. Tiêu biểu là truyện ngắn của Thạch Lam,

Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân,…

Thạch Lam được coi là một cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học

giai đoạn 1930 - 1945. Truyện ngắn của ông thường viết về những con người

bé nhỏ ở phố huyện nghèo hay ở vùng ngoại ô Hà Nội với tấm lòng trắc ẩn,

thương xót chân thành. Văn Thạch Lam giản dị, trong sáng, nhẹ mà thấm,

nhiều dư vị.

Rất gần gũi với cách viết của Thạch Lam là Thanh Tịnh và Hồ Dzếnh.

Tuy thế giới nghệ thuật của ba nhà văn này khác nhau (Thanh Tịnh thường

hướng ngòi bút của mình về những người dân ở một cái làng Mĩ Lí thơ mộng

thuộc miền Trung; còn Hồ Dzếnh chỉ viết người thân trong gia đình mình,

một gia đình người Việt gốc Hoa), nhưng sở trường chung của họ là diễn tả

rất đạt đời sống nội tâm thầm kín của nhân vật, những tình cảm, cảm giác tinh

vi, những ước mơ nhỏ bé hiền lành mà thường không bao giờ đạt được của

con người thuộc tầng lớp tiểu tư sản hay dân nghèo ở thành thị và nông thôn.

Nguyễn Tuân cũng là một cây bút truyện ngắn đặc sắc của khuynh

hướng văn học lãng mạn 1930 – 1945. Vang bóng một thời (1940) gồm 11

truyện ngắn, là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng,

được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “một văn phẩm đạt gần tới sự

toàn thiện, toàn mĩ”. Với tập truyện này, Nguyễn Tuân đã ghi đậm dấu ấn của

mình trong lòng độc giả. Đó là một Nguyễn Tuân nghệ sĩ hết lòng trân trọng,

say mê cái đẹp trong quá khứ, một Nguyễn Tuân ngông nghênh, khinh bạc

21

trước xã hội thực dân tầm thường phàm tục và một Nguyễn Tuân tài hoa uyên

bác trong sử dụng ngôn từ.

Khác với xu hướng lãng mạn, xu hướng hiện thực tập trung vào việc

phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội đương thời, đồng thời đi sâu

phản ánh tình cảnh khổn khổ của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột với

một thái độ cảm thông sâu sắc. Nó lên tiếng đấu tranh chống áp bức giai cấp,

phản ánh mâu thuẫn, xung đột giữa kẻ giàu với người nghèo, giữa nhân dân bị

áp bức bóc lột với tầng lớp thống trị. Các nhà văn hiện thực thường đề cập

đến chủ đề thế sự với thái độ phê phán xã hội trên tinh thần dân chủ và nhân

đạo, chú trọng miêu tả, phân tích, lí giải một cách chân thực, chính xác quá

trình khách quan của xã hội thông qua những hình tượng điển hình. Tiêu biểu

cho xu hướng này là các cây bút truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nam

Cao,…

Nguyễn Công Hoan được xem là người đầu tiên viết truyện ngắn theo

khuynh hướng hiện thực và đạt được thành tựu đáng ghi nhận. Nhìn thẳng vào

hiện thực, bằng tiếng cười trào phúng “hồn nhiên, khỏe khoắn, mặn mà”,

Nguyễn Công Hoan phơi ra mặt trái của xã hội đầy bất công thối nát, kẻ giàu

phè phỡn vô đạo, còn người nghèo thì bị ức hiếp và đói khổ cùng cực.

Nếu Nguyễn Công Hoan là cây bút truyện ngắn mở đầu thì Nam Cao,

với kiệt tác Chí Phèo, đã có công giúp khuynh hướng văn học hiện thực phê

phán đạt đến đỉnh cao chói lọi. Dưới ánh sáng của một quan niệm nghệ thuật

sâu sắc, tiến bộ, các truyện ngắn Nam Cao đã đạt được nhiều thành tựu xuất

sắc, nhất là truyện viết về đề tài người trí thức nghèo và người nông dân cùng

khổ. Trong những sáng tác này, tác giả đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh

thần con người, luôn đau đớn trước tình trạng con người bị rơi vào thảm cảnh

sống mòn, bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy hoại cả nhân tính.

22

Phong cách viết truyện ngắn của Nam Cao hết sức độc đáo: luôn hướng tới

thế giới nội tâm con người; có biệt tài trong việc miêu tả và phân tích tâm lí;

viết về cái nhỏ nhặt hàng ngày mà đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa xã hội

to lớn, có tầm triết lí sâu sắc và có giọng văn đặc sắc. Nam Cao cũng có đóng

góp lớn trong sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi nước ta, với một kho từ

vựng phong phú vừa góc cạnh vừa tinh vi và đầy sức sống.

Bên cạnh những tác giả tiêu biểu cho hai xu hướng sáng tác trên, còn

có Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lâm… với thiên hướng sáng tác miêu tả phong

tục. Sức hấp dẫn chủ yếu của xu hướng truyện ngắn này chính là cái nhìn hóm

hỉnh, sắc sảo mang màu sắc dân tộc học về đời sống nông thôn với các mẩu

chân dung, các mảng sinh hoạt và quan hệ họ mạc, xóm giềng, gia đình trong

sự sống hằng ngày mang tính thuần phác, cổ xưa. Những trang viết này đã

góp phần làm cho truyện ngắn 1930 – 1945 đa dạng hơn về phong cách, bút

pháp, đề tài và màu sắc địa phương.

Trên đây là vài nét phác họa về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 –

1945 và một số gương mặt tiêu biểu, giúp chúng ta có thể hình dung phần nào

sự phát triển sôi động, sự đa dạng phong phú của mảng sáng tác này. Qua đó,

chúng ta cũng nhận thấy rằng các nhà văn dù theo xu hướng sáng tác nào

cũng đều gắn bó sâu nặng với đời sống, con người và đất nước. Trong những

trang văn của họ, “ấn tượng đậm nét nhất vẫn là những hình ảnh chân thực,

cảm động về quê hương đất nước Việt Nam với cảnh sắc, phong vị vô cùng

thân thiết, về những nét đẹp văn hóa trong phong tục sinh hoạt dân tộc, về số

phận và tâm hồn con người Việt Nam trong một thời kì cam go vẫn nhuần

nhụy yêu thương, dạt dào tình nghĩa, sống thầm lặng khiêm nhường mà vẫn

chan chứa lòng yêu đời và tiềm tàng một sức sống bất diệt” [33, 32]. Đó

chính là tính dân tộc thấm nhuần trong những trang truyện ngắn hiện đại.

23

1.2. Lưu Trọng Lư và truyện ngắn của ông

1.2.1. Lưu Trọng Lư – cuộc đời, sự nghiệp sáng tác

Nhà thơ Lưu Trọng Lư (còn có những bút danh Hy Ký, Lưu Thần),

sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912, trong một gia đình quan lại Nho học, quê ở

xã Bắc Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Thuở nhỏ, Lưu Trọng Lư học trường tỉnh. Sau đó, ông thi đậu vào

trường Quốc học Huế, học đến năm đệ tam thì bị đuổi. Ông ra Hà Nội học

tiếp, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn, có thời gian dạy ở trường tư thục ở mấy

tỉnh miền Trung.

Ngay từ buổi đầu của Thơ mới (1932 – 1933), Lưu Trọng Lư đã là

người cổ động tích cực. Với những bài báo, tranh luận, diễn thuyết có tình có

lí và một thực tế sáng tác phong phú, Lưu Trọng Lư đã góp phần cho sự thắng

thế của Thơ mới trên thi đàn.

Năm 1933, Lưu Trọng Lư ra tập sách đầu tay – Người sơn nhân (gồm

ba truyện ngắn, mười bài thơ và một bài viết về Thơ mới, được dư luận chú ý.

Sau đó, ông đã xuất bản nhiều tập tiểu thuyết, truyện ngắn và tập thơ Tiếng

thu nổi tiếng.

Sau Cách mạng, Lưu Trọng Lư tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc

ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông lên chiến khu Thừa Thiên. Cuộc

sống kháng chiến giữa lòng dân tộc và nhân dân đã nhào nặn lại tâm hồn Lưu

Trọng Lư. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1948. Những năm tiếp

theo, ông sáng tác văn nghệ và đảm nhận công tác tuyên huấn ở Liên khu IV,

là Chi hội trưởng chi hội văn nghệ Liên khu IV, chủ bút tờ Thép mới, Phó

giám đốc khu tuyên truyền văn nghệ của Trung ương Đảng.

24

Sau 1954, Lưu Trọng Lư về công tác ở Hà Nội (tại tiểu ban Văn nghệ

Trung ương). Từ năm 1958, ông về công tác ở Bộ Văn hóa, là Vụ phó, Quyền

Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật, Tổng thư lý Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.

Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, Lưu Trọng Lư có những

chuyến đi thực tế vào vùng tuyến lửa khu IV cũ và đường Trường Sơn. Ông

tiếp tục làm thơ, viết nhiều kịch bản sân khấu – cả kịch nói và kịch thơ. Ông

còn là tác giả của nhiều bài tùy bút, bút ký, phê bình văn học.

Lưu Trọng Lư là ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (khóa

II), là ủy viên Hội đồng cố vấn của Hội nhà văn và Hội nghệ sĩ sân khấu từ

năm 1983. Năm 1985, cùng với một số văn nghệ sĩ lão thành, Lưu Trọng Lư

được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng ba. Năm 1991, ông

qua đời ở Hà Nội.

Lưu Trọng Lư là một nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, viết văn, soạn

kịch,… Ở lĩnh vực nào ông cũng có tác phẩm tạo được dấu ấn riêng.

Trước Cách mạng tháng Tám, Lưu Trọng Lư sáng tác chủ yếu là thơ,

tiểu thuyết và truyện ngắn. Các tác phẩm đã được xuất bản: Người sơn nhân

(truyện - 1933), Huế, một buổi chiều (truyện - 1938), Tiếng thu (thơ - 1939),

Chiếc cáng xanh (truyện - 1941), Khói lam chiều (truyện - 1941),…

Sau Cách mạng, bên cạnh thơ, văn xuôi ông còn sáng tác kịch nói, kịch

thơ và kịch bản cải lương. Các tác phẩm đã được xuất bản: Tỏa sóng đôi bờ

(thơ – 1959), Người con gái sông Gianh (thơ – 1966), Từ đất này (thơ –

1971), Mùa thu lớn (tùy bút, hồi kí – 1978), Hồng Gấm (kịch thơ – 1973),

Tuổi hai mươi (kịch thơ – 1973), Nữ diễn viên miền Nam (kịch hát cải lương),

Cây thanh trà (kịch hát cải lương), Xuân Vỹ Dạ (kịch nói), Anh Trỗi (kịch

nói), Nửa đêm sực tỉnh (hồi kí – 1959),…

25

Với một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ và phong phú, đặc sắc cùng

những đóng góp tích cực, đáng quý cho nền văn nghệ Việt Nam, Lưu Trọng

Lư vinh dự được Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ

thuật (năm 2000).

1.2.2. Vị trí của truyện ngắn trong sáng tác của Lưu Trọng Lư

Trước Cách mạng tháng Tám, ở nước ta có khá nhiều nhà thơ đồng thời

là người viết truyện ngắn, chẳng hạn như Thế Lữ, Xuân Diệu,… Các cây bút

này được đánh giá cao ở vai trò thi sĩ và ít ai gọi họ là tác giả truyện ngắn.

Tuy nhiên, khi nói đến sự nghiệp văn chương của họ thì không thể không

nhắc đến bộ phận truyện ngắn này.

Lưu Trọng Lư là một trường hợp tương tự. Trong toàn bộ sáng tác của

ông, truyện ngắn không phải là bộ phận nổi bật nhất, song cũng không thể

không nhắc tới. Để làm rõ điều này, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu Lưu Trọng

Lư đến với truyện ngắn khi nào và nguyên nhân nào khiến ông sáng tác

truyện ngắn.

Chúng ta không thể biết chính xác Lưu Trọng Lư bắt đầu làm thơ, viết

văn từ khi nào. Nhưng căn cứ vào tập sách đầu tay của ông – Người sơn nhân

được xuất bản năm 1933, lúc đó Lưu Trọng Lư khoảng 21 - 22 tuổi, thì có

thể khẳng định Lưu Trọng Lư đến với văn chương từ rất sớm.

Nếu so với Xuân Diệu, sáng tác văn chương từ năm 15 tuổi, thì Lưu

Trọng Lư sáng tác muộn hơn. Cả hai cùng làm thơ, viết văn nhưng có sự khác

biệt: Xuân Diệu làm thơ rồi sau đó mới viết văn, thơ là tác phẩm đầu tiên trên

hành trình văn chương của ông; còn Lưu Trọng Lư vừa làm thơ vừa viết

truyện, trong đó truyện ngắn là sáng tác đầu tiên giúp ông tạo dấu ấn trên con

đường văn học. Điều này đã được Lưu Trọng Lư ghi lại trong hồi kí Nửa đêm

sực tỉnh: “Những tiểu thuyết và thơ tôi đã viết ở núi Ngân Sơn tôi đưa cho

26

Hoài Thanh xem. Không ngờ truyện Người sơn nhân lại gây một ấn tượng

mạnh ở Hoài Thanh. Hoài Thanh liền trao cho Cao Xuân Huy, một người vốn

tốt nghiệp cao đẳng sư phạm đồng thời là người đang say Trang – Lão. Ông

Huy viết một bức thư cho Hoài Thanh khẳng định đây là một sự sáng tạo

mãnh liệt, lấy tư cách giám đốc, ông Huy sẽ đứng ra bảo lãnh cho quyển sách

được in chịu ở nhà in Đắc Lập. Thế là Ngân Sơn tùng thư ra đời và Người sơn

nhân được xuất bản. Cả thơ lẫn truyện ngắn của tôi được tập hợp và in sách

đều do Hoài Thanh giới thiệu” [42, 1335]. Qua hồi kí đó, chúng ta còn biết

được truyện ngắn Người sơn nhân là thành công đầu tiên được xem là bước

ngoặt giúp con đường văn chương của ông rộng mở: “Tập truyện ngắn đã

được nhiều báo Tây, ta, lúc bấy giờ hết sức chú ý, nhất là bài phê bình của cụ

Phan Khôi đã đưa cuốn truyện của tôi lên tận mây xanh! Ông Phan Khôi cho

rằng văn đoàn đến nay chưa có một tác phẩm nào có giá trị sáng tạo như thế!

Được những lời khen tôi đâm ra hoang mang. Nhưng từ đấy, tôi cảm thấy con

đường văn chương rộng mở trước mắt tôi” [42, 1336]

Nguyên nhân nào khiến Lưu Trọng Lư đến với văn chương nói chung,

truyện ngắn nói riêng?

Trước hết đó lòng đam mê văn chương và khao khát thể hiện tài năng

của người nghệ sĩ.

Đầu những năm 30, xã hội Việt Nam có nhiều biến động mạnh mẽ. Do

những nguyên nhân kinh tế, lịch sử, trong đời sống xã hội đã bắt đầu xuất

hiện, bừng tỉnh ý thức cá nhân. Sự bừng tỉnh về ý thức cá nhân đã tạo nên một

nguồn năng lượng tinh thần dồi dào, to lớn: tự khẳng định mình trước cuộc

đời. Cả một thế hệ hăm hở đến với văn chương với những dự phóng sáng tạo

mới mẻ. Yêu cầu khẳng định và phát triển cá nhân với họ là tạo dựng cho

mình một sự nghiệp tinh thần để nâng cao giá trị của sự sống. Khát vọng xây

27

dựng nền văn học dân tộc theo mô hình hiện đại để sánh kịp với người đã thôi

thúc họ “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” [6,

156]. Là một thanh niên trí thức thuộc thế hệ những năm 30, Lưu Trọng Lư

cũng đã đến với văn chương như một lẽ sống cao quý.

Tình yêu văn chương của Lưu Trọng Lư được khơi nguồn khi còn thơ

ấu bởi người mẹ thương yêu của tác giả: “Mẹ tôi đã mở đường cho tôi vào thế

giới thơ văn chân thật. Từ thuở ấu thơ tôi đã được sống trong những lời ru của

mẹ. Còn gì chân thật bằng tình người mẹ mà những gì đã qua trên môi mẹ sẽ

ở lại, thấm mãi tận lòng con…” [27, 64]. Những năm học ở Huế, Lưu Trọng

Lư được gặp gỡ nhà nho, nhà giáo khí tiết Võ Liêm Sơn và lắng nghe tiếng

thơ “trời sầu đất thảm của cụ”. Mấy chục năm sau, nhớ lại ông vẫn thấy rõ:

“Đời tôi đã qua bao chuyện, nhưng quả thực cái đêm không ngủ nghe thơ cụ

Võ đã để lại trong tâm hồn tôi, trong ngày tháng trẻ dại của tôi một ấn tượng

sâu sắc, dai dẳng” [42, 1323]. Những năm học ở Hà Nội, Lưu Trọng Lư bị

nhà thơ Ba Tư Omar Khayam “mê hoặc”: “Omar Khayam gửi vào cuốn sổ

nhỏ của tôi, vào hồn tôi, vào đời tôi một tứ thơ kì diệu” [42, 1324]. Không chỉ

yêu thơ, ông còn rất mê tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết Dostoievsky. Ban đầu

“chả hiểu gì lắm, nhưng “Đốt” đã nắm tóc” ông. Niềm đam mê đó to lớn và lạ

kì không thể nào lí giải được: “Cái điều làm Loan đôi chút suy tư là sao tôi cứ

đọc tiểu thuyết Nga, nhất là truyện Dostoievsky. Tôi nói với Loan: Thằng

ngốc là ai, là gì, tôi không hiểu, nhưng tôi vẫn thích, Loan sửng sốt, tôi kể với

một giọng say sưa… chuyện thằng ngốc mà cũng là một ông thánh” [42,

1325]. Có lẽ, xuất phát từ tình yêu đặc biệt này mà Lưu Trọng Lư đã đến với

văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng.

Lưu Trọng Lư đã khởi nghiệp văn chương bằng truyện ngắn. Nhưng

đến những năm 1935 – 1940, thơ ông được rất nhiều người yêu thích, ông trở

nên có một vị trí nổi bật trên thi đàn. Thơ Lư là những vần thơ xuất phát từ

28

chính cảm xúc của tâm hồn và chỉ để làm đẹp cho tâm hồn: “Yêu thuần chất,

mộng thuần chất, đẻ ra thơ thuần chất… Sẽ đẩy lui ý xấu, đắp thêm mộng đẹp

cho tâm hồn” [42, 1333]. Thành công với thơ, Lưu Trọng Lư vẫn tiếp tục

sáng tác truyện ngắn. Các truyện ngắn của ông lần lượt được đăng trên Tiểu

thuyết thứ bảy, Phụ nữ thời đàm, Tân thiếu niên, Hà Nội báo… Nếu như thơ

của Lưu Trọng Lư bấy giờ là thơ “thuần chất”, phát xuất từ những nhu cầu

bên trong, “không phải để cầm để bán cho ai, mà là những bài thơ làm đẹp

lòng người” [42, 1338] thì truyện ngắn của ông được sáng tác một phần là do

sự thúc bách của cuộc sống vật chất bên ngoài. Nói cách khác, Lưu Trọng Lư

sáng tác truyện ngắn, văn xuôi phần nào là để kiếm sống.

Sáng tác để kiếm sống là tình trạng chung của nhiều văn nghệ sĩ nước

ta trước Cách mạng. Trong xã hội thương mại thời bấy giờ, hoạt động kinh

doanh văn hóa diễn ra rất sôi nổi. Trong đó, viết văn cũng trở nên một cái

nghề kiếm sống tuy rất chật vật. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và

thấm thía thực trạng này trong nhiều truyện ngắn của mình: “Hắn hiểu thế nào

là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi

thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lí, nhưng không

thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều

cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên

ngay sau lúc đọc” [6, 156]. Nhà thơ Xuân Diệu cũng đã từng thốt lên “Cơm

áo không đùa với khách thơ”, “khi túng thiếu nó thúc bách thì văn viết chưa

chín vẫn cứ phải bán… Và anh Lưu Trọng Lư viết truyện được, chứ tôi không

viết truyện được. Tôi sợ cho cái nghề viết văn! Phải kiếm nghề khác” [69,

265]. Qua lời bộc bạch của Xuân Diệu, chúng ta có thể thấy viết truyện ngắn

cũng là một cách Lưu Trọng Lư kiếm sống. Trong hồi kí, Lưu Trọng Lư viết:

“Chả là lúc bấy giờ sau khi ở Huế tôi cho xuất bản Ngân Sơn tùng thư và bộ

ba truyện ngắn của tôi, đã làm cho cụ Phan Khôi và nhiều nhà phê bình trên

29

báo chí chữ Việt và chữ Pháp khen ngợi, nhất là khi anh Nhất Linh đã cho in

những bài “Phi lộ” của tôi về “Thơ mới” (kèm theo những bài thơ mới của

tôi) trên báo Ngày nay, thì rõ ràng tôi có một cái tên và bắt đầu tôi trở nên một

“món hàng”. Tôi đã gặp nhiều người tìm tôi để mua lúa non!” [42, 1337]. Đối

với một cây bút trẻ nhiều tâm huyết và đầy triển vọng, còn gì “chán chường,

“mệt mỏi” hơn khi tên tuổi mình trở thành “món hàng”. Thế nhưng vì sinh kế,

Lưu Trọng Lư đã cho ra đời nhiều truyện - sản phẩm của những “hợp đồng

nghiệt ngã”: “Những tên buôn, khi chúng đánh hơi thấy “đồng tiền nhà văn”,

sắp “đội nón ra đi”, cái đói, cái thiếu, cái túng đã ngấp nghé bên ngoài cửa sổ,

ấy là lúc bắt đầu “thời kì những hợp đồng” – những hợp đồng “tiền trao cháo

múc”, rồi những hợp đồng giữa sự túng bấn… Đồng tiền giữa con người và

ma quỷ!” [42, 1338].

Coi viết truyện là một phương cách mưu sinh, nhưng như vậy không có

nghĩa là để có tiền các nhà văn sẵn sàng bán rẻ ngòi bút của mình. Là một

nghệ sĩ chân chính, ai mà không đau đớn, dằn vặt khi phải viết “thứ văn

chương bằng phẳng và quá ư dễ dãi”. Bởi với họ, “sự cẩu thả trong bất cứ

nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì

thật là đê tiện” [6, 156]. Lưu Trọng Lư cũng có những nỗi niềm như vậy. Là

một người đam mê văn chương, đến với văn chương bằng tấm lòng đam mê

thành thật, Lưu Trọng Lư luôn ý thức được rằng “cuộc đời và chuyện văn

chương đâu phải dễ dàng đơn giản thế, đâu phải sẵn bút mực, đẩy vài dòng,

cứ hết dòng này tiếp dòng khác cho đến hết một chương lại chấm hết một dấu

hết” [42, 1321]. Cho nên nhiều lúc “tiền người ta đã lấy tiêu mà ngòi bút của

mình thì cứ chần chờ” [42, 1338]. Bởi không thể viết cẩu thả nên tác giả đã

chấp nhận thất bại: “tôi đã thất bại trong cái trò văn chương rẻ tiền làm vừa

lòng các cô gái tân thời. Là nhà văn nhà thơ, chúng tôi không phải lúc nào

30

cũng cao khiết” [42, 1338]. Nếu không phải là cây bút có lương tâm và trách

nhiệm, Lưu Trọng Lư đã không có những suy nghĩ dằn vặt như thế.

Tóm lại, Lưu Trọng Lư đến với truyện ngắn từ rất sớm, xuất phát từ

tình yêu mãnh liệt dành cho văn chương và một phần là vì nhu cầu cuộc sống.

Truyện ngắn đem đến những thành công đầu tiên, giúp ông bước đầu tạo

dựng tên tuổi, tiếp thêm nghị lực và niềm tin cho ông trong cuộc sống và trên

con đường sáng tạo văn chương nghệ thuật.

Vị trí quan trọng của truyện ngắn trong toàn bộ sáng tác văn học của

Lưu Trọng Lư trước 1945 còn được thể hiện qua số lượng và sự đa dạng của

của mảng sáng tác này.

Trước 1945, Lưu Trọng Lư sáng tác ở cả hai lĩnh vực thơ và văn xuôi.

Về thơ, ông có tập thơ Tiếng thu, gồm khoảng 50 bài thơ ngắn, dài khác nhau.

Về văn xuôi, nếu căn cứ theo Lưu Trọng Lư – tác phẩm truyện ngắn, tiểu

thuyết ông có 18 tiểu thuyết và 26 truyện ngắn. Tiến hành so sánh, chúng ta sẽ

thấy số lượng tác phẩm văn xuôi và tác phẩm thơ của ông là khá cân bằng; số

lượng tiểu thuyết và số lượng truyện ngắn cũng tương đương nhau. Kết quả

trên đã phản ánh phần nào thực tế sáng tác của Lưu Trọng Lư: ông chú trọng

cả hai lĩnh vực sáng tác là thơ và văn xuôi; trong văn xuôi, ông coi trọng tiểu

thuyết nhưng cũng không xem nhẹ truyện ngắn.

Trong giai đoạn 1930 – 1945, giai đoạn truyện ngắn phát triển mạnh mẽ

nhất, số lượng truyện ngắn của Lưu Trọng Lư không phải là nhiều. Tuy nhiên,

nếu so sánh với Thạch Lam, Thanh Tịnh hay Xuân Diệu thì con số đó cũng

không hẳn là ít (Thạch Lam có khoảng 23 truyện, Thanh Tịnh có khoảng 18

truyện, Xuân Diệu có khoảng 16 truyện). Mặt khác, truyện ngắn của Lưu

Trọng Lư thuộc nhiều kiểu loại. Có những truyện thần tiên ma quái (Ly Tao

tuyệt vọng). Có truyện dã sữ (Người sơn nhân, Chiêm Thành). Có truyện tâm

31

lí xã hội (Cô bé hái dâu, Một lần tôi đi qua, Khỏi truông,…). Có truyện thế sự

(Con chim sổ lồng, Anh Neo, Thi sỹ,…). Chính số lượng cùng sự đa dạng của

truyện ngắn đã phần nào chứng tỏ Lưu Trọng Lư là một cây bút truyện ngắn

dồi dào bút lực.

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, nhìn trên đại thể, chúng ta thấy

ông chưa tạo được một phong cách viết rõ ràng. Chất lượng của các truyện

ngắn cũng không đồng đều, có những truyện khá đặc sắc song cũng có những

truyện chỉ “thứ truyện tầm thường” như nhận định của Vũ Ngọc Phan [52,

686]. Ngay cả trong một truyện ngắn, chất lượng của các thành tố nội dung,

nghệ thuật cũng không giống nhau. Chẳng hạn như trong truyện ngắn Con vú

em, tư tưởng, tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng quý lối kể chuyện khá

dài dòng, dễ tạo cảm giác nhàm chán. Tuy nhiên, dù chất lượng nghệ thuật có

như thế nào đi chăng nữa thì truyện ngắn của Lưu Trọng Lư cũng là những tư

liệu cần thiết giúp ta hiểu thêm về con người ông, về khuynh hướng tư tưởng

thẩm mĩ của ông và về tài năng đa dạng của ông.

Tóm lại, với Lưu Trọng Lư, có lẽ chỉ cần mảng sáng tác thơ cũng có

thể giúp ông có được một vị trí nhất định trong nền văn học dân tộc. Song nếu

bỏ qua mảng văn xuôi, trong đó có truyện ngắn, sự nghiệp văn học của Lư sẽ

thiếu đi sự đa dạng, phong phú; ông cũng sẽ không được nhắc nhiều với tư

cách một nghệ sĩ đa tài. Sự tồn tại của truyện ngắn cùng với tiểu thuyết và thơ

trong sáng tác của Lưu Trọng Lư gợi liên tưởng đến hình ảnh cái kiềng ba

chân; đến câu ca dao “Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn

núi cao”. Từ đó, chúng tôi đi đến kết luận truyện ngắn có một vị trí quan

trọng trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư.

32

1.2.3. Chất thơ trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư

Mỗi tác giả văn học đều phải tìm tòi, chọn lựa một đường hướng sáng

tạo, sao cho tài năng nghệ thuật của mình được thể hiện rõ nhất, mình có thể

giao tiếp với bạn đọc những vấn đề về cuộc sống và con người đương thời

một cách tri âm và thoải mái nhất. Đường hướng sáng tạo đó thường rất phù

hợp với cá tính riêng của người cầm bút. Cái “tạng” riêng, “điệu tâm hồn”

riêng của tác giả sẽ góp phần quyết định đặc điểm sáng tạo và sắc diện nghệ

thuật của chính anh ta. Đồng thời, thông qua tác phẩm, cá tính, bản sắc tâm

hồn bên trong của chủ thể sáng tạo cũng được thể hiện rõ ràng nhất. Điều này

tương ứng với quan niệm “văn tức là người” (Buffon).

Lưu Trọng Lư là một trường hợp tiêu biểu của quy luật “văn tức là

người” trên. Ông vốn là một người rất mơ màng, lơ đãng: “Mỗi lần gặp, tôi có

cảm tưởng như Lư là một vong hồn vất vưởng, nay đây mai đó, như mây như

gió, phiêu bạc giữa trần gian” [27]. Cái cá tính riêng này đã đưa ông đến với

thơ trữ tình lãng mạn. Và trong thế giới thơ đó, cái điệu tâm hồn của ông đã

được bộc lộ rõ hơn hết: “Ở đời này, ít có người lơ đãng hơn. Thi sĩ đời nay họ

khôn lắm, có khi ranh nữa. Và yêu thơ, thường ta chả nên biết người, thiệt

thòi ngay cho họ và thiệt thòi ngay cho mình. Nhưng yêu thơ Lư mà quen Lư

vô hại, vì đời Lư cũng là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là

một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ

Lư thi sĩ hơn ai hết. Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống sông ôm bóng trăng

mà chết ta cũng không nên ngạc nhiên một tí nào” [61, 403].

Là một nhà thơ lãng mạn đồng thời là cây bút viết truyện ngắn nên

truyện ngắn Lưu Trọng Lư rất giàu chất thơ.

Thơ và truyện ngắn là hai thể loại khác biệt. Nhưng với Lưu Trọng Lư,

chúng có thể được hòa trộn với nhau tạo thành một chỉnh thể có sự hài hòa

33

giữa tố chất hiện thực và tố chất lãng mạn, giữa tính tự sự và tính trữ tình. Ly

Tao tuyệt vọng là một trường hợp như vậy. Trong truyện ngắn này, để diễn tả

tiếng đàn, tiếng hát chất chứa nỗi niềm cô đơn, u hoài của nàng Ly Tao, bên

cạnh những câu văn miêu tả, tác giả còn sử dụng những dòng thơ giàu biểu

cảm và nhạc điệu:

“Ta là nàng Ly Tao,

Ngồi bến Văn Giang khóc trăng sầu,

Đếm giọt sương gieo, lắng nghe rỉ rầu giọng dế,

Trời đất quạnh hiu, còn ta đây tuôn dòng lệ,

Gỡ mối tơ lòng, ta sẽ lựa đường tơ,

Ngọn lửa chài, con sông trắng, bóng sao mờ nhấp nháy,

Hồn nghệ sĩ lạnh lùng tê tái,

Ngọn cầm giăng tơ phím lung lay (…)” [42, 40].

Những dòng thơ cứ được nhắc lại, tạo nên một âm hưởng buồn thương

tha thiết bàng bạc khắp câu chuyện. Nhờ đó câu chuyện tăng thêm chất trữ

tình lãng mạn.

Trong truyện ngắn Chiếc áo rét, Lưu Trọng Lư cũng đặt vào một bài thơ

ngay sau nhan đề tác phẩm:

“Một hôm ta đứng tên hồ Kiếm

Bên ta rộn rịp biết bao người

Mà ta chỉ thấy người hôm ấy

In giữa không gian một nụ cười (…)” [42, 88].

34

Tiếp sau bài thơ là phần văn xuôi. Sự sắp đặt này tưởng chừng rời rạc,

nhưng thật ra nó lại liền mạch, kết dính. Bởi từ đầu tác phẩm, những dòng thơ

đã gây cho người đọc một dấu ấn cô đọng về cảm xúc. Cảm xúc đó dần hiện

hình qua những chi tiết, hình ảnh, sự kiện, diễn biến được miêu tả ở phần văn

xuôi. Qua đó, câu chuyện vừa giàu cảm xúc vừa sinh động; những biến thái

trong tâm hồn nhân vật cũng được biểu hiện rõ nét hơn.

Cô bé hái dâu cũng là một truyện ngắn chứa đầy thơ:

“Chiều chiều ra bãi hái dâu

Lá vàng vàng úa, lá dầu dầu xanh

Duyên kia có phụ chi tình?

Con tằm nhả kén cho mình quay tơ” [42, 44].

Hay:

“Cái tình chi?

Cái tình chi cũng ngộ

Khiến cho đây đó quen nhau

Trong vườn dâu, em sầu, em tủi

Giỏ dâu đầy, lủi thủi một mình em!” [42, 47].

Những câu thơ cũng được tác giả dùng để diễn tả tiếng hát của người

con gái trong câu chuyện. Tiếng hát ấy cứ ngân nga, vang vọng trong không

gian và trong tâm hồn chàng trai mỗi khi chàng lắng đọng suy tư. Ở đây, sự

xuất hiện đúng chỗ của các câu thơ đã giúp mạch cảm xúc của câu chuyện

được liền mạch. Truyện ngắn trở thành những trang bộc bạch tâm hồn của

nhân vật.

35

Trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư còn có những hình ảnh, cảm xúc

giống như trong thơ ông. Lại Nguyên Ân viết: “Lưu Trọng Lư được xem

trước hết như một nhà thơ; nhưng thế giới thơ Lưu Trọng Lư thật ra không

tách rời, mà ngược lại, có sự tiếp nối với thế giới văn xuôi do ông sáng tạo, đó

là cuộc sống trong các truyện ngắn, truyện dài ông viết. Nhiều khi, một vài ý

tưởng cảm xúc chỉ in gọn trong một vài câu thơ đoạn thơ, sẽ có âm vang rộng

dài hơn, mà không chỉ một lần, trong các truyện ngắn, truyện dài” [42, 14].

Đọc thơ và truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta có thể dễ dàng bắt

gặp những hình ảnh giống nhau. Ví dụ như hình ảnh cô gái Chiêm Thành xuất

hiện trong bài thơ Trường hận:

“Hay là cô gái nước Chiêm Thành

Gặp cơn binh lửa, bỏ ngày xanh,

Hết trôi sông rồi chết giạt…

Chút tinh anh thừa rơi rác (…)” [41, 57]

và trong truyện ngắn Chiêm thành: “Chàng thấy một cái xác đen nằm trong

một vũng máu. Chàng sờ tay vào thì thấy thịt đã lạnh tanh. Chàng ghé tai vào

thì nghe lọt ở chân răng một câu nói cuối cùng: “Em là gái Chiêm Thành!””

[42, 73]. Gắn liền với hình ảnh này là một nỗi niềm uất hận: “Mà mối hận

nghìn thu ôm ấp lòng”(Trường hận), và “biết bao nỗi đau đớn: thương tổ

quốc, thương nòi giống, thương những người bất hạnh, thương những kẻ lạc

loài” [42, 73]. Hay hình ảnh một gian nhà nhỏ nằm giữa một khoảng thiên

nhiên rộng lớn, thơ mộng nhưng hoàn toàn tách biệt, ở đó chỉ có hai con

người sống với nhau. Nếu như trong Túp liều cỏ, hình ảnh này gói gọn trong

vài câu thơ:

“ Nhà cỏ ba gian, vườn một khoảnh,

36

Có hồng, có táo, có đào tiên

Lủi thủi tháng ngày hai chiếc bóng

Ra vào may có gió trăng quen (…)” [41, 20].

Thì trong truyện ngắn Cái đời hát xẩm, nó được miêu tả cụ thể, sinh động

hơn: “Hai vợ chồng dần dà ngày tháng đã cất nổi một nếp nhà, mái lợp bằng

lá, phên đan bằng nứa, trông cũng gọn gàng sạch sẽ. Chung quanh lại có một

khoảnh vườn rộng, trồng đủ thức rau quả và bông hoa. Một vạt lớn dành riêng

cho những bụi huỳnh tinh. Trên một cây đào tiên khít ở hè có treo thòng lõng

một cái võng bện bằng rễ chìu. Đằng xa, một ngọn suối chảy trên gành đá,

tiếng rỉ rách nghe đều đặn như tiếng tích tắc của đồng hồ” [42, 51]. Hình ảnh

này đã phản ánh nét lãng mạn trong tâm hồn chủ thể sáng tạo.

Thơ Lưu Trọng Lư phần nhiều là thơ tình yêu. Cảm xúc tình yêu trong

thơ ông thường là cảm xúc mơ mộng, đơn phương, sầu khổ:

“Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng

Mà sầu trong dạ đã mang mang

Tình yêu như bóng giăng hiu quạnh

Lạnh lẽo đêm trường giãi gió sương” [41, 33].

Trong truyện ngắn của ông, chúng ta cũng bắt gặp những câu chuyện tình với

bao cảm xúc như thế. Chẳng hạn như trong Cô bé hái dâu: “Dầu tôi mới thấy

cô lần đầu, mà như đã quen nhau lâu lắm rồi, vì từ khi ở bãi dâu về, cái hình

ảnh của cô bé – cái hình ảnh mà tôi đã tưởng tượng ra – thường theo luôn

luôn bên mình tôi, và chủ trương cả tâm hồn tôi, cả cuộc đời tôi” [42, 46].

Hay trong Một lần tôi đi qua tình yêu cũng bắt đầu từ một lần tình cờ gặp gỡ,

chàng trai không biết và cũng không cần biết cô gái là ai, nhưng hình bóng cô

37

gái đã được đặt vào “một chỗ trong sạch nhất của trái tim”, “một chỗ trong

sạch nhất của linh hồn” [42, 117-118].

Tóm lại, chúng ta có thể tìm thấy không ít những tương đồng mang tính

bổ sung độc đáo giữa thế giới thơ và truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Sự

tương đồng và tiếp nối với thơ đã giúp cho truyện ngắn của ông tuy vẫn mang

những đặc điểm của một tác phẩm tự sự nhưng lại giàu chất trữ tình lãng mạn.

TIỂU KẾT:

Truyện ngắn là một thể loại phát triển mạnh trong giai đoạn văn học

1930 – 1945. Là một tác giả bắt đầu sự nghiệp sáng tác trong giai đoạn này,

Lưu Trọng Lư cũng tìm đến với truyện ngắn để thể hiện niềm đam mê và khả

năng của mình. Tuy nhiên, truyện ngắn của ông không tạo được nhiều dấu ấn

như thơ của ông. Chính vì thế mà vị trí của ông trong nền truyện ngắn rất mờ

nhạt. Nhưng xét trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư thì bộ

phận sáng tác này vẫn có một vị trí quan trọng. Nó góp phần khẳng định tài

năng đa dạng của tác giả. Đặc biệt là góp phần đem đến cái nhìn toàn diện,

sâu sắc hơn về Lưu Trọng Lư , một tác giả văn xuôi – đây là điều mà trước

nay chưa được quan tâm nhiều.

38

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TRUYỆN NGẮN LƯU

TRỌNG LƯ

Tác phẩm văn học là một thành quả sáng tạo của nghệ thuật ngôn từ,

vừa là đối tượng thẩm mỹ của sự tiếp nhận. Ở hai phương diện đó, tác phẩm

tham gia vào đời sống văn học như một bộ phận có hiệu lực nhất, như một tế

bào cơ bản nhất. Dù dung lượng, qui mô có thể khác nhau, tác phẩm văn học

được xem như là một chỉnh thể nghệ thuật, có sự thống nhất hữu cơ giữa nội

dung và hình thức, giữa yếu tố và hệ thống.

Khi đề cập đến nội dung tác phẩm, chúng ta thường nghĩ đến hai bình

diện: nội dung trực tiếp và nội dung tư tưởng [13, 14]. Sự phân định cấp độ

nội dung tác phẩm giúp cho người ta nhận ra sự đa tầng, đa nghĩa của tác

phẩm văn học. Nhưng sẽ hiểu không đầy đủ về tác phẩm khi người ta dừng lại

ở những cái gì được miêu tả trực tiếp, được biểu hiện cụ thể trong tác phẩm.

Một nội dung cụ thể sẽ không có ý nghĩa khi nó không gắn với một tư tưởng,

một tình cảm, một thái độ của tác giả hay của nhân vật. “Một nội dung cụ thể

nào cũng hàm chứa trong bản thân nó một nội dung tư tưởng nhất định” [13,

14].

Có nhiều phương diện cấu thành nội dung tư tưởng của một tác phẩm

văn học. Nhưng ở đây, khi tìm hiểu nội dung truyện ngắn của Lưu Trọng Lư,

chúng tôi chỉ tìm hiểu hai phương diện là đề tài và cảm hứng nghệ thuật.

2.1. Đề tài trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Đề tài là một phương diện khách quan của nội dung tác phẩm văn học.

Đọc bất cứ tác phẩm nào chúng ta cũng bắt gặp những người, những cảnh và

tâm tình cụ thể sinh động. Đó là phạm vi miêu tả trực tiếp của tác phẩm. Tính

chất của phạm vi miêu tả trực tiếp trong các tác phẩm có thể hết sức đa dạng:

chuyện con người, con thú, cây cỏ, chim muông, đồ vật, lại có cả chuyện thần

39

tiên, ma quái, chuyện quá khứ, chuyện viễn tưởng mai sau. Nhưng mục đích

của văn học không bao giờ chỉ là giới thiệu những hiện tượng cụ thể, cá biệt

của đời sống hay tưởng tượng. Tác phẩm văn học bao giờ cũng xuyên qua

một phạm vi miêu tả trực tiếp trong tác phẩm để khái quát lên một phạm vi

hiện thực đời sống có ý nghĩa sâu rộng hơn. Sự khái quát về phạm vi xã hội

lịch sử của đời sống được phản ánh một cách nghệ thuật trong tác phẩm gọi là

đề tài.

Truyện ngắn của Lưu Trọng Lư chủ yếu xoay quanh những đề tài như

sau:

Đề tài tình yêu. Lưu Trọng Lư có khá nhiều truyện ngắn viết về tình

yêu. Trong đó, tác giả thường miêu tả các mối tình lãng mạn, nhiều màu sắc:

tình yêu hư ảo giữa người với ma trong câu chuyện đậm chất truyền kì Ly Tao

tuyệt vọng, tình yêu đầy mơ mộng giữa những chàng trai cô gái trong độ tuổi

học sinh trong Cô bé hái dâu, Chân ái tình, Chiếc áo rét, Bó lan trắng, Người

mua hoa, Một lần tôi đi qua, Tình trong giây lát,… và tình yêu đau khổ trong

Nàng Vân may áo cho chồng.

Đề tài dã sử với hai truyện ngắn Người sơn nhân và Chiêm Thành. Ở

hai câu chuyện này, tác giả không chú trọng vào các sự kiện lịch sử. Yếu tố

lịch sử chỉ được nhắc thoáng qua, làm nền cho trí tưởng tượng cũng sự việc

thể hiện cảm xúc chủ quan của tác giả.

Đề tài cuộc sống nghèo khổ của những đứa trẻ trong Con chim sổ lồng,

của người nông dân trong Anh Neo, của người phụ nữ trong Con vú em…

Đề tài người nghệ sĩ trong Cái đời hát xẩm, Thi sỹ, Cắm neo, Bạn tôi

cưới vợ.

Đề tài trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư khá đa dạng. Tuy nhiên, tác

giả chưa xây dựng được cho mình những hệ thống đề tài chủ chốt như các nhà

40

văn cùng thời. Chẳng hạn như Nam Cao với hai đề tài sáng tác chính là người

nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Hay Nguyễn Tuân với đề tài cái đẹp

một thời vang bóng. Còn với Lưu trọng Lư, truyện ngắn như là một mảnh đất

màu mỡ để người nghệ sĩ gieo trồng đủ loại cây. Mỗi cây, vài cây là một loại

đề tài. Mỗi loại đề tài lại mang một màu sắc riêng cùng tồn tại trong một thời

khắc lịch sử. Điều này cho thấy Lưu Trọng Lư có quan tâm đến nhiều khía

cạnh trong cuộc sống, tuy nhiên mức độ sâu sát, sâu sắc thì không nhiều.

Cũng giống như trong thơ, tình yêu là đề tài chính trong truyện ngắn

của Lưu Trọng Lư. Đề tài này đã phản ánh xu hướng sáng tác lãng mạn mà

tác giả đang theo đuổi, là sự lựa chọn giúp thể hiện rõ hơn cái tôi đa tình của

mình, khi mà thơ không đủ chổ giãi bày thì ông tìm đến văn xuôi. Tuy nhiên,

Lưu Trọng Lư dù có đắm chìm trong yêu đương mơ mộng thì cũng không

quên những mảnh đời cơ cực quanh mình. Qua những truyện ngắn Con chim

sổ lồng, Anh Neo, Thi sỹ,… chúng ta cũng thấy được khả năng nắm bắt và tái

hiện chân thực, nhạy bén hiện đời sống đương thời cùng tấm lòng tha thiết

của ông hướng về con người và cuộc sống. Điều đó chứng tỏ rằng, Lưu Trọng

Lư rất lãng mạn nhưng không hề là thoát li hiện thực.

Tóm lại, Lưu Trọng Lư quan tâm, xúc cảm trước nhiều hiện tượng của

cuộc sống và đã phản ánh chúng trong truyện ngắn của mình. Những đề tài

mà ông chọn vốn không phải là mới mẻ. Tuy nhiên, việc lựa chọn đề tài này

chứ không phải là đề tài khác đã nói lên cái xu hướng sáng tác, cái khuynh

hướng tư tưởng thẩm mỹ của ông.

2.2. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Trong sáng tạo nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng, cảm hứng là

“điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó

biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư

41

tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [22, 44-45]. Cảm

hứng được hiểu là nhiệt hứng, niềm say mê, là sự trào dâng của tư tưởng –

tình cảm cao độ của người nghệ sĩ khi họ chiếm lĩnh bản chất của cuộc sống,

của con người và nó được thể hiện và biểu hiện một cách nghệ thuật trong tác

phẩm.

Từ việc tìm hiểu đề tài, chủ đề trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư, chúng

ta có thể biết được cảm hứng sáng tác của ông. Đó là cảm hứng trữ tình gắn

liền với tình yêu mộng mơ và cảm hứng thế sự tái hiện cuộc sống thế tục, đời

thường. Có thể tóm tắt hai cảm hứng này trong chữ “mộng” và “đời”. Với

Lưu Trọng Lư, “mộng và đời là hai sợi chỉ ngang dọc trên khung cửi. Đời đẻ

ra mộng và mộng lại dệt nên đời” [42, 1332].

2.2.1. Cảm hứng trữ tình

Cảm hứng lãng mạn trữ tình vốn là cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu

Trọng Lư. Nhắc đến thơ của ông là nhắc đến những vần thơ tình yêu, bởi

cũng như nhiều thi sĩ trong phong trào Thơ mới, thơ tình yêu chiếm phần lớn

trong những tập thơ. Tuy nhiên, tình yêu trong thơ Lưu Trọng Lư lại mang

một màu sắc riêng. Nếu như với Xuân Diệu, tình yêu luôn sôi nổi vồ vập, đầy

đam mê và rất “trần thế”:

“Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!

Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!

Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!” [16, 515].

Với Nguyễn Bính, tình yêu rất nhẹ nhàng, chân phương:

“Nhà em cách bốn quả đồi,

Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng:

42

Nhà em xa cách quá chừng

Em van anh đấy, anh đừng thương em” [16, 356].

Thì với Lưu Trọng Lư, tình yêu luôn gắn liền với mơ mộng:

“Thơ ta cũng giống tình nàng vậy

Mộng! Mộng mà thôi, mộng hão hờ” [41, 11].

Và vì là tình trong mộng nên có cái say đắm mơ màng nhưng thường chóng

tàn phai, rơi rụng, chỉ để lại dư vị bâng khuâng tiếc nuối:

“Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau

Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau

Chờ anh dưới gốc sim già nhé

Em hái đưa anh đóa mộng đầu” [41, 33].

Hạnh phúc nếu có cũng không bền, và khi đã qua đi, những kỉ niệm

tươi đẹp của “cái thuở ban đầu” chỉ càng xót lòng:

“Còn đâu ánh trăng vàng

Mơ trên làn tóc rối?

Đêm ấy xuân vừa sang

Em vừa hai mươi tuổi” [41, 20].

Trong truyện ngắn của Lưu trọng Lư, những cung bậc cảm xúc yêu

đương mơ mộng như trong thơ cũng hiện diện rõ nét. Nói cách khác, truyện

ngắn viết về tình yêu của Lưu Trọng Lư có chung một nền cảm xúc với thơ. Ở

truyện ngắn, vẫn là dấu ấn của cái tôi thi sĩ đa tình và sầu mộng của người thi

43

sĩ. “Ở thể loại nào thì Lưu Trọng Lư cũng cứ để lòng mình tràn lan trên mặt

giấy, trước sau, trong con người ấy vẫn là một tâm hồn thơ” [27, 114].

Đọc những câu chuyện tình của Lưu Trọng Lư là bước vào một thế giới

thấm đẫm cảm xúc yêu đương, mơ mộng. Ly Tao tuyệt vọng, Bó lan trắng,

Người mua hoa là những ví dụ.

Ly Tao tuyệt vọng kể về mối tình của Phan Chí Y, một nhà nho ẩm dật

sống bằng nghề chài lưới. Trong một đêm trăng lạnh, Phan Chí Y đang chèo

thuyền đến cồn Mụ Đội thì nghe được “một giây âm hưởng, tiếng trầm tiếng

bổng, tiếng chậm tiếng mau. Tiếng mau như vỗ cánh bay cao, tiếng chậm như

giọt sương nặng gieo trên tàu lá, tiếng trầm như hòn châu đắm trong bể thẳm,

tiếng lên như mảy lông cuốn theo gió nồm… Theo nhịp đàn, một khúc hát du

dương, càng nghe càng thấm thía, càng nghe càng thâm trầm” [42, 40]. Chàng

ngỡ mình gặp ma. Thế nhưng tiếng đàn, tiếng hát đó cứ làm chàng “nghĩ

ngợi, bâng khuâng, vướng vít”. Cho nên, những đêm tiếp theo chàng lại chèo

thuyền đến để được nghe những thanh âm tha thiết. Rồi chàng trở nên “như

một người điên, điên … vì tình. (…) Trước còn dan díu vì giọng đàn tiếng

hát, bây giờ bắt đầu yêu cả người nghệ sĩ” [42, 41]. Người nghệ sĩ đó là ai?

Đó là vong hồn nàng Ly Tao trong huyền thoại, một nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh

có cùng chung “một tâm sự”, “một điệu” tâm hồn với chàng. Hay đó là vong

hồn của một người cung nữ “hương phai phấn nhạt” bị thải ra khỏi cung vua.

Đó là vong hồn của một bậc khuê các Chiêm Thành bị lạc loài sau cơn nỗi

nhà tan nước mất. Hay đó chỉ đơn giản là một vong hồn? Phan Chí Y không

thể biết, song chàng vẫn luôn mơ tưởng. Rồi một đêm không còn được nghe

“giọng đàn tiếng hát véo von” , chàng trở nên thất tình. Chàng buồn bã quay

thuyền trở về thì vớt được cây đàn nguyệt. Chàng coi đó là kỉ niệm của Ly

Tao. Mùa đông năm sau, trong một đêm ngọn gió lạnh thổi buốt cõi lòng,

44

Phan Chí Y đã mang cây đàn ra đốt. Mối tình tuyệt vọng đã hóa ra làn khói

bạc, bay vào cõi hư vô...

Bó lan trắng kể về chàng họa sĩ Lộc. Một buổi sáng, Lộc nhìn thấy một

bó lan trắng “trong, tươi” được cắm vào cái bình hoa ở phòng mình. Chàng

liền “tưởng tượng người tặng hoa là một thiếu nữ, một cô láng giềng xinh

đẹp, ban ngày qua chơi thấy cái lọ thủy tinh để không rồi nàng nẩy ra cái ý

ngộ nghĩnh: cắm vào đây vài đóa hoa lan trắng ở vườn mình, tự tay mình

trồng ra… Rồi đêm hôm quạnh quẽ, rẽ lá vạch cây, nương bóng nguyệt, nàng

tới phòng Lộc, và nhẹ như khói, nàng lẻn vào phòng, cầm mấy đóa hoa để

tặng chàng, lưu lại trong phòng nhà họa sỹ một chút hương trong sạch của

mối tình xa xôi và kín đáo” [42, 91]. Ý nghĩ đó làm Lộc vô cùng sung sướng,

cảm động. Sáng hôm sau, vừa mở mắt ra, Lộc lại thấy một bó hoa mới, thay

cho đóa hoa rã cánh. “Mùi hương nồng ngát, lan tỏa khắp phòng, chàng thấy

ngây ngất, say sưa; chàng không nghĩ gì nữa, trùm kín chăn lại, và lặng

hưởng một cái thú vị kín đáo” [42, 91]. Sáng thứ ba, là một bó hoa khác. Lần

này, Lộc “đổ cho một phép kì lại của tiên nữ… Chàng lại nghĩ đến chuyện Tú

Uyên ngày xưa” [42, 91]. Hôm thứ tư, Lộc chong đèn đọc Liêu Trai, định

thức suốt sáng để “đợi cô tiên láng giềng”. Nhưng chàng lại ngủ quên. Trong

giấc chiêm bao chàng thấy cô láng giềng xinh đẹp dịu dàng đã đến và mang

tặng chàng một bó hoa. Còn “chàng sẽ đi lại gần nắm tay nàng và ôm choàng

lấy nàng trong một mối tình nồng thiết” [42, 92]. Chàng tỉnh giấc vừa lúc gà

gáy sáng và phát hiện ra người cắm những bó hoa lan tặng chàng lại chính là

Hải, một đứa bé hàng xóm ngộ nghĩnh, ngoan ngoãn thường ngày hay quấn

quýt với chàng. “Lộc hơi thèn thẹn, trùm kín chăn lại và định ngủ thêm một

giấc dài” [42, 92]. Với chàng, tất cả chỉ là một giấc mộng đẹp.

Người mua hoa là câu chuyện của cô thiếu nữ tên Liễu, con của một bà

chủ cửa hàng hoa. Vào ngày 30 Tết, nàng dậy thật sớm, trang điểm thật xinh,

45

rồi chạy ra vườn để hái những bông cúc vàng để bán cho một người khách

đặc biệt đối với nàng: “Một người đã hứa với nàng một lời. Người ấy là một

người khách hàng và khách tình của nàng trong năm qua, cũng vào ngày 30

Tết đã mua cho nàng một bó cúc vàng và đã cho nàng những giây phút mơ

màng… Lời ấy là lời hứa: năm sau cũng ngày này chàng sẽ đến mua cho nàng

một bó cúc vàng, và sẽ…” [42, 93]. Thế là suốt ngày hôm đó, Liễu sống trong

chờ đợi mơ màng. Tâm trạng nàng lúc say sưa, sung sướng, hi vọng, lúc buồn

bã, thất vọng. Cuối cùng người khách đó đã đến. Anh ta hỏi mua một bó cúc

vàng và tặng người con gái khác đang đi bên cạnh anh ta. Lúc này Liễu mới

hiểu lời hứa của anh ta là hư vô và tình yêu của mình là ảo tưởng. Cho nên,

vừa khi anh ta quay đi, Liễu đã vứt tiền mua hoa của anh ta xuống rãnh nước

vì “nàng không muốn giữa một cái dấu tích gì, vì nàng muốn quên như mọi

người, quên một cách dễ dàng vậy” [42, 95].

Cả ba truyện ngắn đều thấm đẫm cảm xúc trữ tình. Tuy nhiên, sắc thái

cảm xúc trong mỗi câu chuyện có khác nhau. Ly Tao tuyệt vọng mang màu

sắc liêu trai, ưu tư, sầu não. Bó lan trắng thì mơ mộng, vui tươi. Người mua

hoa thì vừa trong sáng, nhẹ nhàng vừa thoáng chút ngậm ngùi, chua chát. Ở

cả ba truyện, chúng ta còn thấy sự xuất hiện của yếu tố “mộng”. Yếu tố

“mộng” làm cảm xúc trữ tình tăng thêm phần lãng mạn. Tình và mộng hòa

quyện tạo nên sắc màu đặc trưng cho truyện ngắn Lưu Trọng Lư mà truyện

ngắn của các nhà văn khác không có.

Cảm hứng trữ tình cũng được thể hiện rất rõ trong các truyện ngắn Cô

bé hái dâu, Chiếc áo rét, Một lần tôi đi qua.

Cô bé hái dâu là câu chuyện tình của một chàng trai đa cảm, mơ mộng.

Diễn biến của câu chuyện cũng chính là diễn biến của tâm trạng chàng trai

với rất nhiều cung bậc cảm xúc. Câu chuyện bắt đầu từ một buổi chiều tà, trên

46

đoạn đường tiễn bạn trở về, chàng tình cờ nghe được “tiếng của một người

con gái ẩn ở sau rặng dâu, tiếng nghe như nhẹ nhàng, như bay bổng, như mơ

mộng” [42, 44]. Theo giọng hát, chàng thoáng thấy bóng dáng một người

thiếu nữ. Cũng chính từ những phút giây đầu tiên đó, trái tim chàng đã rung

động yêu đương: “Dầu chưa nhận thấy mặt cô bé, mà tôi đã giữ được một cái

hình ảnh rất xinh tươi, rất linh động. Mà cái cuộc của tôi tự nay cũng thấy

thay đổi hẳn vì tôi đã bắt đầu… yêu” [42, 44]. Rồi vào một đêm trăng sáng,

chàng tìm đến nhà người thiếu nữ ấy. Chân bước đi mà trí não không ngừng

“tưởng tượng thấy một cô bé xinh xắn tươi cười, mỗi chiều đi vào ruộng dâu,

hái những lá dâu xanh. Đêm đến, theo một điệu bộ nhịp nhàng, nhanh nhẹn,

cô bé thái nhỏ những lá dâu rắc vào những cái nong tằm (…) Cho được có

hôm nay, ngồi yên một chỗ, dưới bóng trăng trong, cô bé quay những sợi tơ

vàng, và mơ tưởng những chuyện xa xôi” [42, 45-46]. Giấc mộng đẹp khiến

chàng ngập tràn hạnh phúc. Thế nhưng khi gặp cô gái, chàng lại tỏ ra bối rối:

“Nàng nhìn tôi một cách âu yếm, mà tôi lại càng thêm bối rối. Không hiểu sao

tôi đần độn đến thế (…) Tôi tiến đến gần nàng, tôi bắt lấy tay nàng rồi tôi lại

buông ra (…) Tôi hỏi chuyện. Nàng không đáp, rồi tự nhiên chúng tôi cùng

ngửng đầu lên nhìn ông trăng. Sao chúng tôi lại động lòng với nhau đến thế?”

[42, 49]. Tất cả tình ý chỉ diễn ra trong lòng, còn bên ngoài, chàng trai không

một lời bày tỏ. Để rồi kết thúc cuộc gặp gỡ “nàng lại quay tơ, tôi về chỗ cũ.

Rồi không hiểu sao tức thì tôi dứng dậy ra về, không kịp chào người ta một

tiếng” [42, 49]. Một năm sau, gặp lại nhau, cả hai không khỏi nuối tiếc:

“Không đợi hỏi, nàng khai ra hết.

- (…) Thầy tôi mắc nợ, cho nên nhà tôi khi đến dạm hỏi, thì thầy tôi

bằng lòng mà nhận lời ngay. Tôi cũng không thể làm cách gì khác được vì tôi

không hề có những cái mộng tưởng xa xôi hão huyền có hại cho cái cuộc đời

thực tế của tôi. Phải, tôi không dám có những cái mộng tưởng xa xôi…

47

- Thế cô có biết tôi đã yêu cô, có lúc tôi đã đem hết những cái cao quý

ở trong mình tôi mà yêu cô, yêu một cách chân thật?

Nói đến đây như có cái chi làm cho tôi giật mình… Ủa sao tôi lại đi nỡ

nói, nói với một người đàn bà đã có chồng lại sắp có con, một câu nói độc địa

như thế, một câu nói ấy, há không thể hại đến cả cái hạnh phúc của một gia

đình?” [42, 50].

Chuyện tình trong Một lần tôi đi qua cũng thầm kín, mơ mộng và đầy

nuối tiếc như trong Cô bé hái dâu. Mối tình bắt đầu khi chàng trai 17, 18 tuổi.

Trong một lần đi ngang qua khu vườn của ngôi biệt thự “Les Eglantines”, anh

tình cờ thấy một người thiếu nữ đang ngồi vắt vẻo trên một cành ổi. Người

thiếu nữ nhìn anh cười. Nụ cười đó khiến anh ngượng ngùng, bối rối. Một

năm sau, cũng vào một buổi chiều thu, anh lại nhìn thấy người thiếu nữ đó.

Cô gái đang ngồi đánh đàn bên khung cửa sổ. Tiếng đàn như đưa anh vào một

giấc mộng, bất chấp cơn mưa đang làm áo quần anh ướt đẫm, sách vở cũng

dầm dề. Khi về nhà, anh bị cảm, mê man. Nhưng trong những cơn nóng, mê,

anh vẫn thấy “hiện lên ở trong trí tôi, cái mặt của người thiếu nữ ở trong

khung cửa sổ. Vẫn đôi mắt dịu dàng và trong như mùa thu ấy, vẫn đôi hàm

răng đều đặn và bóng ngà ấy. Nàng vẫn nhìn tôi cười, một nụ cười của người

vợ hiền. Có khi tôi tưởng tượng đến cái lạc thú gia đình mà sau này nàng sẽ

đưa lại cho tôi, mà tôi quên cả những nỗi đau đớn và nguy nan của bệnh tình

tôi” [42, 118]. Anh yêu và “sống” với hình ảnh ấy “gần mấy năm trời”. Cho

đến một buổi chiều, anh “quên nàng như quên một giấc mộng” [42, 119]. Rồi

anh lấy vợ. Một hôm, đang đi cùng vợ thì anh tình cờ thấy người xưa. “Cái dĩ

vãng xa mờ có đề một tấm bảng Les Eglantines” bỗng dưng sống dậy, khiến

tâm hồn anh “lảo đảo”, chân tay anh “bủn rủn”, “có cảm giác như đi trên

mây”. Như quên có người vợ đi bên cạnh, anh lầm bầm một mình: “Giá trước

kia, giá lúc gặp nàng làn đầu tiên, tôi đã nói được một câu, một câu bình

48

thường, có lẽ tôi không phải ân hận suốt đời như thế này nữa, có lẽ nàng đã là

vợ của tôi rồi” [42, 121]. Truyện ngắn là một bức tranh được vẽ bằng nhiều

sắc màu cảm xúc: mơ mộng, đắm say, lãng quên, nuối tiếc. Ở đó, cái tôi đa

tình, lãng mạn của nhân vật hiện hình rõ nét.

Truyện ngắn Chiếc áo rét cũng là một câu chuyện tình thấm đẫm cảm

xúc lãng mạn. Nhân vật “tôi” trong một lần ngồi ở lầu cao trông xuống thấy

một người con gái đương ngồi đan áo bên song cửa. Cái khoảnh khắc thơ

mộng ấy khiến chàng thấy lòng mình như “được mơn trớn bởi một mối tình

thoảng qua, xa xôi và vô cùng êm dịu” [42, 89]. Rồi từ đấy, hễ mỗi khi nàng

đưa chỉ ra đan, thì chàng “đứng lặng nhìn, say sưa, sung sướng” [42, 89].

Chàng ước nàng đan thật chậm để chàng còn được “hưởng thêm những cái

phút nhìn nàng ngồi đan, hai mắt ngây thơ, lặng im một nét buồn xa thẳm”

[42, 89]. Nhưng chiếc áo rét lại nhanh chóng hoàn thành. Lúc nàng viền

những đường viền cuối cùng chính là lúc trong tâm trí chàng “len vào những

tư tưởng nặng nề, ích kỷ” [42, 90]. Chàng muốn “là người được mang vào

mình cái công trình của nàng, chiếc áo sẽ giữ gìn, che chở trái tim” chàng

trong những ngày lạnh lùng. Rồi chàng nảy ra một “tư tưởng buồn cười” và

“hão huyền vô cùng”: “tôi cầu sao nàng trở nên thật nghèo, nghèo xơ xác, đến

nỗi vì sinh kế, nàng phải đưa cái tấm áo ấy ra bán… Rồi một buổi sớm, tôi sẽ

len vào đám người vô danh, mua cho kỳ được chiếc áo ấy, đặng lưu lại một

cái công trình mà nàng đã bỏ biết bao công phu và tình ái” [42, 90]. Nhưng

chàng cũng hiểu ước muốn đó không thể thành hiện thực. Bởi vì chàng “biết

chán rằng đan cái áo ấy, nàng có bao giờ nghĩ đến tôi, như tôi nghĩ đến nàng”

và “chiếc áo ấy nàng không bao giờ bán”. Câu chuyện tình kết thúc không có

hậu, song đọng lại trong lòng người đọc không phải là những cảm xúc đau

khổ, hờn ghen, “nặng nề, ích kỷ” mà là những xúc cảm vừa lãng mạn vừa

chân thành và cao thượng: “Trời đưa lại cho nàng, một người hạnh phúc

49

hơn… và may mắn hơn, người mà tôi hằng cầu nguyện cho nàng, vì lòng

thương nàng” [42, 90]. Cái kết của truyện ngắn gợi nhớ đến câu kết bài thơ

Tôi yêu em của Puskin: “Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em”.

Phải chăng đó là sự đồng điệu của hai tâm hồn luôn khao khát yêu và luôn

biết cách yêu.

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta thấy tình yêu trong các

câu chuyện của ông thường bắt đầu từ những ấn tượng ban đầu đến từ giọng

hát (Cô bé hái dâu), nụ cười (Một lần tôi đi qua), những ngón tay đan áo

(Chiếc áo rét) hay ánh mắt: “Tôi chỉ yêu nàng bởi đôi mắt. Đôi mắt của nàng

là mùa thu bất tuyệt của tiên giới, là cảnh trong ngần của tuyết sương, là niềm

ân ái không cùng” [42, 127], thậm chí từ sự im lặng: “Người ấy đẹp ở vẻ mặt,

ở tay chân, ở cách đứng dáng ngồi, đẹp nhất ở sự im lặng, ở những cái không

biểu lộ ra ngoài” [42, 50]. Ấn tượng ban đầu ấy luôn khiến nhân vật xao

xuyến, mộng mơ và đem lòng yêu dấu. Tuy nhiên, tất cả cảm xúc yêu đương

thường bắt nguồn từ một phía, nói cách khác, đây những mối tình diễn ra

trong thinh lặng:

“Yêu hết một mùa đông

Không một lần đã nói

Nhìn nhau buồn vời vợi

Có nói cũng không cùng” [41, 62].

Và kết thúc bằng sự tan vỡ:

“Không, nàng với tôi chỉ thế thôi

Theo đuổi tơ duyên bốn góc trời

Lúc mộng nhìn nhau cười ngặt nghẽo

Mộng tàn, trên gối lệ hoen rơi” [42, 88].

50

Tình yêu này có thể chóng qua, như trong Tình trong giây lát: “Cái ái tình của

người ta như một cái bọt xà phòng, nó dễ tan lắm. Vô ý anh đã để nó tan mất

một lần rồi, là chẳng bao giờ còn mong lành lại được nữa” [42, 114]. Nhưng

cũng có thể in dấu suốt đời: “cái tên Bạch Nga xinh đẹp từ đây đã gắn chặt

vào trong trí nhớ tôi, có lẽ không còn đời nào gỡ ra được nữa” [42, 88].

Tình yêu trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư luôn chứa đựng đầy đủ

các cung bậc cảm xúc từ xao xuyến, mơ mộng đến buồn bã, tiếc nuối. Song

tất cả cảm xúc đều không quá say đắm, mãnh liệt cũng không quá đau đớn, bi

thảm. Tất cả đều được biểu hiện một cách nhẹ nhàng, êm dịu. Qua những

truyện ngắn viết về tình yêu của Lưu Trọng Lư, chúng ta còn phát hiện được

cái triết lý yêu rất lãng mạn của ông:

- “Thật lòng tôi tin cái thứ tình cảm nó làm xao xuyến lòng tôi đó, là

tình yêu, nhưng có người lại bác đi, họ cho rằng chỉ được gọi tình yêu là khi

nào có sự bằng lòng của cả hai bên, mà hình như trong truyện tôi đây thì nàng

chưa hề bao giờ có một cái biểu thị ái tình đối với tôi cả. Nhưng lý luận làm

gì vô ích phải không anh, tôi chỉ biết rằng: nàng chưa hề tỏ một chút tình đối

với tôi, nhưng hình ảnh của nàng, hằng ngày đã được ôm ấp bên cạnh tâm hồn

tôi, và đã sống với tôi một cuộc đời thân mật nhất, thì dầu tôi có gọi nàng là

vợ tinh thần của tôi cũng không sao kia mà” [42, 119].

- “Ái tình cũng là một thứ huyễn tưởng. Yêu mà nào ta có biết là ta

chắc chắn yêu ai, có khi chỉ là yêu một cái hình, một cái bóng” [42, 121].

- “Cái ái tình nằm trong mộng ấy cho tôi đủ mọi hạnh phúc” [42, 50]

Quan niệm này rất khác biệt với quan niệm về tình yêu của Khái Hưng

và Nhất Linh. Nhất Linh. Khái Hưng và Nhất Linh có khá nhiều truyện ngắn

đề cập đến vấn đề tình yêu. Từ những truyện ngắn này, chúng ta thấy toát ra

cái “luận đề” về tình yêu, rằng: tình yêu không thể có hoặc không thể xây

51

dựng trên sự khác biệt (Nước chảy đôi dòng – Nhất Linh), không nên nhầm

tưởng những rung động bồng bột như rung động của các anh chàng Tống

Bình, Nam Chân (Dưới bóng hoa đào – Nhất Linh), hay việc “ăn trái cắm”

vội vã của đôi bạn gặp nhau lần đầu là tình yêu đích thực (Dưới ánh trăng –

Khái Hưng). Trái lại, tình yêu đích thực chỉ có thể có và được xây dựng, nuôi

dưỡng trên sự đồng điệu, gặp gỡ giữa hai tâm hồn (Ái tình – Khái Hưng). Và

trong tình yêu, nhiều khi biết lặng lẽ hi sinh cũng chính là biết tạo ra hạnh

phúc cho mình (Mười năm qua – Nhất Linh, Tình tuyệt vọng – Khái Hưng).

Viết những câu chuyện tình yêu, Khái Hưng, Nhất Linh không chỉ kể

chuyện yêu đương mà còn khơi sâu một khía cạnh thâm trầm nào đó của đời

sống để tạo nên ý vị của những triết lý, suy tư. Bên dòng sông Hương của

Khái Hưng là một ví dụ. Chuyện kể về chàng trai du học ở Pháp về nhưng

chàng không thích ra làm quan để tiến thân như bao người khác. Chàng đi

theo tiếng gọi đắm say của tình yêu với nàng Diễm Lan, “cựu nữ sinh trường

Sư phạm, một trang tân tiến cực kì mĩ lệ, đã nổi tiếng lãng mạn khắp Hà

thành” dù gia đình phản đối. Vinh Sơn đã vượt qua mọi sự ngăn cản, chế

giễu, khinh bỉ của gia đình và bạn bè, cùng người tình “đưa nhau đi ẩn, hay

nói cho đúng là đi tìm một cảnh thích hợp với ái tình. Cảnh ấy là sông

Hương”, để tận hưởng hạnh phúc tình yêu [20, 133]. Qua câu chuyện tình

lãng mạn, ta thấy được một triết lý sống, triết lý yêu: khát vọng tự tạo một ốc

đảo hạnh phúc cho tình yêu ngay cả một nơi thơ mộng, với một người tình

lãng mạn nhất, thực ra, là điều không tưởng. Bả danh lợi hay những bon chen

đời thường vẫn len lỏi vào cái ốc đảo ấy để mà đầu độc tình yêu. Thời chưa

cưới là một ví dụ khác. Phát và Hoàn là đôi trai tài, gái sắc. Họ yêu nhau và

đã sống những giây phút thần tiên mộng ảo của tình yêu. Nhưng rồi họ làm

tổn thương nhau và mối tình của họ có nguy cơ tan vỡ. “Họ đi sát cánh nhau.

Họ nói chuyện để nghe thấy câu chuyện tẻ nhạt của nhau. Họ yên lặng để

52

nghĩ đến, để nhớ đến cái xoàng, cái tầm thường của nhau, của gia đình nhau”

[20, 361]. Nhưng cuối cùng thì đám cưới của Phát và Hoàn cũng diễn ra, vì

họ cho “việc hôn nhân của mình là do số mệnh (…) Và đám cưới linh đình,

ồn ào, ầm ỹ. Để che cái nhạt nhẽo, cái lạnh lùng của hai linh hồn sắp hòa

hợp” [20, 361]. Với Thời chưa cưới, “Khái Hưng khảo sát tính tình hạng

thanh niên tân tiến đúng vô cùng. Tình yêu của họ là thứ tình yêu bồng bột,

cho nên cái thời cưa cưới của họ càng kéo dài bao nhiêu, họ càng có dịp chán

nhau bấy nhiêu” [52, 190].

Tình yêu trong truyện ngắn của Khái Hưng, Nhất Linh thường gắn liền

với vấn đề hôn nhân, gia đình. Đọc những trang viết về tình yêu, hôn nhân gia

đình của hai ông, người đọc dễ dành nhận thấy đang cùng băn khoăn, chia sẻ

với người kể chuyện bao nhiêu câu hỏi thấm đẫm suy tư. Đó là những câu hỏi

rất thông thường về ý nghĩa của tình yêu, về mục đích của hôn nhân, về hạnh

phúc gia đình, về nghĩa lý của đời sống cũng như việc lựa chọn, thực hiện

một lý tưởng sống sao cho thích đáng. Chẳng hạn như trong Cái tẩy của Nhất

Linh. Đây là một truyện ngắn có ý nghĩa về triết lý và cũng là một truyện theo

luận đề: số phận người ta nhiều khi chỉ trông vào những cái rất mong manh và

không nên đi tìm hạnh phúc ở đâu cả. “Phải làm thế nào cho hạnh phúc ở đời

phải ở mình, chỉ ở mình thôi” [38, 390].

Đối với Lưu Trọng Lư, khi viết về tình yêu, ông thường chỉ tập trung

thể hiện các trạng thái tâm trạng, cảm xúc yêu đương. Nói cách khác, giống

như thơ, chức năng chính của những truyện ngắn viết về tình yêu của ông là

biểu hiện cảm xúc, bộc lộ cái tôi đa tình và mơ mộng của tác giả. Đọc những

câu chuyện tình của thi sĩ họ Lư, chúng ta thấy tác giả ít khi đá động đến vấn

đề hôn nhân, gia đình. Ví dụ như trong Nàng Vân may áo chồng. Đây là câu

chuyện kể về mối tình đau khổ của Vân và Bình. Họ yêu nhau nhưng không

đến được với nhau. Nguyên nhân dẫn đến sự chia cắt đó chỉ được nhắc đến

53

qua hai câu văn: “Anh Bình! Anh đừng trách chồng em mà tội nghiệp! Tội cả

ở lễ giáo khắt khe trước kia không cho đôi ta lấy nhau, bây giờ không cho ta

được gần nhau” [42, 102]. Trong khi xuyên suốt cả câu chuyện là những dòng

tâm sự thấm đẫm cảm xúc yêu thương, lo lắng, buồn đau của hai nhân vật. Họ

yêu thương và quan tâm nhau trong im lặng, không có một chút gì vượt qua

khỏi khuôn phép gia đình. Trong truyện ngắn Khỏi truông, Vinh và Vân là hai

người bạn học tình cờ gặp lại nhau. Những kỉ niệm xưa cũ đã khiến lòng họ

thoáng chút xao động. Nhưng Vân đã kịp “tỉnh mộng” để trở về đúng vị trí

của mình là một người phụ nữ đã có chồng. Vinh cũng vậy, dầu đa tình nhưng

anh cũng hiểu: “Anh nghĩ giá trong cơn nhanh chóng điên cuồng ấy, mà chiếc

xe chúng tôi đã đâm xuống hố… Và hai chúng tôi đã chết ngay trong đêm ấy,

cùng vùi chung một hố, thì những người sống sẽ dị nghị hai cái vong hồn của

chúng tôi ra thế nào?” [42, 142]. Rõ ràng, khi viết về đề tài tình yêu, Lưu

Trọng Lư chủ yếu quan tâm đến những cảm xúc tâm hồn nhiều hơn là quan

tâm đến những vấn đề bên ngoài, liên quan, tác động, ảnh hưởng đến tình yêu.

Với ông, tình yêu đơn thuần là tình yêu. Cho nên, các vấn đề về hôn nhân gia

đình hay lễ giáo phong kiến gần như không xuất hiện trong truyện ngắn của

ông.

Tóm lại, những câu chuyện tình của Lưu Trọng Lư luôn được chắp

cánh bởi cảm hứng trữ tình lãng mạn. Viết về tình yêu, Lưu Trọng Lư không

nhằm lí giải những vấn đề sâu xa có ý nghĩa xã hội, cũng không gắn nó với

vấn đề hôn nhân gia đình hay đấu tranh chống lễ giáo, mà chỉ đơn thuần là

miêu tả những cảm xúc của tình yêu, đem đến cho người đọc những giây phút

đắm chìm vào một trường tình muôn hình muôn vẻ, ở đó có “cái tình say

đắm, cái tình thoảng qua, cái tình thân thiết, cái tình ảo mộng, cái tình ngây

thơ, cái tình già dặn, cái tình trong giây phút, cái tình nghìn thu” [27, 174].

54

2.2.2. Cảm hứng thế sự

Cảm hứng thế sự là cảm hứng về cuộc sống đời thường, về con người

của thực tại. Những tác phẩm mang cảm hứng thế sự thường hướng đến sinh

hoạt hằng ngày của con người, chú ý khẳng định giá trị thẩm mĩ của cái đời

thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trên hành trình đi tìm

sự sống và hạnh phúc của con người.

Cảm hứng thế sự cũng là một cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của

Lưu Trọng Lư. Cảm hứng này biểu hiện trước tiên ở sự quan tâm mà tác giả

dành cho những con người khốn khổ trong xã hội.

Xã hội Việt Nam trước 1945 là một xã hội ngột ngạt, bế tắc và đầy biến

động. Đời sống con người gặp nhiều khó khăn, bất hạnh. Thực trạng đó đã đi

vào truyện ngắn của của nhiều nhà văn hiện thực như Nam Cao, Ngô Tất Tố,

Kim Lân,... Mặc dù là một cây bút lãng mạn song Lưu Trọng Lư đã không

thờ ơ với hiện thực đó. Con chim sổ lồng, một trong những truyện ngắn đầu

tay của Lưu Trọng Lư, là một ví dụ. Truyện kể về cuộc sống đầy tủi cực của

thằng bé Cạc. Cạc là đứa trẻ “không có mẹ”, từ nhỏ đã sống với cha và “một

bà mà nó gọi là dì”. Nó cũng không biết có anh em, “hằng ngày chỉ thấy có

một cậu bé suýt soát tuổi nó mà nó gọi là cậu Tân” [42, 34]. Cha và dì nó làm

nghề cầm đồ ở phố Hàng Đồng. Công việc làm ăn mỗi ngày một sa sút rồi

thất bại hẳn, đến lượt cha nó mang đồ trong nhà đi cầm. Bấy nhiêu “xúi quẩy”

cha và dì nó đổ lên đầu nó. Dì nó luôn coi nó là một thằng “ăn báo”. Nhưng

thật ra “nó có tốn cho ai một chút xíu gì đâu: ăn thì ăn cơm thừa, mặc thì mặc

áo thải. Nó có cướp là cướp phần con Vện, con Vàng, chứ nó có cướp phần

ai” [42, 35]. Mới tám tuổi mà nó “đã chịu đủ mùi chua cay bùi đắng”. “Tám

tuổi mà thằng Cạc đã thành một đứa đầy tớ vững vàng, chắc chắn. Thấy nó

sai bảo được, thì người ta sai bảo suốt ngày. Nhưng hễ càng ích cho người

chừng nào, thì lại càng khổ cho mình chừng nấy… Làm sai một tí, đã phải

55

quở, phải đánh” [42, 35]. Lớn lên tí nữa, nó càng hay suy nghĩ. Trong thâm

tâm nó, những thua thiệt mà nó phải chịu so với cậu Tân có thể xem là điều

bình thường, dễ hiểu bởi “nó tưởng như “cậu nó” khi còn ở trong trứng đã

được phần hơn”, và dù sao nó cũng còn được “hơn con Vện, con Vàng. Điều

đó an ủi nó nhiều lắm” [42, 35]. Chỉ có câu hỏi về mẹ là khó lí giải, cứ đau

đáu trong lòng. Một lần trò chuyện với đứa trẻ bán báo đi qua cửa, Cạc nẩy ra

ý định bỏ nhà đi:“ cái hình ảnh thằng bé kia lại hiện ra trong trí, như trêu

ghẹo, như thúc giục nó phải cố mà vượt cái lồng cho được” [42, 36]. Cậu lấy

trộm chiếc mâm đi cầm đồ được năm hào, “năm hào bạc đã đưa nó bước vào

một cuộc đời mới. Nó thề rằng trong tay đã có năm hào bạc, thì nó chẳng bao

giờ trở lại với dì nó nữa” [42, 36]. Thế là nó trở thành đứa trẻ lang thang, tự

kiếm sống bằng nghề bán báo. Cuộc sống mới không dễ dàng như suy nghĩ

non nớt của nó. Bởi có ngày bán được có ngày không, có ngày muốn làm việc

cũng không có việc mà làm vì nhà báo nghỉ, nhà in nghỉ. “Nghỉ, nghĩa là cặp

chân nó thôi chạy, nhưng cũng còn thủ nghĩa rằng; cái miệng nó thôi nhai. Có

khi phải nhịn đói suốt ngày” [42, 37]. Cảnh đói rét khiến nó sợ hãi. Cuối

cùng, nó quyết định “giã từ cuộc sống bông lông vơ vẩn mà trở lại cái cuộc

đời có khuôn phép, có trật tự”, với cái suy nghĩ tự an ủi, trấn an mình “một

con chim sổ lồng mà nay còn đưa mình về hiến với chủ, thì không chừng chủ

nó sẽ yêu đương hơn” [42, 38].

Truyện ngắn có cốt truyện khá đơn giản song ngồn ngộn chất hiện thực.

Qua truyện ngắn, ta như thấy được một góc của Hà Nội. Đó là không gian của

những con phố Hàng Đồng, Hàng Bông, Hàng Trống,... Ở đó có những cửa

hàng cầm đồ, những nhà in, những cửa hàng vải; có những gia đình làm ăn

thất bại rồi lâm vào tình cảnh túng thiếu và có những đứa trẻ sống lang thang

đầu đường xó chợ. Tất cả chi tiết hiện thực ấy đã giúp người đọc phần nào

hình dung được cuộc sống đô thị ở nước ta thời bấy giờ.

56

Viết về những đứa trẻ, Con chim sổ lồng của Lưu Trọng Lư gợi nhớ

đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Đứa ăn mày của Xuân Diệu. Cùng đề tài,

song chủ đề có chút khác biệt. Ở Hai đứa trẻ, thông qua việc tái hiện khung

cảnh phố huyện nghèo nàn, tăm tối, Thạch Lam chủ yếu khắc họa đời sống

tinh thần mòn mỏi, tàn lụi, thiếu niềm vui và hi vọng tương lai của chị em

Liên cũng như bao người khác. Trong Đứa ăn mày, Xuân Diệu lại tập trung

miêu tả hình ảnh một đứa trẻ bơ vơ, phải sống lang thang vì bị gia đình ruồng

bỏ. Còn trong Con chim sổ lồng, Lưu Trọng Lư đi sâu phản ánh tình cảnh một

đứa trẻ bị người thân ngược đãi, phải chịu mọi nỗi khổ sở nhục nhã ngay

trong ngôi nhà mình; ngôi nhà không còn là mái ấm gia đình hạnh phúc, yêu

thương mà là “lao tù” giam giữ, đày ải, có muốn thoát ra cũng không được.

Cả ba truyện ngắn đều là những bức tranh chân thực, xúc động về số phận của

những đứa trẻ nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội. Đằng sau bức tranh ấy là cái

nhìn đầy nhân bản và một tấm lòng nhân ái thiết tha của những tác giả thuộc

xu hướng văn học lãng mạn.

Truyện ngắn Anh Neo của Lưu Trọng Lư là một lát cắt khác của hiện

thực đời sống. Truyện kể về một gia đình người nông dân gồm có ba người:

anh Neo, người vợ đang mang thai đã tới kì sinh nở và đứa con trai nhỏ tên

gọi là thằng Cu. Gia đình này đang lâm vào tình cảnh nghèo khổ, túng quẫn.

Trong mái nhà xơ xác của họ, cái đói đang hiện diện qua những bữa ăn chỉ có

“một bát rau dền và một vá khoai vằm”. Còn bên ngoài, tai họa cũng đang

chực chờ ập xuống vì món tiền sưu tiền ích mà gia đình anh đã thiếu:

“- Mạ thằng Cu! Chiều nầy có ai vào hỏi tôi không?

- Có ông Lý vào một lần, ông Phó vào một lần

- Nói gì?

- Đòi dắt bò, đòi dỡ nhà.

57

(…)

“- Thế ông Lý có hẹn với mạ thằng Cu bao giờ ông trở lại không?

- Ngày mai, ông nói ngày mai ông sẽ cho Xeo tới bắt” [42, 60].

Cái nghèo, cái khổ vây quanh khiến anh Neo rơi vào bế tắc: “Bán nhà

thì phải ra ngủ ở đình chợ, tức phải vất thân vào cái kiếp hành khất. Bán cái

mảnh ruộng đi thì mảnh ruộng kia là của tổ tiên lưu lại cho anh để lo ngày

ông bữa bà, vì người chết theo như anh nghĩ, cũng phải ăn uống như người

sống. Bán bò thì ruộng kia phải bỏ hoang, mà anh cũng không còn cách nào

làm thuê làm mướn ruộng người ta được nữa” [42, 61]. Đúng lúc đó, vợ anh

lại đau bụng, tưởng là cơn chuyển dạ. Trước mắt anh, khó khăn càng thêm

chồng chất: “tiền sưu tiến ích nộp cho ông Lý, rồi lại tiền củi, tiền than, tiền

cúng đồ bà cho mạ thằng Cu…” [42, 61]. Anh buộc phải đi đến đưa ra một dự

tính đau lòng: “phải lên ông Bá Ngô để bán thằng Cu” [42, 62]. Cũng may là

người vợ chỉ đau bụng xoàng. Có nghĩa là thằng Cu còn được ở nhà với cha

mẹ thêm một hai hôm nữa. Nhưng đối với gia đình này, ngày mai vẫn không

có gì sáng sủa. Ngày mai, anh Neo có thể bị bắt. Ngày mai, thằng Cu có thể bị

bán đi. Ngày mai, người vợ có thể sinh con trong nghèo đói và trong nỗi đau

mất một đứa con khác. Rồi đứa bé mới sanh cũng có thể sẽ giống như anh nó:

“Anh Neo lại nói:

- Thôi, mạ thằng Cu cũng chớ nghĩ giọt máu nhà lọt vào tay người mà

đau đớn. Nhờ trời nhờ phật chuyến nầy mạ hắn sinh con trai, thằng Cu này đi

còn có thằng Cu khác đến.

- Nhưng biết đâu thằng Cu khác lại chịu chung số phận với thằng Cu

nầy!” [42, 62].

58

Truyện ngắn Anh Neo của Lưu Trọng Lư có khá nhiều điểm tương

đồng với tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Cả hai cùng viết về cuộc sống

của những người nông dân với tiền sưu, tiền thuế, với cái nghèo, cái đói, với

chuyện bán nhà, bán con, chuyện bị bắt, bị trói… Kết thúc của hai câu chuyện

cũng giống nhau: “ngày mai, tiền sưu tiền ích… ngày mai thằng Xeo nó vẫn

cứ đến…” [42, 62]; “trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị” [67, 192].

Cả hai nhân vật vẫn không tìm thấy chút tươi sáng nào cho cuộc sống tương

lai của mình.

Đọc hai tác phẩm, chúng ta hiểu rõ hơn về cái cảnh khổ điển hình

“thiếu thuế mất vợ, thiếu nợ mất con” của người nông dân thời Pháp thuộc.

Đồng thời thấy được tấm lòng đôn hậu, biết yêu thương tha thiết con người

của hai tác giả. Viết về nỗi khổ của người nông dân, những trang viết của họ

như thấm đẫm những giọt nước mắt đau xót. Nếu như đọc Tắt đèn, chúng ta

bồi hồi xúc động trước tiếng khóc xé ruột của chị Dậu hòa lẫn với tiếng van

lơn tha thiết của tội nghiệp của cái Tý, thì đọc Anh Neo, chúng ta cũng không

khỏi ngậm ngùi trước sự đau đớn của người vợ khi nghĩ đến việc bán đi đứa

con ngây thơ, tội nghiệp của mình: “Người vợ anh Neo giờ đã dứt hẳn tiếng

rên, chỉ nhìn thằng Cu mà khóc nức nở. Thằng Cu bây giờ hẳn cũng không

hiểu những giọt lệ của mẹ nó là giọt lệ gì. Ngày mai họa chăng nó mới hiểu”

[42, 62]. Đọc hai tác phẩm, chúng ta cũng bắt gặp tiếng nói phê phán, tố cáo

của các tác giả. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố tập trung tố cáo cái thứ thuế bất

nhân của bọn thực dân đánh vào đầu người hằng năm, đẩy những người bần

cố nông phải bán con, bỏ làng đi ở vú hoặc đi ăn mày rồi chết đường chết

chợ. Bên cạnh đó, tác giả còn lên án mạnh mẽ cả một bộ máy thống trị ở nông

thôn: quan lại, nghị viên, địa chủ, cường hào gian ác, dâm dục. Trong Tắt

đèn, tinh thần đấu tranh của người nông dân cũng được thể hiện thông qua

hình ảnh chị Dậu trong những lần phản kháng, chống trả quyết liệt với kẻ thù,

59

dù sự đấu tranh đó còn theo kiểu “tức nước vỡ bờ”. Còn trong Anh Neo, tiếng

nói phê phán, tố cáo có phần mờ nhạt hơn. Tác giả đã thiên về miêu tả cái nỗi

thống khổ của người nông dân nghèo hơn là chỉ ra cái mâu thuẫn giai cấp dẫn

đến những bi kịch ở nông thôn thời bấy giờ. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi với

một cây bút lãng mạn như Lưu Trọng Lư, cảm xúc trước hiện thực tất nhiên

sẽ được chú trọng hơn việc lí giải sâu sắc bản chất của hiện thực. Như vậy,

Anh Neo không có nhiều sức mạnh phê phán, tố cáo như Tắt đèn, song giống

như Tắt đèn, nó có chứa đựng một tinh thần nhân đạo hết sức đáng quý.

Viết về cuộc sống của những người nghèo khổ, Lưu Trọng Lư còn có

truyện ngắn Con vú em. Ở truyện ngắn này, vấn đề sưu thế cũng được nhắc

đến: “Nếu ngày mai, con không có tiền đóng sưu, thì ông Lý sẽ cho mõ vào

bắt nộp quan” [42, 77]. Nó là nguyên nhân đẩy một gia đình vào tình cảnh

khốn khổ, chia lìa, người vợ phải xa cách chồng, người mẹ phải “tạm quên

tình máu mủ, đem hết lòng thương con của một bà mẹ trút sang cho… đứa

con người ta” [42, 78]. Tuy nhiên, tư tưởng tác phẩm không phải là lên án cái

vấn nạn này, mà là ca ngợi cái vẻ đẹp của tình thương chồng, thương con của

người vú em. Vì thương chồng, cô cam tâm đi ở vú nhà người, chấp nhận “cái

khổ im lặng, cái khổ ấy mới ghê gớm”. Vì thương con, mỗi khuya mỗi khuya

cô lại lén ra ngoài để cho con bú. Cảnh đoàn tụ lén lút này được tác giả miêu

tả rất cảm động: “người vợ đưa tay, đỡ lấy đứa con, ẵm vào lòng, rồi vừa mở

khuy áo, vừa nói nựng con: “Nao Nao! Con tôi đói quá!”. Mà nó đói thật, nó

bú kêu chắp chắp như thèm lắm. Nãy giờ, người mẹ chăm cả vào đứa con,

quên bẵng chồng mình; quay lại thấy chồng đương đứng dựa vào gốc cây,

miệng ngậm một ngón tay ra bộ suy nghĩ lắm, thị liền hỏi:

- Bố cái Nê làm sao thế?

- Có làm sao đâu

60

- Thì ngồi xuống đây đã, kẻo chốc về lại mỏi. Tôi đã trải chiếu sẵn để bố

cái Nê ngồi đấy.

Lựa được hai tiếng trải chiếu nó đắc ý lắm, cười khanh khách:

- Ấy! U nó cười khẽ chứ, người ta nghe được thì khốn.

Người vợ im bặt, nhìn con rồi lại hỏi:

- Suốt ngày hôm nay con có khóc không mình?

- Lại bắt chước ai, gọi tôi bằng mình đấy?

- Tôi thấy mợ tôi gọi cậu tôi bằng mình, thì cũng gọi bằng mình…” [42,

80-81].

Tấm lòng yêu chồng, thương con của người vú em đã làm vợ chồng người

chủ cảm thấy “thẹn” và “cảm động”. Rồi họ quyết định: “Thôi, chị về với

chồng chị, con tôi, từ rày tự tay tôi nuôi lấy. Số bạc này, chị cầm lấy sắm mặc

cho cháu Nê” [42, 81]. Đây là một quyết định đầy tình người, thể hiện cái

nhìn cảm thông, chia sẻ mà tác giả muốn gửi gắm.

Như vậy, điều đọng lại nhiều nhất qua Con vú em là cái vẻ đẹp của tình

thương gia đình và tình người trong cuộc sống. Qua đó, chúng ta thấy khi viết

về những người nghèo khổ, Lưu Trọng Lư không chỉ bày tỏ sự thấu hiểu, cảm

thông, đau xót trước hoàn cảnh khốn khổ của họ, mà còn bày tỏ sự trân trọng,

ngợi ca vẻ đẹp tình thương nơi họ.

Tiếp nối những trang viết về cuộc sống bế tắc của những người nghèo

khổ, nhỏ bé trong xã hội là những trang viết về người nghệ sĩ: người hát xẩm,

nhà thơ, nhà văn.

Người hát xẩm trong truyện ngắn Cái đời hát xẩm từ nhỏ đã chịu nhiều

bất hạnh: “không thấy mặt trời và không có cha mẹ”, bị “vứt ra giữa cõi đời

cũng như chiếc bèo vất ra giữa đại hải” [42, 54]. Để nuôi sống mình, ông học

61

nghề đàn bầu. Nơi nào có hội hè là ông tìm đến, mang tiếng đàn mua vui cho

người và để nhận về chút tiền “bòn mót” cho mình. Kiếm được tiền nhưng

lòng ông luôn ngậm ngùi, đau xót, bởi “xét cái tiền họ cho tôi đó là vì thương

tôi là kẻ tàn tật, chứ không phải chuộng tôi là một nhà nghệ sĩ… Tiền ấy nuôi

tôi sống, mà có danh giá gì cho tôi? Trái lại tôi thấy thế làm tủi nhục lắm, vì ở

đời còn gì tủi nhục hơn là không ai biết tới mình, có tài mà không chỗ dùng

hay là bị dùng sai…” [42, 54]. Vì thế, những lúc canh tàn khắc vợi, ông

thường đưa dàn ra gảy, “tay gảy tai nghe, tự mình thưởng thức lấy mình. Đó

âu cũng là một cách tự an ủi của nhà nghệ thuật mà trên đường đời vắng bặt

bóng người tri kỷ” [42, 54]. Một hôm, có người con gái tìm đến với ông để

“dâng ông cái… ái tình hèn mọn và thành kính” “đối với một cung đàn, một

sự đẹp đẽ, một sự thiêng liêng, một sự màu nhiệm” [42, 55]. Từ sự đồng điệu

giữa hai tâm hồn tri âm, họ nên vợ chồng. Chồng đàn, vợ hát; tiếng hát hòa

nhịp với tiếng đàn giúp họ mưu sinh dễ dàng hơn. Rồi trong một lần đi hát ở

nhà một Chánh tổng, người vợ suýt bị tên này cưỡng hiếp. Họ phải trốn chạy.

Tình cờ họ chạy đến một cái lòi rậm. Ở đó, họ dựng một mái nhà, sống vui

bên nhau và vui với nghệ thuật. Ở nơi đó, cái ước nguyện bình sinh của họ đã

đạt được: “Nhưng ngài chớ tưởng chúng tôi lên nơi cùng tịch này là để lo có

một việc nuôi sống lấy cái xác thịt của mình thôi đâu. Người ta không phải ai

ai cũng chỉ có cái ước muốn thấp hèn của con vật là được ở yên và được sống

một cuộc đời vật chất đầy đủ. Người ta còn có sự ước vọng cao xa hơn nữa, -

có thế mới đáng là người ngài ạ, - là được sống một cuộc đời tinh thần đẹp đẽ,

cuộc đời của những nhà thi nhân, nhà âm nhạc và nhà họa sỹ…” [42, 57].

Nhưng rồi người vợ qua đời. Người hát xẩm còn lại một mình với cung đàn

buồn bã, cô đơn…

Truyện ngắn có sự đan xen giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn.

Sự kết hợp của hai yếu tố này đã làm nổi bật hình tượng người hát xẩm. Đó là

62

một người nghệ sĩ chân chính. Số phận thì nhiều bất hạnh, khổ đau nhưng tâm

hồn thì vẫn tràn đầy hoài bão, lí tưởng “muốn sự yên ổn, sự yên ổn hoàn toàn

để vui với nghệ thuật. Tìm những cái đẹp của trời đất mà bổ thêm cái đẹp của

đời người” [42,57]. Thông qua câu chuyện, tác giả đã bày tỏ tấm lòng thương

cảm và trân trọng của mình trước số phận, tài năng và tâm hồn của người hát

xẩm. Bên cạnh đó, chúng ta cũng bắt gặp một nỗi niềm trăn trở mà tác giả đã

gửi gắm qua nhân vật: “giữa những tiếng ồn ào lộn xộn, tiếng đàn “tri âm”

của tôi, còn ai biết tới?” [42,54]. Nó làm chúng ta nhớ đến tâm sự của Nguyễn

Du khi xưa:

“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng?”

(Đọc tiểu Thanh kí – Nguyễn Du)

Rõ ràng, đối với người nghệ sĩ, sự khao khát tri kỉ, tri âm đã trở thành

niềm day dứt muôn đời.

Truyện ngắn Thi sỹ là câu chuyện kể về “nỗi khổ tâm” của một nhà thơ.

Đó là nhà thơ Văn Hữu, một người luôn đề cao văn chương chân chính. Ông

cho rằng “hỏi “phát tài” với một nhà thi sỹ, thật không phải cách. Tiền tài là

một vấn đề khốn nạn của kẻ làm thơ. Tôi không bao giờ nói đến tiền tài. Tôi

không bao giờ đưa một bài thơ của tôi cho một nhà xuất bản, một nhà buôn

bán…, họ sẽ làm bài thơ của tôi ra những con số không có tý âm hưởng nào,

họ sẽ làm cho bài thơ cũng có một cái giá tùy theo thời buổi mà lên xuống…

Những bài thơ của tôi, đều là do tôi uống nước lã mà viết ra, nhưng đâu có lấy

thế mà phàn nàn” [42, 84]. Với ông, hạnh phúc của người thi sĩ là “làm ra một

cái gì chưa có thành ra có thật, ở sự sáng tạo”; ở chỗ “tạo tác ra được một câu

thơ, thế cũng đủ làm cho bỉ nhân vui thích, cần gì “nó” cũng phải có một cái

giá tiền như cái bánh trung thu” [42, 84].

63

Suy nghĩ của Văn Hữu khá gần gũi với suy nghĩ của Hộ trong truyện

ngắn Đời thừa của Nam Cao. Nhà văn Hộ cũng ôm ấp “một hoài bão lớn” về

sự nghiệp văn chương. Anh sẵn sàng hiến tất cả đời mình cho nghề văn. Hộ

chẳng những mê văn, coi văn chương là một lạc thú không gì sánh được, mà

anh còn coi văn chương là lẽ sống, là lí tưởng của cuộc đời. Vì lí tưởng đó,

anh có thể hi sinh tất cả: “Đói rét không có nghĩa lí gì đối với một gã trai trẻ

say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn (…) Đối với

hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm

nữa” [6, 155-156]. Tuy nhiên, quan niệm của hai người cũng có chút khác

biệt. Ở Hộ luôn có sự khao khát vinh quang: “Hắn băn khoăn nghĩ đến một

tác phẩm nó sẽ làm lu mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời” [6, 156].

Nghĩa là anh không bằng lòng với một cuộc sống vô danh, vô nghĩa, muốn

chói sáng bằng việc phát huy tận độ khả năng nghệ thuật của bản thân và

cống hiến cho xã hội. Trong khi Văn Hữu lại nghĩ đơn giản và lãng mạn hơn:

“Hai chữ Văn Hữu ba trăm năm sau còn có người nhắc tới hay không nhắc

tới, thì có quan hệ gì đến với tôi, vì tôi đâu có sống mãi để hưởng cái vinh dự

ấy? Ví dầu tôi có làm được những câu thơ tuyệt diệu sống mãi với cỏ cây, thì

rồi tôi cũng phải chết như mọi người, nghĩa là cũng phải đến cái lúc ấy, cái

lúc xác mất hồn tan. Mà ví phỏng tôi có hồn nữa, có lẽ tôi cũng không nhớ tôi

là tác giả những bài thơ nào. Một người khác, lấy điều đó làm mối khổ tâm, vì

họ biết trước rằng, cái sự nghiệp của họ sẽ tiêu như những bát phở. Nhưng bỉ

nhân không lấy thế làm điều. Làm ra được bài thơ hay, bỉ nhân sẽ đóng kín

cửa phòng lại, đọc cho mình nghe rồi đốt đi” [42, 84-85].

Lí tưởng, hoài bão của Văn Hữu và của Hộ thật cao đẹp nhưng trên

thực tế chúng đều không thể thực hiện được. Tất cả chỉ vì “những cái lo lắng

tủm mủn về vật chất”, “những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí” trong đời sống

cơm áo hằng ngày. Với Hộ, từ khi “có cả một gia đình phải chăm lo”, anh

64

không thể khinh thường đồng tiền nữa, mà trái lại anh “điên người lên vì phải

xoay tiền” [6, 156-157]. Văn Hữu cũng vậy. Những lời “hùng biện” của ông

trong suốt cuộc gặp gỡ với người kể chuyện không giúp ông che đậy được cái

tình cảnh nghèo khổ, túng thiếu của mình. Tình cảnh của người thi sỹ đã lộ

hết ra qua cái bộ dạng “trong cái the rộng thênh và vá nhiều chỗ, nhà thi sỹ

giống như một cái bù nhìn” [42, 83]; qua cách ông xơi một lúc ba bát phở:

“lùa một dây như kẻ đã ba hôm không ăn” [42, 84]; nhất là qua cái mẩu giấy

cầm đồ mà ông vô tình để quên khi ra về, trong đó có ghi giá tiền gán hai cái

áo the, một cái quần đàn bà cùng số tiền đã mua gạo và sẽ mua một quyển thơ

Thế Lữ, một cái bánh dẻo cho đứa con.

Cuộc sống nghèo túng còn nguyên nhân gây nên bao đau khổ tinh thần

cho Hộ cũng như Văn Hữu. Đối với Hộ, “còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát

khao làm một cái gì để nâng cao giá trị đời sống của mình mà kết cục chẳng

làm được gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”. Anh phải ra sức kiếm tiền

bằng cách viết nhanh, viết nhiều, tức phải viết dễ dãi cẩu thả: “Hắn phải cho

in nhiều cuốn viết vội vàng (…), phải viết những bài báo để người ta đọc rồi

quên ngay sau lúc đọc”. Đối với Văn Hữu, “mối khổ tâm” của ông là ở chỗ

nếu không “bán” thơ kiếm tiền thì phải cầm cố mọi thứ trong nhà, kể cả cái áo

the, cái quần đàn bà. Mối khổ tâm này dù chưa trở thành bi kịch tinh thần đau

như của Hộ song chắc cũng không kém đau đớn, day dứt.

Thi sỹ là câu chuyện được kể bằng một giọng điệu hài hước. Nhưng sau

tiếng cười sẽ là những giọt nước thương cảm của tác giả và người đọc: “tôi

thấy như có một ngòi bút sắt đâm ngang qua quả tim tôi” [42, 85]; “các bác

có lẽ không nhịn cười được, nhưng những giọt nước mắt sẽ lẳng lặng từ khóe

mắt chảy xuống trên gò má, mà các bác không hay” [42, 82].

65

Lưu Trọng Lư không viết nhiều, viết sâu, viết hay về “bi kịch” của

người trí thức – nhà thơ, nhà văn như là tác giả Nam Cao. Tuy nhiên, chỉ với

một hai truyện ngắn, Lưu Trọng Lư cũng đã phản ánh được một cách trung

thực, xúc động về cuộc sống túng thiếu của họ. Bởi bản thân ông cũng là một

người cùng cảnh ngộ. Trong hồi kí Nửa đêm sực tỉnh, ông kể: “Những ngày

tháng tiếp theo, hết chuyển từ phố này qua phố khác, từ phố Huế đến Ngã Tư

sở, cam chịu nghèo thiếu mà không dễ dàng tự túc. Chúng tôi đã làm khách

quen dễ sợ của chú “khách’ trọc đầu ngồi “ghi-sê” nhà “cầm đồ” ở phố Hàng

Chiếu” [42, 1338]; “Họ cũng không biết rằng: có lúc chúng tôi, những nhà

thơ giữa đêm rét, không có một thanh củi để sưởi, phải gom đốt những tờ báo,

những tờ nhật trình” [42, 1339]. Với Lưu Trọng Lư, cái nghề cầm bút nhiều

lúc tỏ ra bạc bẽo. Tuy nhiên, ông vẫn chấp nhận “sống vui” với nó. Trong

truyện ngắn Cắm neo, thông qua nhân vật “tôi”, ông đã bộc bạch: “Đã biết

bao lần tôi dứt áo ra đi quyết từ biệt cái nghề cầm bút nhưng biết bao lần tôi

vẫn trở lại với nghề… Cho đến nay thì tựa hồ tôi đã vui lòng nguyện đầy đọa

thân thể mình, cho đến ngày cuối cùng, trong cái kiếp văn chương phụ bạc ấy.

“Kéo neo tàu chạy…”. Đời tôi, đã biết bao lần kéo neo, đuổi bắt những mộng

lòng ở chốn trời xa biển lạ… Nhưng rồi để một ngày kia, trở về với những

thất vọng nặng nề… Bạn ơi! Hãy xếp buồm lại, và lần này để cho neo cắm

chặt lấy bờ bến cũ” [42, 136-137]. Có lẽ chỉ nhờ tình yêu và niềm mê văn

chương của một người nghệ sĩ chân chính mới có thể khiến ông: “trong

những ngày khốn cùng ấy, tôi vẫn tiếp tục nhìn những ánh sao lạc vào cửa sổ

và làm những bài thơ, không phải để cầm bán cho ai, mà là những bài thơ làm

đẹp lòng người” [42, 1338].

Một khía cạnh khác trong sinh hoạt của giới văn nghệ sĩ cũng được

Lưu Trọng Lư phản ánh một cách thú vị qua truyện ngắn Bạn tôi cưới vợ: “Cô

Lệ Chi không nghĩ đến cái tình nhân 12 chân của mình ở núi rừng thăm thẳm

66

nữa. Anh Phong không nghĩ đến những cái trò chơi ngộ nghĩnh của những

con gà trống và gà mái. Anh Xuân không nghĩ đến cái người tình nhân không

bao giờ có. Anh Thái, nhà thi sỹ của hoa và mộng, không nghĩ đến sự hôn gót

chân một người đàn bà. Anh Vũ, một nhà thi sĩ khác, không nghĩ đến những

chuyện “thân tàn ma dại”” [42, 124]. Ở đây tác giả đã nhắc đến một cách hài

hước phong cách sáng tác những nhà văn thường cộng tác với Hà Nội báo:

Nguyễn Vỹ với câu thơ 12 chân (cô Lệ Chi), Vũ Trọng Phụng với đề tài quan

hệ tính dục (anh Phong), Thái Can với thơ tình yêu (anh Thái), Vũ Đình Liên

với đề tài “thân tàn ma dại” (anh Vũ). Bên cạnh đó còn có Lê Tràng Kiều, Vũ

Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn xuân Huy, Nguyễn đình Khôi,…

Tất cả cùng góp mặt trong một buổi tiệc “rất vui vẻ, rất đầy đủ, và có ý nghĩa

lắm” [42, 126]. Không khí buổi tiệc đã phản ánh được tình cảm anh em thân

thiết, gắn bó, vui tươi giữa những người hoạt động văn nghệ. Qua câu chuyện,

cái cá tính mơ mộng và đa tình của tác giả cũng được bộc lộ rõ nét: “Tôi có

cảm giác như đi trong một giấc mộng” [42, 122], “tôi hoàn toàn tỉnh mộng”

[42, 124], “đời đẹp quá khiến ta không thể sống lạnh lẽo một mình. Một dàn ô

tô lộng lẫy. Một tràng pháo dài. Những cô phù dâu xinh đẹp. Đời chỉ có thế,

đời phải có thế. Đời ý nhị bởi thế?” [42, 127].

Hướng về hiện thực cuộc sống, ngòi bút của Lưu Trọng Lư không chỉ

thể hiện sự thương xót, đồng cảm mà còn có thể hiện sự mỉa mai, châm biếm.

Cái vò sữa của cô Perrette là một ví dụ. Truyện kể về ông Phán, “vị anh hùng

của Sở Phi-năng”. Đối với người ngoài thì ông “hống hách đến điều”, mà

riêng với vợ thì lại “rụt rè, e sợ như một cô dâu mới” [42, 115]. Vì mắc phải

“cái bệnh của một bậc anh hùng” nên dù rất muốn lấy được một người vợ lẽ,

song ông không thể thực hiện. Đã bao lần ông viện ra những lý lẽ chính đáng

để bênh vực cho cái ước nguyện của mình nhưng đều bị bà Phán khước đi

một cách dễ dàng. Một hôm, ông lại tìm thấy “cái lẽ rất tầm thường giản dị để

67

đánh đổ những cái thuyết của bà Phán”. Cái lý lẽ của ông đánh vào cái sở

thích làm giàu của bà: “Ví dụ như bà để cho tôi lấy một người vợ lẽ. Nhờ ông

bà tổ ấm, nhà mình cũng được mau con mau cái, thì ta cứ tính mỗi năm đẻ

một đứa. Thì trong khoảng năm năm, ta đã có những năm đứa rồi. Bốn năm

đầu lẻ tẻ bỏ đi không tính đến năm thứ năm thì cứ tháng tháng ta lãnh hơn số

lương của ta, là 20p0, phải không bà… Mỗi đứa con nhà nước phụ cấp cho ta

4p0, năm đứa thì 20p0 chứ gì? Với 20p0, bà về quê mà mua một con bò cái,

một năm bà mua được 12 con… Rồi cứ trong 5 năm, con hơn con kém, mỗi

con cũng sinh được cho bà 5 con bò con. Thế là trong năm ít nhất, bà cũng có

được 300 con bò… Cả cái khu rừng Từ Lâm ở quê bà, một buổi chiều sẽ vàng

những con bò của bà… Rồi mỗi người trong chúng ta có nhắm mắt cũng yên

lòng, vì đã để lại được 300 con bò cho con cho cháu… Bây giờ thì bà đã thấy

rõ thiệt hơn chưa? Một người vợ lẽ lại lợi cho bà đến chừng nào! Tôi không

muốn ép bà, bà tự liệu lấy thì hơn” [42, 116]. Nghĩ tới đó, ông “sung sướng

vỗ đùi như một người điên” [42, 116]. Bỗng một quả bàng rơi xuống đầu làm

ông giật mình. Ông sực nhớ ra “còn có hai tháng nữa thì đã về hưu rồi!”; “Cái

“vò sữa” của ông Phán đã vỡ tan tành” [42, 116]. Câu chuyện có cốt truyện

đơn giản, song với cách dẫn dắt của khá lôi cuốn, tác giả đã tạo ra được một

tiếng cười sảng khoái xen chút ý vị châm biếm dành cho những kẻ có quyền

có tiền, già mà còn hám sắc trong xã hội.

Tóm lại, viết về hiện thực, Lưu Trọng Lư có cách nhìn, cách thể hiện

rất riêng. Nếu các nhà văn hiện thực thường đi sâu phân tích các mâu thuẫn

cơ bản trong cuộc sống để lí giải cái bản chất của hiện thực xã hội thì Lưu

Trọng Lư lại chú trọng biểu hiện cảm xúc, tình cảm trước những hiện tượng

trong cuộc sống. Nói cách khác, các truyện ngắn thế sự của Lư vừa mang dấu

ấn của đời sống khách quan vừa mang dấu ấn chủ quan của nhà văn. Qua đó,

68

chúng ta hiểu thêm về Lưu trọng Lư – một trái tim đa tình, một tâm hồn mơ

mộng và một tấm lòng nhân ái, biết quan tâm đến con người và cuộc sống.

TIỂU KẾT:

Đề tài và nguồn cảm hứng bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của Lưu

Trọng Lư trong truyện ngắn, theo khảo sát của luận văn, tập trung vào các

điểm sau:

Lưu Trọng Lư thường viết về tình yêu với nguồn cảm hứng trữ tình

chan chứa, nhằm bộc lộ toàn vẹn cảm xúc của một cái tôi đa tình, mơ mộng,

luôn khao khát và tôn vinh tình yêu.

Lưu Trọng Lư cũng hướng ngòi bút của mình về hiện thực cuộc sống

để bày tỏ niềm trăn trở, sự cảm thông và tấm lòng yêu thương chân thành của

mình trước những con người nghèo khổ trong xã hội. Điều này cho thấy Lưu

Trọng Lư về cơ bản là một nhà văn lãng mạn nhưng ông không hề thoát ly

thực tế. Đây là điều rất đáng trân trọng ở Lưu Trọng Lư.

69

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN

LƯU TRỌNG LƯ

Tác phẩm văn học hiện ra với sự kì lạ và vẻ đẹp của nó khi bản thân nó

có sự thống nhất hữu cơ, hài hòa giữa các thành tố. Sự hiện thực hóa của tác

phẩm được biểu hiện sống động thông qua sự hoàn thiện các hình thức nghệ

thuật mà người nghệ sĩ thể hiện trong tác phẩm. Các thành tố hình thức sẽ

không có ý nghĩa khi nó chỉ là những thành tố biệt lập, không có mối quan hệ

tương hổ. Sự tham gia của các thành tố hình thức như: văn bản ngôn từ, kết

cấu, các phương thức nghệ thuật,… đã góp phần tạo nên giá trị tư tưởng –

thẩm mỹ của tác phẩm.

Ở chương trước, luận văn đã tìm hiểu một số phương diện thuộc nội

dung của truyện ngắn Lưu Trọng Lư. Ở chương này, luận văn tiếp tục tìm

hiểu một số phương diện thuộc hình thức nghệ thuật, như phương thức xây

dựng nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ và không gian nghệ thuật trong

truyện ngắn Lưu Trọng Lư.

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện

trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật,

bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách

hình tượng. Thông qua nhân vật, nhà văn khái quát các tính cách, số phận con

người và các quan niệm về chúng.

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư không đông đảo

nhưng khá đa dạng về thành phần: nhà nho, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà

họa sĩ, người hát xẩm, đứa trẻ nghèo, người nông dân nghèo, người vú em,

thanh niên, học sinh, sinh viên, có cả ông cố đạo và tên cướp. Tìm hiểu thế

giới nhân vật này, chúng ta thấy có đặc điểm sau đây:

70

Lưu Trọng Lư “thường xây dựng những nhân vật chính như là những

con người thất bại” [42, 17]. Kiểu nhân vật này xuất hiện ở hầu hết các kiểu

loại truyện ngắn, gắn với tất cả đề tài sáng tác của ông.

Trong truyện ngắn dã sử Người sơn nhân, nhân vật chính vốn là một

tên lính của ông Đề Trực – quân của vua Hàm Nghi. Khi vua Hàm Nghi thất

bại, thân sĩ tán loạn, người sơn nhân cùng hai người đổ đảng rủ nhau trốn vào

rừng, lập nên một trang trại nhỏ và sống bằng nghề cướp bóc. Sau đó ông ta

bị bắt và bị giam trong ngục tối. Cảnh tù tội xiềng xích khiến ông ta như điên

dại, đã có phen cắn lưỡi mà không chết. Khi được chuyển sang bệnh viện, ông

ta đã bỏ trốn tìm về trang trại cũ. Tất cả vẫn vẹn nguyên, chỉ có hai người đồ

đảng là không thấy tăm hơi. Từ đó người sơn nhân sống một mình, nghênh

ngang riêng một thế giới, làm bạn với cọp, beo và vui thú với “những điều to

lớn của vũ trụ” [42, 33]. Rõ ràng ở người sơn nhân - một tên tướng cướp có

số phận khác thường, có hình ảnh của một người anh hùng thất thế, phải trốn

khỏi cái “vòng nhân thế” đặng “cái chí khí anh hùng” được “dọc ngang ngang

dọc” [42, 31]. Thông qua nhân vật này, tác giả muốn thể hiện một khát khao

tự do, một tiếng nói phản kháng trước xiềng xích của xã hội thực dân nửa

phong kiến bấy giờ: “Ôi xiềng xích! Nó không cho tôi sống đã đành, mà

không cho tôi chết! (…) Cái xác thịt của tôi không thấy đau đớn chút nào, chỉ

có tâm hồn mãnh liệt của tôi, cái khí phách anh hùng của tôi là đau đờn mà

thôi” [42, 32]. Tuy nhiên, đây là tiếng nói phản kháng đầy bế tắc: “Người sơn

nhân của tôi là một sự bế tắc dày đặc của tâm hồn tôi” [42, 1388].

Trong truyện ngắn dã sử Chiêm Thành, nhân vật chính Chế Văn Tô

cũng là một người thất bại. Khi quân Nam Việt tràn đến, chàng và người dân

xóm Cảo Đa phải trốn chạy vào phía Nam. Giữa lúc nghỉ chân trên đường

trốn chạy, nỗi nhớ quê trào dâng mãnh liệt khiến chàng lén trở về làng mình.

Nhìn cảnh tượng hoang tàn, chết chóc, lòng chàng càng thêm đau đớn. Nỗi

71

đau làm chàng như chết lịm, hồn chàng quay cuồng giữa thực và mộng. Trong

cơn mê, chàng thét lên: “Tôi kẻ đau đời, một kẻ bơ vơ, một đứa lạc loài, một

người dân mất nước, Chiêm Thành! Ôi Chiêm Thành tổ quốc” [42, 75]. Rồi

chàng lại ra đi, “lững thững, nặng nề” [42, 75]. Chế Văn Tô là hình ảnh một

bậc trượng phu bất lực trước cảnh nhà tan, nước mất. Thông qua nhân vật Chế

Văn Tô, tác giả đã bày tỏ nỗi niềm cảm hoài và tình yêu quê hương đất nước

của mình.

Trong câu chuyện truyền kì Ly Tao tuyệt vọng, nhân vật Phan Chí Y là

một nhà nho bất đắc chí. Chàng có “một bầu máu nóng hăm hở mang ra giúp

đời, mà rồi sự nghiệp không thành, đành tiu nghỉu lui về với cỏ cây non

nước” [42, 39]. Trong tâm trạng chán nản, cô đơn, chàng đã xem Ly Tao như

một người yêu, người tri kỉ, người đem lại cho chàng niềm hi vọng: “Ly Tao

hẳn với ta đây cùng chung một tâm sự. Tâm hồn ta với tâm hồn Ly Tao cùng

hòa theo một điệu. Một mối thất vọng, với một mối thất vọng khác sẽ thành

một mối hi vọng. Có Ly Tao mà ta sẽ trở lại với đời”[ 42, 41]. Nhưng tình

yêu cùng niềm hi vọng ấy cũng nhanh chóng rơi vào hư vô. Rõ ràng, nhân vật

là một người thất bại, thất bại trong lí tưởng sự nghiệp và trong cả tình yêu.

Trong các truyện ngắn tâm lí viết tình yêu, phần lớn các nhân vật đều

được tác giả mô tả thành kẻ thất bại. Chẳng hạn như chàng trai trong Cô bé

hái dâu, Tình trong giây lát, Một lần tôi đi qua, họa sĩ Lộc trong Bó lan trắng,

cô thiếu nữ trong Người mua hoa, Vân và Bình trong Nàng Vân may áo cho

chồng, Vinh và Vân trong Khỏi truông… Sự thất bại của họ được lí giải chủ

yếu như là kết quả của những mối tình đầy đắm say và mơ mộng ảo tưởng

song đơn phương và thầm kín, nhưng cũng có khi là hậu quả của những trở

ngại từ lễ giáo, trong khi sự phản kháng của họ gần như không có. Thông qua

những nhân vật này, chúng ta thấy được cái cá tính cùng nguồn cảm hứng

72

sáng tạo của tác giả. Đó là nghệ sĩ rất đỗi đa tình và mơ mộng, coi sáng tác

như là sự giãi bày, sự tự biểu hiện tâm hồn mình để làm đẹp cho hồn người.

Trong các truyện ngắn thế sự, tác giả xây dựng những nhân vật thất bại

nhằm tô đậm cái hoàn cảnh, số phận đáng thương của họ, qua đó phản ánh

chân thực cái hiện trạng xã hội.

Nhân vật Thằng Cạc là một ví dụ. Cạc là một con chim khao khát được

sổ lồng. Nhưng bi kịch của nó là ở chỗ đã trốn thoát được những khổ sở nhục

nhã khi sống ở nhà thì lại rơi vào cái đói khi bước ra xã hội, tức thoát khỏi cái

lồng này lại rơi vào cái lồng khác, rộng lớn hơn nhưng khắc nghiệt hơn. Cuối

cùng để được sống, nó đã tự động trở về cái lồng cũ. Sự thất bại của Cạc đã

khắc sâu sự bất hạnh, đáng thương của những đứa trẻ nghèo.

Trong Thi sỹ, nỗi khổ tâm của Văn Hữu có thể xem là một sự thất bại

đối với một người nghệ sĩ có lí tưởng nghệ thuật cao đẹp nhưng cuộc sống lại

quá túng thiếu, phải cầm cố cả cái quần, cái áo của vợ mình. Cùng với những

nhân vật trí thức trong truyện ngắn Nam Cao, hình tượng nhân vật này đã góp

phần tái hiện chân thực, xúc động cuộc sống, nỗi bi kịch của những nhà văn,

nhà thơ trong xã hội bấy giờ.

Những dẫn chứng trên chứng tỏ kiểu nhân vật thất bại xuất hiện như

một hệ thống trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư. Đây là một nét khá nổi bật

trong cách tổ chức nhân vật của tác giả.

Nhân vật của Lưu Trọng Lư thường là những con người thất bại nhưng

ở họ vẫn toát lên những phẩm chất tốt đẹp. Ở Phan Chí Y, đó là “tấm lòng

băng tuyết” của một nhà nho cùng với sự đồng cảm, xót thương cho những kẻ

sĩ bạc mệnh. Ở Chế Văn Tô, đó là tấm lòng yêu quê hương, yêu Tổ quốc. Ở

nhân vật người vú em, đó là tình thương và sự hi sinh hết mực vì chồng con.

Ở thằng Cạc, đó là bản chất hiền lành. Lớn lên trong một môi trường đặc biệt,

73

nó ít nhiều bị tiêm nhiễm. Bằng chứng là nó từng lén lấy cái mâm đem cầm.

Thế nhưng khi đối diện với cái đói, nó thà quyết định trở về nhà, nơi mà nó

luôn muốn trốn khỏi, hơn là ở lại sống bằng nghề trộm cắp. Rõ ràng, đó căn

bản là một người lương thiện. Các nhân vật trong những câu chuyện tình yêu

của Lưu cũng như vậy. Tất cả đều là những người đa tình, mơ mộng, nhưng

khi yêu họ yêu bằng cả tâm hồn. Tình yêu của họ tình yêu đơn phương, tình

yêu mơ mộng nhưng rất chân thành và chung thủy. Trong tình yêu họ không

phải là người ích kỉ. Với họ, tình yêu bao gồm cả tình thương (Cô bé hái dâu)

và yêu là mong muốn người mình yêu hạnh phúc (Chiếc áo rét).

Như vậy, hầu hết những nhân vật của Lưu Trọng Lư là nhân vật chính

diện. Các nhân vật ấy đều là những nhân vật hiền lành và giàu tình cảm, đều

biểu hiện một vẻ đẹp, một lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn. Trong truyện ngắn

của Lưu Trọng Lư, hầu như chúng ta không tìm thấy những nhân vật xấu, xấu

về ngoại hình, đặc biệt là về tính cách tâm hồn. Ngay cả người sơn nhân - một

tên tướng cướp ngang tàng sẵn sàng giết người cướp của, nhưng cũng không

gợi cho người đọc cảm giác sợ hãi, căm phẫn. Dưới ngòi bút tác giả, ông ta là

một người có khí phách, thật đáng trân trọng. Hay như nhân vật ông Phán

trong Cái vò sữa của cô Perrette, đó là một kẻ sợ vợ, già mà còn mê có vợ bé.

Nhưng qua cách miêu tả của tác giả, nhân vật này không hẳn là nhân vật phản

diện. Đọc tác phẩm, chúng ta thấy hắn đáng cười hơn đáng ghét.

Các nhân vật của Lưu Trọng Lư còn có chung một đặc điểm nữa là

thường không rõ ngoại hình, ít hành động, tính cách mờ nhạt và ít được xây

dựng theo phương thức cá thể hóa. Đây vốn là đặc trưng trong cách tổ chức

nhân vật của văn xuôi trữ tình. Cách tổ chức nhân vật này xuất phát từ quan

niệm nghệ thuật về con người: luôn nhìn về con người cá nhân ở chiều sâu

của tâm linh với các trạng thái tâm lí, cảm xúc, cảm giác. Ở đó không phải là

nhân vật làm gì mà cái chính là nghĩ gì và cảm xúc như thế nào. Theo Nguyễn

74

Tuân, “cái chính trong truyện là nhân vật có làm, phải làm cái này cái kia;

nhưng nhân vật có cảm, có suy nghĩ nữa. Và cái thế giới bên trong đó của

nhân vật rất cần cho sinh khí tiểu thuyết” [70, 443].

Trong những câu chuyện tình yêu của Lưu Trọng Lư, những chi tiết

miêu tả hình dáng bên ngoài của nhân vật gần như không có. Nhân vật thường

rất ít nói năng và hành động. Ở đây nhân vật chủ yếu xuất hiện qua dòng tâm

trạng, cảm xúc. Chẳng hạn như nhân vật Phan Chí Y. Thật khó để vẽ nên

chân dung bên ngoài của nhân vật này. Trong khi chân dung bên trong nhân

vật lại hiện lên rõ ràng, chi tiết. Đó là một người luôn mang nặng nỗi niềm u

uẩn, thất vọng. Tương tự là nhân vật họa sĩ Lộc. Sự tồn tại của nhân vật này

không dựa vào diện mạo và hành động, bởi diện mạo thì không được miêu tả,

còn hành động thì lặp đi lặp lại ở việc nhìn thấy và tưởng tượng. Sức thu hút

của nhân vật là ở đời sống nội tâm, biểu hiện qua một chuỗi cảm xúc: “ngạc

nhiên”, “hớn hở”, “sung sướng”, “ngất ngây, say sưa”, “cảm động” và “thèn

thẹn”. Trong Cô bé hái dâu, Một lần tôi đi qua, Người mua hoa,... nhân vật

chính cũng là những người không ngoại hình. Còn về hành động của nhân

vật, tác giả có miêu tả. Tuy nhiên việc miêu tả hành động không phải là để

khắc họa tính cách nhân vật mà hành động được xem là sự biểu hiện của

những tâm trạng, cảm xúc, cảm giác bên trong nhân vật. Các hành động của

chàng trai trong Cô bé hái dâu cũng như chàng trai trong Một lần tôi đi qua

đều bắt nguồn từ những cảm xúc yêu đương mơ mộng trong lần đầu thoáng

gặp người thiếu nữ. Còn hành động của cô gái trong Người mua hoa phản ánh

cái tâm trạng nôn nao chờ đợi trong hạnh phúc xen lẫn lo âu thấp thỏm của

cô. Những nét tâm trạng, cảm xúc của các nhân vật này luôn xuyên suốt, thấm

đẫm câu chuyện. Ở đây, nhân vật tự sự đã trở nên như nhân vật trữ tình, tự

biểu hiện mình qua tâm trạng, cảm xúc.

75

Trong những truyện ngắn của Lưu Trọng Lư thiên về bút pháp tả thực

như Con chim sổ lồng, Anh Neo, ngoại hình và hành động của nhân vật cũng

ít được chú ý miêu tả. Trong những truyện ngắn này, chúng ta bắt gặp những

chi tiết miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật. Tuy nhiên, tâm lí nhân vật diễn

tiến một cách nhẹ nhàng, đều đều chứ không hề có xung đột gay gắt, quyết

liệt. Ví dụ, cái quyết định bỏ nhà ra đi cũng như quay trở về nhà được thằng

Cạc đưa ra chỉ sau một thoáng suy nghĩ, tính toán. Ở Cạc, sự đấu tranh trong

tâm lí khá mờ nhạt. Còn với nhân vật anh Neo, khi bị dồn tới bế tắc, phải

quyết định bán con nhưng tâm lí của anh vẫn không có thay đổi, ở anh vẫn là

sự lo lắng trầm lặng từ đầu đến cuối truyện. Nhân vật Văn Hữu trong Thi sỹ

được tác giả chú trọng miêu tả dáng vẻ bên ngoài: “Trong cái áo the rộng

thênh và vá nhiều chỗ, nhà thi sĩ giống như một cái bù nhìn. Cái mũ “phớt”

của bác, tôi có thể so sánh mà không làm giảm giá trị của nó đi một tý nào, -

tôi có thể so sánh với cái mũ ở trên đầu bác hàng phở. Còn về đôi giày trắng

của bác, thì cho phép bỉ nhân ngờ cái sự trắng của chúng nó một chút (…) Đó

là tôi chưa phải tả đến cái mái tóc rủ đến tận cổ áo, cái da mặt nhăn nhó, cái

bộ râu mép lởm chởm như rễ tre” [42, 83]. Trong khi tâm lí của nhân vật lại

không được khắc họa rõ nét. Nếu như ở Hộ trong Đời thừa, Nam Cao đã đi

sâu phân tích, miêu tả những xung đột đau đớn, dai dẳng trong tâm lí nhân vật

nhằm khắc sâu cái bi kịch tinh thần của một nhà văn, thì ở Văn Hữu, nỗi khổ

tâm của một thi sĩ hoàn toàn được giấu kín, không được biểu hiện ra qua

những xung đột tâm lí.

Rõ ràng, nhân vật trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư được xây dựng

theo phương thức phi tính cách hóa. Ở đây cốt lõi của nhân vật không phải là

tính cách mà là loại hình. Xưa nay tính cách thường được coi là nội dung cơ

bản của nhân vật thì với Lưu Trọng Lư đặc điểm tính cách nhân vật theo

hướng cá thể hóa ít được nổi trội mà thường nghiêng về thuộc tính chỉ loại.

76

Trong sác tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao,… nhân vật

thường là điển hình xã hội. Những Nghị Hách, chị Dậu, Chí Phèo,… là những

nhân vật thể hiện tập trung những phẩm chất của một loại người, một hạng

người đồng thời lại mang những nét cụ thể, cá biệt của một con người nhất

định. Đó là những điển hình theo cấu trúc xã hội tính mà hạt nhân tạo thành

tính cách nhân vật vẫn là cái riêng, là cá tính. Nhân vật của Lưu Trọng Lư,

giống như nhân vật của Thạch Lam, Xuân Diệu, không bị buộc chặt vào tính

cách và tính cách với nhu cầu cá thể hóa không phải là mối quan tâm chính. Ở

đây, nhân vật không phải nhằm khái quát hóa tính cách vì tính cách không

phải là toàn bộ nội dung nhân vật. Những mẹ Lê, cô Tâm, cô Thảo, cô Hoa,

chị Yên,… trong truyện ngắn Thạch Lam đều là sự thể hiện những đặc điểm

tính cách cả người phụ nữ nông dân Việt Nam ngày trước. Ở đó mỗi người có

một cảnh ngộ, duyên phận riêng nhưng rõ ràng những đặc điểm, thuộc tính

chỉ loại thường lấn lướt và đậm đà hơn so với bản sắc cá tính. Những nhân vật

trong Phấn thông vàng của Xuân Diệu không phải là những con người xã hội,

những con người đại diện cho một tầng lớp, hạng người mà là những con

người mang chiều sâu nội tâm, cảm xúc, cảm giác. Chúng ta cũng không thể

xem những nhân vật thanh niên học sinh trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư

là những cá tính xã hội, cá thể, bởi ở đây tác giả không hề chú trọng phác họa

bộ mặt giai cấp mà chỉ chú ý biểu hiện tâm trạng, cảm xúc của họ. Như vậy,

thật khó tìm thấy trong trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư những cá tính

mạnh mạnh mẽ, gân guốc, góc cạnh, chỉ có những nhân vật mang tâm trạng,

cảm xúc. Điều đó chứng tỏ khi xây dựng nhân vật, tác giả chỉ quan tâm đến

đời sống nội tâm bên trong nhân vật. Đó là hạt nhân cơ bản để nhìn nhận đánh

giá con người, để hiểu cuộc đời và thêm yêu cuộc sống.

Tóm lại, Lưu Trọng Lư không chú trọng xây dựng những nhân vật toàn

diện cả về hình dáng bên ngoài lẫn tính cách bên trong. Đọc truyện ngắn của

77

ông, chúng ta thấy nhân vật không tồn tại dựa vào diện mạo, hành động mà

nhờ vào đời sống tinh thần. Tuy nhiên, đời sống tinh thần của nhân vật cũng

khá đơn giản. Ở đó không có sự xung đột, mâu thuẫn hay sự đấu tranh tâm lí

gay gắt, đau đớn. Nội tâm của nhân vật được biểu hiện chủ yếu qua những

mảnh tâm trạng, cảm xúc. Rõ ràng, Lưu Trọng Lư không có sở trường trong

việc khắc họa chân dung, tính cách nhân vật cũng như không dày công lắm

trong việc miêu tả, xây dựng đời sống nội tâm nhân vật. Nhưng điều đáng quí

và đáng trân trọng là qua nhân vật của ông, chúng ta như thấy được chính con

người ông, một người luôn sống với cảm xúc, chân thành và hồn hậu.

3.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và tạo dựng tình huống truyện

3.2.1. Tổ chức cốt truyện

Cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư

tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất

trong hình thức động của tác phẩm văn học.

Nếu như cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao, Nguyễn Công Hoan

thường giàu xung đột, giàu kịch tính, với một câu chuyện đầy đủ sau trước

gồm phần mở đầu, phát triển, đỉnh điểm kết thúc với tính hoàn chỉnh trọn vẹn

thì cốt truyện trong nhiều truyện ngắn của Lưu Trọng Lư lại là cốt truyện tâm

lí – tức loại cốt truyện nhằm phơi bày các trạng thái, các sự cố tâm lí cũng

như quá trình phát sinh, phát triển và thay thế nhau của các trạng thái, tình

cảm, ý nghĩ của nhân vật. Kiểu cốt truyện này xuất hiện trong hầu hết những

truyện ngắn viết về đề tài tình yêu. Trong những câu chuyện tình yêu của Lư,

yếu tố không khí tâm trạng luôn rất dồi dào. Những sự kiện bên ngoài thì rất

ít, lúc này chúng chỉ đóng vai trò như là những tiền đề để kích thích cho sự

bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật mà thôi. Chẳng hạn như trong Bó lan

trắng, việc mỗi sáng thức dậy lại nhận được một bó hoa đã làm dấy lên trong

78

tâm hồn Lộc biết bao ý nghĩ yêu đương mơ mộng, ảo tưởng. Hay trong Người

mua hoa, lời hứa vu vơ của chàng trai cũng đã khiến cô gái đắm chìm trong

mơ mộng suốt một năm dài, để rồi đúng vào ngày hẹn ước đó, cô như sống

mộng với bao hân hoan, mơ màng, nôn nao, hi vọng, buồn bã, thất vọng. Rõ

ràng, truyện ngắn viết về tình yêu của Lư cũng giống những bài thơ văn xuôi,

ở đó điều tác giả quan tâm là sự tự bộc lộ và giãi bày. Ở đó cảm nghĩ đã thay

cho tự sự; những sự kiện, biến cố bên ngoài được thay bằng là những trạng

thái của tâm hồn, đi theo sự xô đẩy của tâm hồn. Điều này đã làm biến đổi

chủ thể sáng tạo để biến người viết văn xuôi thành một thi sĩ trong khả năng

cảm nhận và tự biểu hiện mình.

Ở những truyện ngắn mang cảm hứng thế sự, Lưu Trọng Lư có chú ý

hơn đến việc xây dựng cốt truyện nhằm phản ánh một cách khách quan bức

tranh đời sống. Tuy nhiên, việc tổ chức các sự kiện, biến cố để tạo thành xung

đột và việc giải quyết xung đột chưa thật sự kịch tính, gay cấn, bất ngờ nên

chức năng bộc lộ các mâu thuẫn đời sống của cốt truyện chưa thật rõ. Truyện

ngắn Anh Neo là một ví dụ. Truyện ngắn tái hiện một tình cảnh nghèo khó, bế

tắc của nhân vật anh Neo. Cao trào của câu chuyện là lúc vợ anh lên cơn đau

bụng buộc anh phải nghĩ tới việc bán con. Quyết định này khiến người vợ

không ngừng khóc lóc, lo lắng. Giữa lúc ấy anh lại nhìn vợ và “chủm chỉm

cười:

- Nầy, tôi coi mạ thằng Cu bây giờ hết đau bụng rồi thì phải?

- Đã đỡ, đỡ nhiều. Có lẽ tôi chỉ đau bụng xoàng thôi… bố hắn ạ!” [42,

61].

Cái cách tác giả “mở gút” khá nhẹ nhàng cùng với lối kể chuyện phẳng

lặng khiến cái kết của câu chuyện giảm đi sức ám ảnh. Ở một số truyện ngắn

khác, bên cạnh các sự kiện bên ngoài, tác giả cũng không quên khai thác các

79

biến cố tâm lí, những cơn thâm trầm trong cảm xúc nhân vật. Những cảm xúc

này được bộc lộ khá thoải mái thông qua lối kể chuyện chủ quan – người kể

là một nhân vật trong câu chuyện, đã làm cho cốt truyện trở nên dàn trải, thiếu

sự cuốn hút. Chẳng hạn như trong truyện ngắn Con vú em, các sự kiện bên

ngoài và sự kiện bên trong được gần như được đặt xen kẽ khiến mạch truyện

bị kéo dài, cốt truyện không còn sự tinh nhọn, gay cấn nên cho nên câu

chuyện giảm sức lôi cuốn.

Như vậy, về phương diện kiến tạo cốt truyện, Lưu Trọng Lư có xu

hướng xem nhẹ những biến cố và hành động bên ngoài để hướng đến miêu tả,

thể hiện những cảm nghĩ, đời sống nội tâm của nhân vật. Kiểu cốt truyện này

khá giống với cốt truyện trong một số truyện ngắn như Hai đứa trẻ, Dưới

bóng hoàng lan,… của Thạch Lam và Tỏa nhị kiều, Phấn thông vàng,… của

Xuân Diệu.

Tuy nhiên, việc dẫn dắt câu chuyện bằng dòng cảm xúc của Lưu Trọng

Lư thường khá tự do, thoải mái, tấm lòng ông thế nào ông thể hiện ra thế ấy

nhiều lúc đã làm cốt truyện thiếu chặt chẽ, tinh lọc và giảm đi sức hấp dẫn.

3.2.2. Tạo dựng tình huống truyện

Gắn với việc tổ chức cốt truyện là việc xây dựng tình huống truyện.

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, ta thấy thường xuyên xuất hiện kiểu tình

huống gặp gỡ. Tình huống này không nhằm thúc đẩy hành động nhân vật mà

vai trò chủ yếu của nó là khơi nguồn, châm ngòi cũng như lí giải những

nguyên cớ, nguồn cơn của những tâm trạng, những biến thái của tinh thần

nhân vật. Chẳng hạn như ở Con chim sổ lồng, việc gặp gỡ thằng bé bán báo

đã đánh đọng trong tâm lí thằng Cạc cái ước muốn “vượt lồng cho được”. Ở

Cô bé hái dâu, Tình trong giây lát, Một lần tôi đi qua, lần gặp gỡ đầu tiên, dù

gián tiếp, thoáng qua, cũng đã khơi mở trong tâm tư các chàng trai biết bao

80

xúc cảm rung động, mơ tưởng, yêu thương. Ở Khỏi truông, việc gặp lại Vân

đã làm sống dậy trong Bình bao kỉ niệm thuở học trò: “quãng đời niên thiếu

diễn lại trong trí tôi như một đoạn phim rõ rệt”; đã làm trổi dậy trong họ

những xao động yêu thương: “đôi môi nồng nàn của tôi như muốn tìm cái làn

da mát rượi của nàng. Nàng vẫn không nói gì… Và hình như những giọt nước

mắt đã thấm qua vai áo tôi, và rỉ lạnh đến da thịt tôi” ; đồng thời đem lại cho

họ nhiều day dứt: “Tôi tưởng như nàng suốt đời phải nói với chồng cái thứ

giọng nhỏ nhẹ của một người ăn năn, một người biết tội mình… Dầu chồng

nàng không hay biết gì chuyện đó, nhưng số phận đã định rằng nàng từ đấy sẽ

là người đau khổ đến trọn đời” [42, 137-,142]. Hay trong Sầm sơn vui thú biết

bao, ba người bạn thân thiết cùng đi chơi với nhau rất vui vẻ. Giữa chuyến đi

họ gặp một cô thiếu nữ. Họ chủ ý mời cô gái đi cùng xe. Từ lúc cô gái bước

lên xe, trong tâm trí của ba người đàn ông bắt đầu nảy sinh sự tranh cạnh,

giận hờn vì ai cũng muốn được ngồi cùng và chiếm được tình cảm của cô gái.

Tình huống gặp gỡ có khi diễn ra vào một thời khắc đặc biệt, là thời

khắc mà ngoại cảnh như len vào hồn người gợi bao nỗi bâng khuâng. Chẳng

hạn như đêm trăng lạnh trong Ly Tao tuyệt vọng, buổi chiều tà trong Cô bé

hái dâu, một ngày đầu thu trong Một lần tôi đi qua. Có khi nó bắt đầu từ một

sự việc bình dị mà ta vẫn gặp trong cuộc sống, chẳng hạn như một chuyến đi

thăm bạn trở về bằng tàu tốc hành trong Chân ái tình, một lần đến cửa hàng

sách sách trong Tình trong giây lát, một chuyến đi chơi Sầm Sơn trong Sầm

Sơn vui thú biết bao, hay một chuyến đi công tác trong Khỏi truông. Song tựu

trung lại, nó đã tạo ra được một duyên cớ, một bối cảnh, một không khí thích

hợp vây quanh nhân vật để mở ra cánh cửa bí ẩn của cảm xúc, cảm giác và

cõi lòng nhân vật. Đó chính là hiệu ứng to lớn của tình huống gặp gỡ trong

truyện ngắn Lưu Trọng Lư. Nó tỏ ra phù hợp với cốt truyện tâm lí trong

truyện ngắn của ông.

81

3.3. Kết cấu

Trong văn học, khái niệm kết cấu bao hàm không chỉ sự liên kết bên

ngoài (mối liên hệ giữa các phần, các chương đoạn) mà cả sự liên kết bên

trong (cấu trúc nội dung cụ thể) của tác phẩm. Đó là “phương tiện cơ bản và

tất yếu của khái quát nghệ thuật”, có “chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư

tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm

nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện

tượng thẩm mĩ” [22, 156]. Như vậy, kết cấu là một yếu tố của hình thức tham

gia thể hiện chủ đề nội dung và tư tưởng tác phẩm, đóng vai trò quan trọng

trong việc biến tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật.

Đọc truyện ngắn Lưu Trọng Lư, chúng ta thấy có hai kiểu kết cấu chủ

yếu. Đó là kiểu kết cấu tuyến tính và kiểu kết cấu phi tuyến tính.

3.3.1. Kết cấu tuyến tính

Kết cấu tuyến tính là kiểu kết cấu phổ biến nhất trong truyện ngắn của

Lưu Trọng Lư. Đây là kiểu kết cấu đã “xưa như trái đất”, thường thấy trong

hầu hết các tác phẩm tự sự truyền thống. Trong truyện ngắn có kết cấu tuyến

tính, các sự kiện được sắp xếp theo trình tự thời gian, đi từ tình thái đầu đến

tình thái cuối của câu chuyện. Nhìn tổng quát, có hơn phân nửa số truyện

ngắn của Lưu Trọng Lư sử dụng kiểu kết cấu này.

Anh Neo là truyện ngắn có kết cấu tuyến tính rất đơn giản: Chiều tối,

anh Neo dẫn bò về. Anh vào nhà, gặp vợ, hai vợ chồng trò chuyện với nhau

về việc ông Lý, ông Phó đến đòi tiền. Sau đó hai vợ chồng ăn cơm và tiếp tục

bàn tính cách xoay sở. Đương lúc đó thì vợ anh lên cơn đau bụng, tưởng đã

tới ngày sinh. Anh liền đi hái một nắm lá ngải cứu rồi về vò lấy nước cho vợ

uống. Rồi anh bàn với vợ chuyện bán thằng Cu. Trong lúc vợ anh đau đớn

chưa đồng ý thì cơn đau bụng chấm dút. Sự việc kết thúc ở đó. Đọc truyện

82

ngắn, chúng ta thấy các sự việc diễn ra liên tục trong một thời gian ngắn, tạo

nên một tình cảnh đầy thúc bách, bức bối đối với các nhân vật.

15 truyện ngắn cũng là truyện ngắn có kết cấu tuyến tính đơn giản. Các

sự việc diễn ra khá nhanh, bất ngờ nhưng vẫn theo một trình tự không thể

khác được: Ông chủ nhiệm tờ báo muốn làm một số báo Tết có nhiều trang

hơn số báo thường mà vẫn giá bán thì vẫn như cũ. Ông đến bàn với ông chủ

bút. Ông muốn ông chủ bút sáng tác 15 truyện ngắn để đăng trong số báo này.

Ông chủ bút là người không biết viết văn nhưng lại giỏi về “môn đùa nhả”.

Đến ngày giao bài, ông đem đến cho ông chủ nhiệm một truyện ngắn có tên là

15 truyện ngắn. Lúc đó ông chủ nhiệm “như hóa điên”, nhưng ông vẫn phải

cho in. Thế là số báo Tết vẫn có 15 truyện ngắn như đã quảng cáo. Số báo

này “bán chạy như tôm tươi” bởi người đọc rất “hài lòng vì số báo ấy cho họ

có giấy gói hàng, nên họ cũng chẳng buồn giở báo ra đọc văn” [42, 97]. Câu

chuyện kết thúc với sự việc ông chủ nhiệm vui vẻ đến nhà in lãnh tiền hoa

hồng. Với hình thức trình bày vấn đề đơn giản nhưng khéo léo và có phần hài

hước, tác giả đã nêu lên được một thực trạng: giá trị văn chương – giá trị tinh

thần đã bị coi rẽ trong một xã hội thực dụng.

Cô bé hái dâu, Bó lan trắng, Người mua hoa,… là những câu chuyện

tình được kể theo trình tự mở đầu – diễn biến – kết thúc. Những câu chuyện

này thường rất ít sự kiện; sự kiện chỉ đóng vai trò làm nền cho việc biểu lộ

cảm xúc của người kể. Cho nên, diễn biến của câu chuyện cũng chính là diễn

biến của tâm trạng, tình cảm: yêu thầm - mơ mộng – buồn khổ, nuối tiếc. Với

Lưu Trọng Lư, đó gần như là một quy luật tình yêu không thể khác được.

Những truyện ngắn có kết cấu tuyến tính của Lưu Trọng Lư thường có

một điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn tác giả hoặc là điểm nhìn nhân vật.

Nói đến điểm nhìn tác giả là nói đến sự trần thuật từ cái nhìn của người

đứng quan sát ở một vị trí nào đó, gần như không tham gia vào cốt truyện.

83

Các truyện ngắn Anh Neo, 15 truyện ngắn, Con chim số lồng, Ly Tao tuyệt

vọng, Bó lan trắng, Người mua hoa,… có điểm nhìn như vậy. Tuy nhiên, ở

Anh Neo và 15 truyện, tác giả như quan tâm nhiều hơn đến việc miêu tả, phản

ánh những sự kiện bên ngoài nên câu chuyện có tính khách quan rất cao.

Trong khi ở Ly Tao tuyệt vọng, Bó lan trắng, tác giả lại hướng nhiều hơn vào

miêu tả tâm trạng, cảm xúc nhân vật cho nên câu chuyện giàu sắc thái trữ

tình.

Một số truyện ngắn viết về tình yêu như Cô bé hái dâu, Em hãy còn

thơ,… có điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn nhân vật. Việc nhân vật tự kể lại

câu chuyện tình của mình đã chất trữ tình bộc lộ trong những truyện ngắn này

thường rất đậm đà.

Cách mở đầu các truyện ngắn có kết cấu tuyến tính của Lưu Trọng Lư

khá tự nhiên, linh hoạt. Trong đó, nhiều truyện ngắn được mở đầu bằng cụm

từ chỉ thời gian quá khứ: “Kỳ nghỉ hè năm nọ” (Cô bé hái dâu), “Năm ấy”

(Con sáo), “Hôm ấy” (Sầm Sơn vui thú biết bao), “Thuở ấy” (Em hãy còn

thơ), “Một buổi sáng” (Bó lan trắng),… Đây là lối vào chuyện truyền thống,

khá giống với kiểu “ngày xửa ngày xưa” trong cổ tích. Với cách vào chuyện

này, tác giả đã dễ dàng đưa dắt người đọc cùng với mình đi vào thế giới của

hồi niệm để cùng chứng kiến và cảm xúc trước những sự việc. Tuy nhiên, một

số truyện ngắn lại bắt đầu từ một thời điểm hiện tại, hoặc từ một tình huống

đang diễn ra:

- “Hôm nay Liễu dậy sớm hơn mọi ngày, vì là ngày 30, nàng đoán chắc

rằng sẽ có khách đến mua hoa sớm” [42, 92].

- “Sau khi giật mình vì những tiếng rao cá ông Táo ngoài phố, ông chủ

nhiệm cái tờ nhật báo chạy nhất nước Nam ấy liền sang phòng giấy ông chủ

bút đặt tay xuống bàn thật mạnh ra vẻ đắc thắng mà rằng: “Phải làm chơi một

số báo Tết chứ, anh em” [42, 96].

84

So với lối kể chuyện truyền thống thường kéo lùi thời gian vào quá khứ,

thì việc hiện tại hóa lời trần thuật mở đầu tác phẩm như trên là sự nét mới

trong nghệ thuật kể chuyện. Cách mở đầu này xuất hiện rất nhiều trong truyện

ngắn của Nam Cao.

- “Hắn vừa đi vừa chửi” [6, 16].

- “Lão Hạc thổi cái nồi rơm châm đóm” [6, 340].

- “Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy” [6, 315].

- “Hắn hút điếu này là điếu thứ ba” [6, 120].

- “Bây giờ thì hắn đã trở thành mõ hẳn rồi” [6, 295].

Việc trần thuật ở thời gian hiện tại tạo cảm giác về cái đang diễn ra cùng

sự tham gia của người đọc vào những cảnh đời trong tác phẩm. Với Nam Cao,

điều này càng trở nên sâu sắc hơn khi tác phẩm của ông là những chi tiết của

cái thường ngày, gần gũi với mỗi người, ai cũng như thấy mình trong đó. Vì

thế, những độc thoại, đối thoại nội tâm đã đặt người đọc vào tâm thế đồng

thời với chuyện người, chuyện đời trong tác phẩm. Nói cách khác, lối mở đầu

này là biểu hiện của kết cấu mở trong truyện ngắn của ông. Còn với Lưu

Trọng Lư, so với cách dẫn dắt câu chuyện từ xa đã trở nên quen thuộc, cách

mở đầu trực tiếp, đi thẳng vào sự việc này đã tạo ít nhiều tạo được ấn tượng,

khiến người đọc không nhàm chán khi đọc truyện ngắn của ông.

Lưu Trọng Lư cũng mở đầu truyện ngắn bằng cách miêu tả không gian.

Trong Chiêm Thành, khung cảnh “xáo trộn lớn” ở xóm Cảo Đa được miêu tả

ở đầu tác phẩm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian sử thi nhuốm

đầy bi thương. Cách mở đầu này rất phù hợp với tính chất của một câu

chuyện dã sử, đồng thời đã tạo được một ấn tượng mạnh cho người đọc.

Một số truyện ngắn của Lưu Trọng Lư còn được mở đầu bằng việc giới

thiệu trực tiếp nhân vật. Chẳng hạn như trong Ly Tao tuyệt vọng: “Nhà Nho

Phan Chí Y đã học hết sách thánh hiền. Nhưng không phải bao giờ thánh hiền

85

cũng làm cho đồ đệ của mình đắc dụng với đời. Một bầu máu nóng hăm hở

mang ra giúp đời, mà rồi sự nghiệp không thành đành tiu nghỉu lui về với cỏ

cây non nước. Một tấm lòng băng tuyết đèo thêm một mảnh hồn thơ – nhà

nho cũng là thi sỹ - tháng ngày Phan sinh chơi trên dòng Linh Giang (…)”

[42, 39]. Hay trong Cái vò sữa của cô Perette: “Ông Phán của tôi làm ở Sở

Phi-năng… Hàm ông thì đã đến Hàn lâm đãi chiếu mà lương ông thì đã ngót

trăm bạc. Ông Phán của tôi ước cái gì là được nấy, và cuộc đời đối với ông là

một cái nhà mà ông đã giữ được hết tất cả những chìa khóa. Cái nhà ấy, ông

muốn bước vào buồng nào cũng được: ông đã bước vào buồng giàu sang, ông

đã bước vào buồng quyền quý, ông đã bước vào buồng quyền quý, ông đã

bước vào buồng… con cái, ông đã bước vào buồng… ả phù dung; nhưng chỉ

trừ có một cái buồng mà không làm thế nào ông Phán của tôi có thể bước vào

được, hễ mỗi khi ông thập thò ở ngoài cửa là bị tống cổ ra ngay. Cái buồng ấy

là… buồng có hầu non” [42, 114]. Chỉ vài nét khái quát nhưng tác giả đã giới

thiệu được những nét cơ bản về nhân vật. Đây là bước chuẩn bị sơ khởi cho

người đọc tiếp cận với nhân vật ở phần nội dung phía sau.

Bên cạnh cách mở đầu, cách kết thúc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư

cũng khá đa dạng. Đa số truyện ngắn có kết cấu tuyến tính của Lưu Trọng Lư

có cách kết thúc quen thuộc, tức điểm cuối của trần thuật trùng với điểm cuối

của cốt truyện. Chẳng hạn như ở Con chim sổ lồng, câu chuyện về thằng bé

Cạc được kể theo trình tự thời gian, bắt đầu từ lúc nó sống cùng bố và dì cho

tới lúc nó bỏ nhà ra đi và kết thúc là lúc nó trở về nhà. Như vậy, kết thúc câu

chuyện cũng chính là kết thúc quá trình “sổ lồng” của thằng bé. Trong các

truyện ngắn Ly Tao tuyệt vọng, Người mua hoa, Bó lan trắng, cái kết thường

nói về sự tan vỡ của các mối tình hư ảo, mơ mộng… Khi theo dõi diễn biến

sự việc, người đọc hoàn toàn có thể dự đoán được cách kết thúc này của tác

giả.

86

Bên cạnh đó, ở một số truyện ngắn, tác giả có cách kết thúc theo hướng

mở, tức câu chuyện đã kết thúc song người đọc có cảm giác như sự việc vẫn

còn tiếp diễn. Chẳng hạn, kết thúc Anh Neo, tác giả viết: “Cũng là tốt phước

cho thằng Cu lắm, nhưng ngày mai, tiền sưu, tiền ích… ngày mai thằng Xeo

vẫn cứ đến…” [42, 62]. Cái kết này buộc người đọc phải tiếp tục suy nghĩ về

“ngày mai” của nhân vật. Đó là một ngày mai còn khốn khổ và bi thảm hơn

hiện tại. Điều đó làm cho người đọc càng thêm trăn trở và thương xót cho

hoàn cảnh và số phận những người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Cuộc đời

họ như là một cái vòng đời lẩn quẩn không thể tìm ra lối thoát.

Cái kết của truyện ngắn Cái chết hiếu danh cũng là cái kết mở. Truyện

ngắn này có kết cấu tuyến tính khá đơn giản. Chuyện kể vể một cô gái chưa

chồng mà đã có mang. Cô quyết tâm tìm đến cái chết để tránh điều tiếng của

thiên hạ và để trả thù người tình phụ bạc. Sau khi viết một lá thư tuyệt mệnh

để gửi cho các nhà báo, cô rời khỏi nhà để đi đến Hồ Tây tự vẫn. Trên đường

đi, cô đã gửi lá thư đó ở một bưu điện. Khi đến Hồ Tây, cô lại không dám

nhảy xuống. Cô tiếp tục bắt xe đi lòng vòng, rồi về tới nhà hồi nào không hay.

Thế là cô bước vào nhà, ý định tự vẫn đã bất thành. Đoạn kết tác phẩm, tác

giả viết: “Mẹ cô đã yên giấc, nhưng trong phòng cái gì hình như cũng còn

thức mà đợi cô. Cô bước vào, mọi vật từ tấm gương cho đến ngọn đèn con

đều bĩu môi cười mỉa mai cô một cách chua chát. Duy chỉ có chồng báo,

chồng H.N. nhật báo ở trên bàn thì lại hớn hở vui cười:

- Ngày mai chúng em sẽ trân trọng đăng cái tin của chị vào trang nhất.

- Nhưng chị chưa chết mà!

- Chưa chết lại càng thêm lí thú, câu chuyện càng thêm li kì” [42, 69].

Cái kết này buộc người đọc phải phát huy tính sáng tạo và sự tưởng

tượng của mình để hình dung và suy đoán những hệ lụy sẽ xảy đến với cô gái

87

khi lá thư tuyệt mệnh của cô được đăng báo. Từ đó thấy rõ hơn sắc thái châm

biếm ẩn trong tiếng cười hài hước của tác giả.

Như vậy, với cách kết thúc mở, người đọc vẫn chưa dừng lại được

trước những vấn đề mà tác giả đặt ra dù tác phẩm đã chấm hết. Cách kết thúc

này gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ và cảm xúc hơn trước hiện thực cuộc

sống, trước nhân tình thế thái.

Truyện ngắn Con sáo, Khỏi truông kết thúc khá bất ngờ. Hai câu

chuyện đều bắt đầu bằng sự hồi tưởng của nhân vật “tôi”. Ở Con sáo, nhân

vật tôi kể lại một sự việc mà mình đã chứng kiến khi đi trên một chuyến tàu

về quê thăm một người bạn. Đó là việc một ông lão la khóc trong đau đớn vì

con sáo của ông đột ngột bay mất không trở về. Còn trong Khỏi truông, nhân

vật tôi kể lại việc gặp lại một người bạn gái đã nhiều năm xa cách. Trong hơn

3/4 tác phẩm, người đọc hoàn toàn không thấy sự hiện diện của nhân vật

người nghe chuyện. Thế nhưng, đến đoạn kết tác phẩm, nhân vật người nghe

chuyện đột ngột xuất hiện:

- “Chiếc tàu ấy là đời người. Lão mù ấy là tất cả người ta trên cõi thế.

Con chim sáo ấy là tất cả những gì đẹp đẽ, trẻ trung, béo bở của người ta, mỗi

phút cứ mất đi, mà không sao tìm lại được.

Hương Tâm! Sao em lại nay sầu mai tủi về nỗi… hoa tàn, nhụy rữa”

(Con sáo) [42, 87].

- “Bạn tôi kể đến đây, gạt tàn thuốc, im lặng một lúc, rồi lại tiếp:

Anh nghĩ giá trong cơn nhanh chóng điên cuồng ấy, mà chiếc xe chúng

tôi đã đâm xuống hố (…) Dầu chồng nàng không hay biết gì chuyện đó,

nhưng số phận đã định rằng nàng từ đấy sẽ là người đau khổ đến trọn đời”

(Khỏi truông) [42, 142].

Đọc đến đây người đọc mới nhận ra toàn bộ câu chuyện được kể là nội

dung của cuộc đối thoại giữa người kể chuyện với người nghe chuyện – ngôi

88

thứ hai - tưởng như không có trong truyện. Dưới hình thức đối thoại, người

kể đã dễ dàng nói lên suy nghiệm của mình về đời người (Con sáo), về tình

yêu (Khỏi truông). Những suy gẫm đó chính là chủ đề tác phẩm. Như vậy,

chủ đề tác phẩm đã được phát biểu trực tiếp trong khi người đọc vẫn không có

cảm giác bị áp đặt, miễn cưỡng.

Tóm lại, kết cấu tuyến tính là kiểu kết cấu thường gặp nhất trong truyện

ngắn Lưu Trọng Lư. Với kết cấu tuyến tính, câu chuyện thường dễ đọc, dễ

hiểu. Tuy nhiên, ngay cả khi tưởng như cùng tuân thủ một kiểu cấu trúc, tác

giả lại có biến đổi trong việc tổ chức điểm nhìn trần thuật, cách mở đầu, kết

thúc tác phẩm, khiến các truyện ngắn có màu sắc khác biệt, bớt đi sự rập

khuông, khô cứng, nhàm chán.

3.3.2. Kết cấu phi tuyến tính

Kết cấu phi tuyến tính cũng là kiểu kết cấu thường gặp trong truyện

ngắn của Lưu Trọng Lư. Đây là kiểu kết cấu mà việc trần thuật không tuân

theo trình tự thời gian thông thường. Có thể kể ra một số truyện có kiểu kết

cấu này như Người sơn nhân, Cái đời hát xẩm, Con vú em, Chiếc áo rét, Một

lần tôi đi qua, Tình trong giây lát, Thi sỹ, Nàng Vân may áo cho chồng.

Trong phần lớn truyện ngắn có kết cấu phi tuyến tính của Lưu Trọng

Lư, câu chuyện được kể theo trình tự đảo ngược: bắt đầu từ một thời điểm

hiện tại rồi quay trở về quá khứ bằng sự hồi tưởng. Ví dụ như truyện ngắn

Con vú em, Cái đời hát xẩm, Chiếc áo rét, Nàng Vân may áo cho chồng,...

Truyện ngắn Con vú em mở đầu bằng cảnh nhân vật “tôi” đang “ngồi hí

hoáy với ba tờ giấy lộn, vò đầu bức trán để viết một cái đoản thiên” [42, 75]

thì có một người bạn tên Bảo đến chơi. Trong lúc trò chuyện, nhân vật Bảo

hồi tưởng và kể lại chuyện con vú em của nhà mình. Câu chuyện này diễn ra

trước đó khoảng 6 – 7 tháng.

89

Truyện ngắn Cái đời hát xẩm cũng mở đầu bằng cảnh gặp gỡ: một thợ

săn từ phương xa ghé thăm ngôi nhà của người hát xẩm nằm biệt lập giữa một

khoảng rừng rậm rạp, hoang vắng. Sau những lời thăm hỏi nhau, người hát

xẩm bắt đầu kể lại cuộc đời của mình - từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi trở

thành người hát xẩm, rồi lấy vợ và cùng người vợ trốn chạy đến nơi ở hiện

tại, sau đó người vợ qua đời, người hát xẩm sống đơn độc .

Mở đầu truyện ngắn Chiếc áo rét là những lời bộc bạch đầy buồn bã,

luyến tiếc của nhân vật “tôi” khi tình yêu đã tan vỡ. Rồi theo dòng kí ức của

“tôi”, câu chuyện tình yêu thầm kín, đầy mơ mộng được kể lại, bắt đầu từ

những lần “tôi” nhìn trộm” cô gái đan áo rét.

Câu chuyện trong Nàng Vân may áo chồng cũng được kể theo trình tự

hiện tại – quá khứ. Tuy nhiên, ở đây tác giả không sử dụng hình thức hồi

tưởng để kể chuyện mà dung hình thức thư tín. Truyện bắt đầu từ sự việc

người kể chuyện đến thăm nhân vật Bình ở bệnh viện. Lúc đó, Bình đã như

“người mất hẳn thần xác”, tâm trí chàng nửa tỉnh nửa mê, ngồi một mình mà

chàng cứ tưởng Vân đang tới thăm và trò chuyện với mình. Ba hôm sau thì

Bình mất. Bình để lại một tập di bút bỏ ở trong một hộp giấy. Người kể

chuyện mở hộp giấy ra xem thì thấy có những mẫu giấy viết bằng viết chì, đó

là những dòng nhật kí của Vân. Những trang nhật kí đã ghi lại những sự việc

diễn ra trước đó: Biết Bình bệnh, Vân tới thăm. Trở về nhà, nàng đan một

chiếc áo rét cho Bình, nhưng khi chồng nàng hỏi thì nàng bảo đan cho chồng.

Rồi nàng nhuốm bệnh. Mỗi ngày bệnh càng thêm trầm trọng. Chiếc áo rét

chưa kịp hoàn thành thì Vân đã mất. Dòng nhật kí cuối cùng của nàng là lời

từ biệt Bình: “Anh tiễn em một đoạn thôi nhé. Em không muốn anh đi nhiều.

Gió lạnh về ho thêm” [42, 102]. Bằng hình thức nhật kí, câu chuyện tình

ngang trái được kể một cách đầy cảm xúc, gây xúc động cho người đọc. Qua

90

đó, tiếng nói tố cáo lễ giáo phong kiến là nguyên nhân dẫn đến cái kết bi thảm

trong câu chuyện cũng được thể hiện kín đáo.

Trong hai truyện ngắn có kết cấu phi tuyến tính là Một lần tôi đi qua và

Người sơn nhân, câu chuyện được kể lại theo trình tự hiện tại – quá khứ -

hiện tại.

Truyện Một lần tôi đi qua mở đầu bằng một tình huống đang diễn ra:

“Bạn tôi hút xong điếu thuốc lá, nói tiếp” [42, 116]. Tiếp đến là những dòng

hồi tưởng của nhân vật này về một mối tình đã qua của mình. Dòng hồi tưởng

kết thúc cũng là lúc nhân vật trở về với thực tại: “Một ngọn gió ngoài vườn

đưa vào, đánh ập cánh cửa sổ một cái thật mạnh, bạn tôi cầm mũ đi ra khỏi

phòng của tôi, như đi ra khỏi một giấc mộng” [42, 121].

Mở đầu truyện ngắn Người sơn nhân là cảnh đoàn thám hiểm gặp gỡ

người sơn nhân ở vùng núi Giăng Màn kì vĩ, cổ sơ. Người sơn nhân là ai, tại

sao ông ta lại ở nơi này? Câu trả lời nằm ở phần tiếp theo của truyện ngắn.

Qua lời kể của người sơn nhân, quá khứ của ông ta được mở ra. Nhưng đến

đoạn kết, câu chuyện lại trở về thời điểm ở đầu truyện với hình ảnh khép nép

sợ sệt của đoàn thám hiểm trước vũ trụ rộng lớn và nụ cười “bạn nghịch với

hòa bình vũ trụ” của người sơn nhân [42, 34].

Ở cả hai truyện ngắn, tác giả đều sử dụng hình thức hồi tưởng để kể lại

phần chính yếu câu chuyện. Tuy nhiên, ở Một lần tôi đi qua, dòng hồi tưởng

diễn ra liên tục hòa cùng với dòng cảm xúc tuôn tràn của nhân vật. Nhờ vậy là

cái tôi trữ tình của người kể được bộc lộ rất rõ. Đó là vấn đề chủ yếu mà tác

giả muốn thể hiện trong những truyện ngắn viết về tình yêu. Còn ở Người sơn

nhân, những lời kể của người sơn nhân luôn được đặt xen kẽ với những lời

đối thoại với ông cố đạo. Qua đó, sự đối lập trong thái độ, tư tưởng của hai

nhân vật được thể hiện rất rõ, nhất là ở đoạn kết tác phẩm. Điều này góp phần

thể hiện rõ tiếng nói khao khát tự do, tiếng nói phản kháng mà tác giả gửi gắm

91

thông qua hình tượng người sơn nhân. Đây cũng là chủ đề tư tưởng của tác

phẩm.

Về việc tổ chức điểm nhìn trần thuật, những truyện ngắn có kết cấu phi

tuyến tính của Lưu Trọng Lư thường có sự di động điểm nhìn, từ điểm nhìn

tác giả chuyển sang điểm nhìn nhân vật, từ điểm nhìn của nhân vật này sang

điểm nhìn của nhân vật khác.

Truyện ngắn Chân ái tình mở đầu bằng điểm nhìn trần thuật của tác giả:

“Mưa phùn! Gió bấc lạnh buốt tủy xương. Bao nhiêu sức hoạt động của loài

người đều giam hãm lại bên ngọn lửa than, thế mà chiều hôm ấy, trên văn

Miếu quạnh hiu lại thấy thướt tha cái bóng một người thanh niên buồn rầu,

mệt nhọc, như cố tìm lại mà chẳng thấy một cái gì đã mất đi (…)” [42, 48].

Sau đó câu chuyện được trần thuật với điểm nhìn của nhân vật. Đầu tiên là

nhân vật Vân Bình - chàng thanh niên xuất hiện qua lời giới thiệu ở đầu tác

phẩm: “Từ ngày chàng chưa biết gì mà chàng đã phải lòng một cô gái đẹp ở

Hà Thành. Cái ái tình của hai người chỉ là cái ái tình của Ngưu Lang với

Chức Nữ, suốt năm xa nhau nhớ nhau đặng có một ngày gặp nhau. Nhưng đã

hai lần rồi, chàng không thấy Chức Nữ của chàng đâu nữa. Vì thế mà chàng

đau đớn ê chề, nhưng chàng vẫn không ngã lòng” [42, 49]. Kế đến, điểm nhìn

di chuyển sang nhân vật thứ hai - người thanh niên cũng đến Văn Miếu như

Vân Bình: “Bây giờ tôi đã hiểu ông lắm rồi. Tôi không muốn trách ông sao

ông lại bảo này là cảnh đìu hiu quạnh quẽ, là cái cảnh chết… Tôi chỉ tiếc sao

ông với tôi hình như cũng bởi một cái nguyên do xui khiến tới đây mà ông

với tôi lại có chỗ khác nhau. Ông về đây là để tìm lại dấu vết của một thứ ái

tình ngắn ngủi cây đắng mà vô vị. Còn tôi về đây lại mang theo một cái hình

ảnh xinh xắn tươi cười mà linh động, cái hình ảnh mĩ nhân mà tôi đã thấy một

lần” [42, 49-50]. Việc tác giả trao điểm nhìn trần thuật cho cả hai nhân vật

trong câu chuyện là để hai nhân vật tự bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về tình yêu.

92

Với Vân Bình, tình yêu là đau khổ; còn với người thanh niên kia, tình yêu lại

là hạnh phúc dù chỉ tình yêu trong mơ mộng. Như vậy, Lưu Trọng Lư đã

không phát biểu trực tiếp quan niệm về “chân ái tình” của mình mà phát biểu

thông qua lăng kính của các nhân vật. Nhờ đó, cái triết lí về tình yêu của ông

có thêm sức thuyết phục bởi nó đã được đút kết từ chính sự chiêm nghiệm,

từng trải, từ chính cảm xúc của người trong cuộc.

Trong truyện ngắn Thi sỹ, điểm nhìn trần thuật có sự di chuyển từ người

kể chuyện – nhân vật tôi sang nhân vật thi sỹ và ngược lại. Khi nhập thân vào

nhân vật thi sỹ, tác giả đã nói lên được những lí tưởng cao đẹp của một người

nhà thơ chân chính: “ Tiền tài – một vấn đề khốn nạn với kẻ làm thơ (…) Bỉ

nhân thấy hạnh phúc của bỉ nhân khi tạo tác ra được một câu thơ, thế cũng đủ

làm cho bỉ nhân vui thích, cần gì nó cũng phải có một cái giá tiền như cái

bánh trung thu” [42, 84]. Khi đóng vai một nhân chứng kể chuyện, tác giả lại

bày tỏ được sự thấu hiểu, thương cảm, xót xa trước cuộc sống thiếu thốn của

những người nghệ sĩ: “Tôi thì tôi thấy có một ngòi bút sắt đâm ngang qua quả

tim tôi” [42, 85]. Ở đây, sự di động của điểm nhìn trần thuật đã làm cho

khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật được rút ngắn lại. Khi theo dõi

câu chuyện, người đọc cũng sẽ có được cái nhìn đa chiều hơn về vấn đề đặt ra

trong tác phẩm, do đó khoảng cách giữa người đọc với tác phẩm cũng được

rút ngắn lại.

Trong truyện ngắn Người sơn nhân, ngay từ đầu là điểm nhìn của tác

giả. Điểm nhìn tác giả dẫn người đọc vào một không gian đầy bí hiểm với sự

xuất hiện của những nhân vật cũng bí hiểm không kém, tạo cảm giác lạ lẫm

cho người đọc. Tiếp đó, với điểm nhìn trần thuật là điểm nhìn của nhân vật

người sơn nhân, nội dung câu chuyện được mở rộng với một khoảng không

gian, thời gian và những sự kiện khác, ở đó “cái lịch sử hiển hách” cùng với

“cái chí khí anh hùng” của nhân vật này được tô đậm.

93

Như vậy, với điểm nhìn trần thuật di động, Lưu Trọng Lư đã đem đến

cho người đọc cái nhìn đa chiều về thế giới tâm hồn của con người và về

những vấn đề của hiện thực cuộc sống. Nó góp phần tạo nên hiệu quả nghệ

thuật cho một số truyện ngắn của ông.

Về cách mở đầu và cách kết thúc truyện, nhiều truyện ngắn phi tuyến

tính của Lưu Trọng Lư có lối mở đầu và kết thúc giống như ở truyện ngắn

tuyến tính của ông. Chỉ có một hai trường hợp có chút khác biệt. Chẳng hạn

như Chiếc áo rét và Tình trong giây lát. Chiếc áo rét thì mở đầu bằng những

dòng thơ:

“Một hôm ta đứng trên hồ Kiếm

Bên ta rộn rịp biết bao người

Mà ta chỉ thấy người hôm ấy

In giữa không gian một nụ cười (…)” [42, 88].

Trong khi Tình trong giây lát có đoạn kết như là một lời trữ tình ngoại

đề: “Anh giáo Nguyễn! Anh tha lỗi cho tôi đã đưa cái tình thiêng liêng của

anh ra mà mua vui cho độc giả… Cái chuyện tình làm cho anh ngớ ngẩn và

bang khuâng, nhiều khi đau đớn nữa, có lẽ có người đọc tới chỉ xem như một

tấn tuồng buồn cười đến khuây họ, trong lúc họ giận vợ con, hay là thua bài

thua bạc” [42, 114].

Tình cảm, cảm xúc, thái độ của người kể chuyện đã được bộc lộ trực

tiếp trong những câu thơ và những dòng trữ tình ngoại đề này. Điều đó góp

phần làm gia tăng sức biểu cảm cho tác phẩm, đồng thời cũng gợi cho người

đọc nhiều suy nghĩ, cảm xúc về câu chuyện.

Tóm lại, việc tổ chức tác phẩm theo kết cấu phi tuyến tính đã cho thấy

sự nổ lực nhằm đa dạng hóa lối viết truyện của Lưu Trọng Lư. Ở một số

truyện ngắn, kiểu kết cấu này đã tạo ra được những hiệu quả thẩm mĩ nhất

định, góp phần chuyển tải thành công chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng

94

hạn như Người sơn nhân, Thi sỹ. Nhưng ở một số truyện ngắn như Cái đời

hát xẩm, Con vú em, lối kết cấu này dường như chưa phát huy được hiệu quả,

nó làm tác phẩm trở nên dàn trải, lỏng lẻo.

3.4. Ngôn từ nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là một chuỗi ngôn từ được

lựa chọn và tổ chức theo một kí mã thẩm mĩ nhất định của mỗi cá nhân nghệ

sĩ. Nó là phương tiện để nhà văn tạo nên những bức tranh sinh động về con

người và cuộc sống, đồng thời biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình.

Lưu Trọng Lư là một nhà thơ viết truyện ngắn nên nhiều truyện ngắn

của ông giống như những bài thơ triền miên cảm xúc. Ở đó, chúng ta bắt gặp

một thứ ngôn từ rất giàu sắc thái biểu cảm, “một ngôn từ thường trực khả

năng “lên cơn sốt” cảm xúc với những con sóng tràn bờ” [27, 22].

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta thấy tác giả thường sử

dụng các từ láy để diễn đạt những trạng thái cảm xúc của nhân vật. Ly Tao

tuyệt vọng là một ví dụ:

- “Một bầu máu nóng hăm hở ra giúp đời, mà rồi sự nghiệp không

thành, đành tiu nghỉu về với cỏ cây non nước”.

- “Cái cuộc đời tuy thanh nhàn thích thảng, nhưng cũng có lúc nhạt

phèo vô vị”

- “(…) lại thường để lộ ra mình là người chán nản, ê chề… thất vọng”.

- “(…) những ngày lạnh lẽo đìu hiu”.

- “Mặt trăng – cái mặt trăng mùa đông, nặng nề ủ rũ”.

- “(…) một khúc hát du dương, càng nghe càng thấm thía, càng nghe

càng thâm trầm”.

- “(…) những cái thanh âm réo rắt như còn theo văng vẳng bên tai, làm

cho nhà thơ nghe mà não nuột”

- “Tuy nghe có thích thú nhẹ nhàng mà vẫn cảm thấy ghê sợ lạ lùng”

95

- “(…) như có cái gì đến làm cho nhà nho nghĩ ngợi, bâng khuâng,

vướng vít”.

- “(…) chàng ngồi đã rũ rượi”.

- “Phan sinh cứ ngồi mê mẩn”.

- “Chàng sẽ lẳng lặng cúi đầu”.

Từ láy là loại từ thuần Việt có khả năng gợi hình, gợi thanh và khả

năng biểu cảm rất cao. Khả năng biểu đạt tuyệt vời của loại từ này đã được

Lưu Trọng Lư phát huy hiệu quả trong tác phẩm. Chúng không chỉ giúp nhà

văn thể hiện chính xác, tinh tế những cảm giác, cảm xúc của nhân vật mà còn

tạo ra âm điệu cho câu văn. Chẳng hạn như trong câu văn sau: “Ấy là tiếng

rền rĩ của một vùng không gian lạnh lẽo tái tê, hay là tiếng vỡ lở của một con

tim âu sầu ủ rũ”. Câu văn ngắn gọn nhưng có tới sáu từ láy với đầy đủ giá trị

biểu đạt: vừa gợi được âm thanh (rền rĩ), vừa gợi được hình ảnh (ủ rũ) đặc

biệt gợi được rất nhiều cảm giác, cảm xúc (lạnh lẽo, tái tê, âu sầu). Chúng còn

đem đến cho câu văn một âm điệu trầm bỗng nhịp nhàng, cân đối, hài hòa. Nó

là minh chứng cho việc sử dụng tài tình từ láy của Lưu Trọng Lư.

Hiệu quả biểu cảm to lớn mà các từ láy mang lại cũng được tìm thấy

trong Cô bé hái dâu. Trong truyện ngắn này, tác giả đã sử dụng một lớp từ láy

đa dạng, phong phú để phô diễn các cung bậc cảm xúc của nhân vật: ngậm

ngùi, não nùng, thơ thẩn, bâng khuâng, mơ mộng, mơ màng, hớn hở, tiu

nghỉu, dịu dàng, êm ái, thảnh thư, nhẹ nhàng, bồi hồi, say sưa, man mác, bối

rối,… Tất cả góp phần dệt nên một bầu cảm xúc bao phủ, lan tỏa khắp câu

chuyện.

Kim Lân là nhà văn có biệt tài sử dụng từ láy. Những từ láy được ông

sử dụng khéo léo đã tạo được hiểu quả thẩm mỹ to lớn cho những trang viết

của mình. Chẳng hạn như trong Vợ nhặt:

96

- “Một buổi chiều người trong xóm thấy Tràng về cùng một người đàn

bà nữa. Mắt hắn có gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình

và hai con mắt thì sáng lấp lánh. Hắn cứ lúng túng tay nọ xoa xoa tay vào vai

kia đi bên người đàn bà… Lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với

người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn

ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng”.

- “Ngoài đầu ngõ có người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre

lọng khọng đi vào… Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp

hỏi:

- Có việc gì thế?

Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão

đứng sững lại, bà lão càng phấp phỏng hơn” [37, 202-208].

Ở đây, Kim Lân đã thành công trong việc sử dụng các từ láy để vừa có

thể gợi tả dáng vẻ vừa có thể bộc lộ rõ các nét tâm trạng, tình cảm của nhân

vật. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy trong số các từ láy Kim Lân sử dụng,

những từ láy có chức năng gợi hình có số lượng nhiều hơn các từ láy có chức

năng gợi cảm. Chính khả năng tạo hình của các từ láy giúp cho diện mạo

nhân vật trở nên rõ ràng hơn, tính cách đầy đặn hơn.

Lưu Trọng Lư thì ngược lại. Ông thường sử dụng các từ láy có chức

năng gợi cảm nhiều hơn các từ láy có chức năng gợi hình. Điều này phù hợp

với thiên hướng tập trung đi sâu miêu tả cảm giác, phô diễn nội tâm của ông.

Vì vậy, nhân vật của ông thường là nhân vật trữ tình. Những cảm giác, cảm

xúc bên trong nhân vật thường được miêu tả, thể hiện trực tiếp. Chẳng hạn:

- “Tôi thấy lòng tôi được mơn trớn bởi một mối tình thoảng qua, xa xôi

và vô cùng êm dịu… Cái phút sung sướng nhất mà tôi được hưởng từ khi

quen nàng. Rồi từ đấy, hễ mỗi khi nàng đưa chỉ ra đan, thì ở trên lầu cao, tôi

lại đứng lặng nhìn, say sưa, sung sướng” [42,88].

97

- “Mùi hương nồng ngát, lan tỏa khắp phòng, chàng thấy ngây ngất,

say sưa” [42, 91].

- “Tâm hồn tôi tiu nghỉu, buốn rầu nặng nề” [42, 43].

Như vậy, từ láy thường được Lưu Trọng Lư sử dụng để thể hiện những

trạng thái tâm hồn của nhân vật. Với khả năng biểu cảm cao, những từ láy này

đã góp phần làm tăng tính trữ tình cho tác phẩm.

Lưu Trọng Lư còn dùng hình thức so sánh để diễn tả cụ thể, sinh động

những cảm giác, cảm xúc của nhân vật. Tìm hiểu các hình ảnh so sánh của

Lưu Trọng Lư, chúng ta có thể phân thành hai nhóm:

Thứ nhất, đó là một số hình ảnh so sánh gợi liên tưởng mạnh mẽ, nhằm

biểu hiện tận cùng cảm xúc nhân vật. Ví dụ như :

- “Nghe giọng đàn tiếng hát, Phan sinh như ngây như dại, như uống

một cốc rượu nồng mà thêm một cốc khác, như hút một khói thuốc thơm mà

thêm một khói thuốc khác” [42, 41].

- “Chàng chếch choáng như một người say rượu, những tư tưởng trong

tâm trí chàng cũng nhảy múa” [42, 91].

- “Phan sinh bây giờ đã như một người điên, điên … vì tình” [42, 41].

- “Nàng cười một mình như một người điên” [42, 93].

Thứ hai, đó là mộ số hình ảnh so sánh gợi cảm giác nhẹ nhàng, thi vị.

Chẳng hạn:

- “Thân chàng như toàn bằng những sợi tơ, một cái dư âm cũng có thể

làm rung động cả toàn thể” [42, 41].

- “Tôi đếm từng bước một như đếm các vần thơ” [42, 44]

- “Tôi đi trên một con đường con, theo những rặng tre mà lần bước,

thảnh thư nhẹ nhàng như đạp trên làn mây khói” 42, 45].

- “Nhưng một buổi chiều, tôi đã quên nàng như quên một giấc mộng xa”

[42, 119].

98

- “Tôi không dám tự hỏi tình yêu là gì, mà chỉ nằm lăn như một cánh

hoa lạ trên những đầu cỏ mởn, theo một làn gió dịu” [42, 130].

- “Người đàn bà ấy, đối với tôi thể như một cái hoa bất ngờ ở trong bãi

sa mạc mênh mông” [42, 138].

Các hình ảnh so sánh của Lưu Trọng Lư rất quen thuộc, gần gũi song

tính gợi cảm rất cao. Phải có một tâm hồn vừa nồng nàn cảm xúc vừa nhẹ

nhàng tinh tế, tác giả mới có những so sánh thú vị như vậy.

Đọc truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta có thể bắt gặp trong đó

một lời văn tinh tế, trong sáng và có sức truyền cảm nhẹ nhàng như những

vần thơ:

- “Trước mắt tôi thấy diễn ra một cuộc đời êm đềm thanh thú. Tôi

tưởng tượng thấy một cô bé xinh xắn tươi cười, mỗi buổi chiều đi vào ruộng

dâu, hái những lá dâu xanh. Đêm đến theo điệu bộ nhịp nhàng, nhanh nhẹn,

cô bé thái nhỏ những lá dâu rắc vào những cái nong tằm. (…) Cho được có

hôm nay, ngồi yên một chỗ dưới bóng trăng trong, cô bé quay những sợi tơ

vàng, và mơ tưởng những chuyện xa xôi” [42, 45-46].

- “Hôm ấy giời mưa lơ thơ … Cái vườn hoa của nàng, tôi trông có vẻ

tiều tụy hơn mọi ngày, nhưng những đóa cúc trắng vẫn đậm đà thắm tươi như

cũ. Bỗng tôi nghe trong nhà vọng đưa ra những tiếng dương cầm. Những

tiếng trong trẻo bay qua cửa sổ, và âm thầm tắt ở trong chòm lá xanh. Tôi

ngừng bước nhìn những làn cúc, tôi nhìn thấy những làn cúc tự nhiên rung

động anh ạ! Và tâm hồn tôi lao đao, tôi muốn ngã. Những hạt mưa nhỏ

xuống, ngày càng nặng. Và tôi thấy trong những giọt nước lại cả cái hình ảnh

của cảnh vật xung quanh” [42, 118].

Chất thơ đã tỏa ra từ bức tranh thiên nhiên, từ nét sinh hoạt thường nhật

và từ chính tâm hồn con người đã tạo nên chiều sâu và sức ngân vang cho

những trang viết. Cái âm hưởng trữ tình mượt mà cùng với chất thơ man mác,

99

bàng bạc đã làm cho những trang viết của Lư có sức lay động và truyền cảm

sâu xa. Nó thực sự là một bài thơ văn xuôi với rất nhiều vang hưởng.

Tuy nhiên, tiếp xúc với truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, chúng ta cũng

nhận thấy ngôn từ nghệ thuật của ông còn ít nhiều hạn chế. Ở một số trang

viết, dấu vết của lối văn biền ngẫu, lối so sánh ước lệ hay cách dùng từ khuôn

sáo vẫn tồn tại:

- “Bỗng dưng trong vùng không khí ngưng trệ, vi lô san sát, khóm tre la

đà, một ngọn gió nhẹ đưa, đưa lại một giây âm hưởng, tiếng trầm tiếng bổng,

tiếng chậm tiếng mau. Tiếng mau như đàn chim vỗ cánh bay cao, tiếng chậm

như giọt sương nặng gieo trên tàu lá, tiếng trầm như hòn châu đắm trong bể

thẳm, tiếng lên như mây lỏng cuốn theo ngọn gió nồm…” [42, 40].

- “Em đến đây để dâng ông cái … ái tình hèn mọn và thành kính của em

đối với một cung đàn, một sự đẹp đẽ, một sự thiêng liêng, một sự màu

nhiệm… Em yêu kính ông vì ông là người nửa tiên và nửa tục, làm môi giới

cho hai cõi bồng lai và hồng trần. Lại vì ông làm trong trẻo khí trời, lẹ làng

hơi đất và sáng suốt lòng người” [42, 55].

Đôi lúc chúng ta có cảm giác tác giả dường như không chế được ngòi

bút của mình, ông đã để dòng ngôn từ trôi theo dòng cảm xúc nồng nhiệt của

nhân vật. Cho nên có những trang viết mà ở đó ngôn từ trở nên rối rắm giảm

đi sự trong sáng, linh hoạt, tự nhiên. Chẳng hạn: “Thực ra cái tình yêu ấy chỉ

thoáng qua trong đời tôi mà thôi khi ẩn khi hiện bên lưng tôi, chập chờn như

một cái bóng ma. Nhưng người thiếu nữ đã để lại cho tôi cái bóng dễ sợ ấy,

anh ạ là một người có nét mặt hiền hành, rất có duyên, rất đẹp mà sao tôi

không dám nói ra - Ừ, người đẹp thì đã tôi tình gì? Dầu nàng có làm cho tôi

điêu đứng hơn nghìn lần thế nữa tôi cũng không có quyền nói xấu nàng kia

mà. Có ai đang tâm nói xấu một người đẹp bao giờ? Huống hồ nàng đối với

tôi vẫn không phải là một kẻ thù, dầu vì nàng, có đôi lúc tôi đã khổ não, một

100

cách âm thầm. Nếu ở trên đời có một người làm cho tôi đau khổ mà tôi vẫn

không có uyền oán trách, ấy là nàng vậy. Giá nàng sinh ra là giai nhân, rồi

như một đóa hoa quý, nàng nở rồi tàn ở trên cái bờ song hoang rậm của một

con song cùng tịch, thì ai còn biết tới nàng, đặt hình ảnh nàng vào một chỗ

trong sạch nhất của trái tim. Khốn nỗi, nàng như một ngôi sao, nàng muốn

chói lọi, nàng muốn ánh sáng huyền diệu của nàng, từ trên muôn trùng có

hình bóng ở dưới muôn nghìn dòng sông lạnh” [42, 109].

Tóm lại, đặc điểm nổi bật của ngôn từ trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

là tính gợi cảm và chất thơ bay bổng của nó. Tuy nhiên, ở đó, dấu vết của lối

diễn đạt truyền thống vẫn còn.

3.5. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư

Không gian nghệ thuật là không gian mà người nghệ sĩ cảm nhận, chiếm

lĩnh và thể hiện một cách nghệ thuật trong tác phẩm. Nó góp phần phản ánh

góc nhìn và cách tiếp cận hiện thực cuộc đời của người nghệ sĩ. Tùy theo cảm

quan và năng lực sáng tạo mà người nghệ sĩ sẽ tạo dựng trong tác phẩm của

mình những không gian nghệ thuật với riêng. Đối với các nhà văn hiện thực ở

nước ta trước 1945, không gian nghệ thuật thường được tái hiện giống như

cuộc sống vốn có trong các giềng mối liên hệ nhằng nhịt nhằm thể hiện những

xung đột cơ bản có ý nghĩa thời đại, giai cấp. Tiêu biểu như không gian làng

Vũ Đại trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Làng Vũ Đại được xem là

một hình ảnh chân thực thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.

Ở đó, Nam Cao đã đi sâu miêu tả, phân tích nổi bật các quan hệ xã hội ở một

làng quê trước Cách mạng. Đó là mối mâu thuẫn thường xuyên trong nội bộ

bọn cường hào địa chủ thống trị. Chúng như “một đàn cá tranh mồi”, do đó

luôn rình cơ hội để ‘trị nhau”, “chờ nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ”. Đặc

biệt, mối mâu thuẫn giai cấp đối kháng gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào

101

thống trị với người nông dân lao động bị áp bức bóc lột được tác giả tập trung

thể hiện một cách sâu sắc. Mâu thuẫn đó dẫn đến những bi kịch: người nông

dân bị lưu manh hóa, mất cả nhân hình nhân tính và bị chối bỏ không cho làm

người. Với các nhà văn lãng mạn, khung cảnh nghệ thuật trong truyện ngắn

thường được cảm nhận với một nỗi se ḷòng bởi cái chất đìu hiu, phẳng lặng

đến đơn điệu, mòn mỏi của nó. Khung cảnh ấy ít có cái xô bồ, dữ dội của

những mảng sống bộn bề, gay cấn như trong sáng tác của các nhà văn hiện

thực mà nó thường được phác họa một cách mờ mờ, nhàn nhạt, không chói

gắt, không có những vang động mạnh nhưng gợi bao ám ảnh không thôi về

những cảnh đời ngày đó. Chẳng hạn như không gian trong truyện ngắn Hai

đứa trẻ của Thạch Lam. Đó là khung cảnh một phố huyện nghèo nàn, nhỏ bé,

chìm dần vào bóng tối. Bóng tối mỗi lúc càng trở nên mênh mông, dày đặc,

ánh sáng thì hiếm hoi, đơn độc. Nổi lên trong bức tranh mờ xám, ngập tràn

bóng tối ấy là những con người lặng lẽ như những cái bóng, quẩn quanh, hiu

hắt, tàn lụi, với họ có quá ít hi vọng, niềm vui và hạnh phúc. Hay trong Tỏa

nhị kiều của Xuân Diệu, không gian như đặc sền sệt, như vón cục lại trong nỗi

trì độn, ngái ngủ đến kinh sợ. Cuộc sống của hai cô gái chỉ là những buổi

chiều dài vô vọng nối tiếp nhau. Họ sống vật vờ, ngơ ngác như những kẻ vô

hồn. Cuộc sống của mấy ông giáo trường tư, người học trò tốt, người viên

chức… cũng chỉ là một số chết mòn lặng lẽ. Những ao ước tầm thường, nhỏ

mọn thậm chí cả khi chết đi chỉ mong “trước mặt chúng tôi đừng có một cái

bàn giấy” đã nói lên nỗi chán ngán đến tận cùng cuộc sống tẻ nhạt, nhờ nhờ

kia [8,108].

Không gian nghệ thuật trong các truyện ngắn của Lưu Trọng Lư không

có cái vẻ bộn bề, phức tạp như hiện thực cuộc sống vốn có, cũng không phải

là không gian tràn nỗi buồn và bóng tối, với tất cả sự mòn mỏi, đơn điệu,

khép kín. Hiện lên trong các trang truyện của Lưu Trọng Lư thường là những

102

khung cảnh thiên nhiên thơ mộng hòa quyện với cảm xúc trữ tình của nhân

vật hoặc những không gian hư ảo, kì bí được cảm nhận thông qua lăng kính

lãng mạn của tác giả.

Những khung cảnh thiên nhiên thường gặp trong truyện ngắn của Lưu

Trọng Lư gắn với hai vùng đất mà Lưu Trọng Lư đã từng sinh sống, gắn bó,

đó là Quảng Bình và Hà Nội.

Quảng Bình là quê hương của Lưu Trọng Lư. Trong truyện ngắn Cô bé

hái dâu, một khung cảnh của Quảng Bình – xóm Bích Khang đã được tác giả

mô tả. Chỉ với một vài hình ảnh, chi tiết: một con sông ngắn “mặt nước im

lìm như tấm gương”, “một bãi dâu xanh xa tít” và những đêm trăng “cả vũ trụ

trắng xóa một thứ ánh sáng dịu dàng”, song cái vẻ thơ mộng, yên bình của

một vùng quê đã hiện lên khá rõ nét. Khung cảnh ấy tương hợp với những

khoảnh khắc của tâm trạng nhân vật – một chàng trai đa tình, mơ mộng. Đó là

nỗi buồn trĩu nặng khi tiễn bạn ở bến sông: “con thuyền như bò như lượn,

dùng dằng trước mắt tôi, làm cho cái cảnh biệt li càng thêm dài dặc, càng

thêm não nùng, càng thêm khó chịu” [42, 44]. Kế đến là cảm giác bâng

khuâng xen lẫn tiếc nuối, buồn bã khi bóng dáng người thiếu nữ hái dâu vừa

thoáng hiện rồi mất hút: “theo giọng hát, tôi nhìn bóng người thiếu nữ. Tôi

chưa kịp nhận ra mà tiếng hát đã vội dứt. Tôi muốn rẽ dâu mà vào nhưng đi

được vài bước thì tự nhiên không thể tiến lên được nữa. Ruộng dâu đối với tôi

có cái vẻ một rừng cây ở trong đại ngàn, đương còn bí mật, đương còn y

nguyên. Tôi đứng ngây người ra như có cảm thấy một sự ghê sợ lạ lùng.

Nhưng người thiếu nữ đã cùng với mặt trời mất hút rồi. Tôi đã thấy ở đằng xa

một cái bóng đen lù lù: người thiếu nữ với cái giỏ dâu, nủng nỉnh ở trên một

con đường đi về xóm Bích Khang… Tôi ở lại một mình với quãng đồng vắng

vẻ, lạnh lẽo, đen mờ… Tâm hồn tôi tiu nghỉu, buồn rầu nặng nề” [42, 44]. Và

sau đó là những mơ tưởng miên man, tràn ngập tâm hồn chàng trai vừa chớm

103

yêu: “trước mắt tôi thấy diễn ra một cuộc đời êm đềm thanh thú. Tôi tưởng

tượng một cô bé xinh xắn tươi cười, mỗi buổi chiều đi vào ruộng dâu, hái

những lá dâu xanh. (…) Cho được có hôm nay, ngồi yên một chỗ dưới bóng

trăng trong, cô bé quay những sợi tơ vàng, và mơ tưởng những chuyện xa

xôi” [42, 45-46]. Ở đây, sắc thái nội tâm của nhân vật đã hòa nhập sống động

vào trong những cảnh sắc thiên nhiên; khung cảnh thiên nhiên cũng là hình

bóng của tâm hồn.

Một khung cảnh khác của Quảng Bình cũng được tác giả mô tả trong

truyện ngắn Cái đời hát xẩm. Đó là một nơi trước kia “người ta còn thấy có

dấu tích một cái thành cũ của Chiêm Thành đã đổ ngã, gạch đá đã nhường

chỗ cho cây cổ thụ” [42, 51], sau đó nơi đây trở thành cái rừng con rậm rạp, ít

ai qua lại. Bên trong cái rừng ấy, có một mái nhà nhỏ, một khoảnh vườn rộng

trồng đủ thức rau quả và bông hoa. Đây là không gian sống “thần tiên” của vợ

chồng người hát xẩm. Nơi đó diễn ra “một cuộc đời tinh thần đẹp đẽ”: “ngày

ngày, khi công việc đã xong xuôi, tôi ra ngồi dưới gốc cây đào tiên, nghe

tiếng hoạt động của muôn vật. Tôi biết rằng tạo vật huyền bí và đẹp đẽ vô

cùng… Sống gần tạo vật tức là vui say trong trường mỹ thuật, có cái thú

thanh dật của nhà thi nhân, nhà họa sỹ, cái thú không bao giờ chán” [42, 52].

Ở đó, nhân vật tìm được “sự yên ổn hoàn toàn để vui với nghệ thuật”, “vui

với nhau và vui với tạo vật”: “giọng đàn tiếng sáo như làm thông tin cho hai

thế giới: lòng người và vũ trụ, và giữ được người ta cùng vạn vật, trong cái

trật tự thiên nhiên, trong sự hòa rập mãi mãi” [42, 57].

Hà Nội là nơi Lưu Trọng Lư từng học tập, viết văn, làm thơ kiếm sống.

Thành phố này đã để lại trong ông nhiều dấu ấn. Trong hồi kí Nửa đêm sực

tỉnh, Lưu Trọng Lư viết: “Hà Nội, với chúng tôi, là cả một thế giới lạ lùng,

nhiều ánh sáng mà đầy bóng tối. Thích ứng được với dòng nước mới này, con

cá cũng phải trầy da tróc vẩy bao phen… Có lần chúng tôi như ở một địa

104

ngục. Ở trong cái địa ngục ấy, đôi khi chúng tôi cũng tìm được một dòng

Ngân Sơn trong vắt. Giữa Hà Nội, đôi khi chúng tôi cũng được thấy ánh trăng

xanh. Giữa cuộc sống vẩn đục bị đau quật từ bốn phía, tôi vẫn đi tìm lại

những dòng thơ trong sáng nhất” [42, 1336].

Hà Nội cũng sớm đi vào trong các truyện ngắn của Lưu Trọng Lư, với

những cảnh sắc rất riêng: những con phố Hàng Đồng, Hàng Bông, Hàng

Trống…(Con chim sổ lồng); những hồ Tây, hồ Trúc Bạch, đường Cổ

Ngư…(Cái chết hiếu danh); những ngày đầu thu đẹp mơ màng “những lá

bàng rơi xuống trên hai vai tôi và là là bay hạ xuống đất. Trời trong sáng.

Những hàng cây uốn mình theo gió, có cái vẻ huyền ảo như là ở trong một

cảnh mộng” (Một lần tôi đi qua) hay mùa đông với những cơn mưa phùn, gió

bấc (Chân ái tình)… Đó thường là không gian của tình yêu. Với chàng trai

Vân Bình, Hà Nội lại là nơi lưu giữ kỉ niệm về một tình yêu tan vỡ: “thường

năm, cứ độ đông về thì dầu có sự trở ngại đến đâu, Vân Bình cũng phải về Hà

Nội một lần để viếng lại cái nơi Khổng miếu rất u tịch nầy. Không phải là

chàng có lòng mộ đạo chi đâu; chàng chỉ là một kẻ tình nhân mê muội, về đây

là để tìm lại những cái dấu vết của một cuộc ái tình buồn rầu vô vị” [42, 48].

Hà Nội còn là nơi khởi đầu của những tình yêu đầy thi vị. Trong Tình trong

giây lát, tình yêu lãng mạn với những niềm vui lẫn nỗi buồn cùng những ý

nghĩ ghen tuông của hai chàng thanh niên đã diễn ra nơi một cửa hàng sách ở

Hàng Bông: “Rồi cứ như thế, chiều nào hai chúng tôi cũng đến cửa hàng

sách. Mỗi lần vào cửa hàng, chúng tôi lại viện cho mình một cái cớ, khi thì

hỏi một điều bâng quơ. Có lúc, chúng tôi cạn trí, không tìm đâu được một cái

cớ nữa, thì chúng tôi đi ngang qua, chỉ nhìn vào một cái rồi đi về. Một hôm

chợt nhận thấy rằng: những cái cử chỉ của mình ngày càng vô nghĩa, càng lố

lăng, trong một bữa cơm, chúng tôi giơ tay thề với nhau rằng: chẳng bao giờ

bén chân tới cửa hàng sách ấy nữa. Nhưng lời thề hôm trước, hôm sau đã bị

105

lãng quên rồi”. Hay trong Một lần tôi đi qua, tình yêu gắn với với khung cảnh

một khu vườn bên trong ngôi biệt thự có tên “Eglantines” (hoa tầm xuân):

“cái vườn hoa của nàng, tôi trông có vẻ tiều tụy hơn mọi ngày, nhưng những

đóa hoa cúc trắng vẫn đậm đà thám tươi như cũ. Bỗng tôi nghe từ trong nhà

vọng đưa ra, những tiếng dương cầm. Những tiếng trong trẻo bay qua cửa sổ,

và âm thầm tắt trong những chòm lá xanh. Tôi ngừng bước nhìn những làn

cúc, tôi nhìn thấy những làn cúc trắng tự nhiên rung động anh ạ!Và tâm hồn

tôi lao đao muốn ngã. Những hạt mưa vẫn nhỏ xuống ngày càng nặng. và tôi

thấy trong những giọi nước lại cả cái hình ảnh của những cảnh vật xung

quanh. Tôi vẫn cứ đứng thần người ra nhìn” [42, 118].

Khung cảnh thiên nhiên hiện lên trong các truyện ngắn của Lưu Trọng

Lư rất thơ mộng. Khung cảnh đó thường được nhìn, được cảm nhận theo các

cung bậc cảm xúc, tâm trạng nhân vật, theo hướng cảnh và tình giao hòa,

quyện chặt vào nhau. Tác giả thường lấy thiên nhiên đặt trong một bối cảnh

tâm lí thích hợp, hòa đồng với những sắc thái tình cảm và tâm trạng nhân vật;

những biến thái của tâm hồn, các phản ứng tâm lý, các trạng thái tinh thần

được khơi gợi từ những thay đổi của thiên nhiên, ngoại giới.

Bên cạnh không gian thiên nhiên, chúng ta còn tìm thấy những không

gian ảo trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư. Đây là không gian do tác giả

tưởng tượng ra, nó chứa nhiều yếu tố hư ảo, kì lạ.

Truyện ngắn Người sơn nhân đưa chúng ta đến một vùng rừng núi

hoang sơ như ở thời cổ đại: “Hôm thứ ba, đoàn thám hiểm đã bước được một

bước dài về không gian, nhưng lại thụt lùi một bước rất dài về thời gian, hình

như đã qua mấy trăm năm, mấy nghìn thế kỷ, mà trở lại cái thời cổ sơ. Bốn bề

cây cối um tùm, lại thêm những tiếng vượn hót, chim kêu, cọp gầm, voi thét,

hòa lẫn nhau thành một tiếng gọi thiêng liêng mà ghê gớm, tiếng gọi của Quả

106

Đất gọi Loài Người, lúc được Thượng đế ghi tên ghi tuổi vào pho lịch sử của

Vũ Trụ” [42, 26]. So với khung cảnh Quảng Bình, Hà Nội xuất hiện trong các

truyện ngắn khác của Lưu Trọng Lư; hay khung cảnh cái phố huyện lèo tèo,

thưa thớt mang đặc trưng “nửa làng nửa phố”, cái phố chợ tồi tàn, lụp xụp, cái

xóm nghèo ngoại ô luôn ngập ngụa và nồng nặc mùi cống rãnh hoặc cái làng

quê tăm tối, bùn lấy nước đọng trong các truyện ngắn của Thạch Lam; cái

không gian hiu hắt, tù lặng trong nỗi “đìu hiu của cái ao đời bằng phẳng”

trong các truyện ngắn Xuân Diệu; hoặc không gian làng Mỹ Lý nên thơ và

bình lặng trong truyện ngắn Thanh Tịnh thì cái không gian trong truyện ngắn

này rộng lớn, mới lạ và bí hiểm hơn nhiều. Trong cái không gian kì vĩ ấy,

nhân vật được tự do, được vẫy vùng cho cái “chí khí anh hùng: “Tôi đã quen

với những cái cảnh tượng lớn lao của trời đất; ở đây tôi đã làm chủ được

muôn loài. Sống ở đây thì tôi cũng muốn chết ở đây, bên tiếng cọp gầm, voi

thét” [42, 33].

Không gian trong truyện ngắn Ly Tao tuyệt vọng là khung cảnh sông

nước mờ ảo: dòng Linh Giang với bến Văn Giang trong những đêm mùa

đông. Khung cảnh lạnh lẽo và đầy ánh trăng: “cái mặt trăng mùa đông, nặng

nề ủ rũ như không còn có thể nhích đi được nữa. Cỏ cây cũng rét đơ không

lay động được” [42, 40]. Văng vẳng trong không gian là tiếng đàn, tiếng hát

ma mị đầy mê hoặc: “Bỗng dưng trong vùng không khí ngưng trệ, vi lô san

sát, khóm tre la đà, một ngọn gió nhẹ đưa, đưa lại một giây âm hưởng, tiếng

trầm tiếng bổng, tiếng chậm tiếng mau (…) Theo nhịp đàn, một khúc hát du

dương, càng nghe càng thấm thía, càng nghe càng thâm trầm (…) Ai? Người

hay là ma? Ấy là tiếng rền rĩ của một vùng không khí lạnh lẽo tái tê, hay là

tiếng vỡ lở của một con tim âu sầu ủ rũ?” [42, 40]. Tất cả hòa quyện, tạo nên

một thế giới huyền ảo, khiến nhân vật sống chập chờn giữa thực và mộng:

“Phan sinh cứ ngồi mê mẩn, đợi có một con cá đớp vào mồi, thì mới giật

107

mình tỉnh dậy. Tỉnh dậy trong chốc lát rồi lại trở vào cõi mộng” [42, 42]. Cái

nền không gian ấy làm cho câu chuyện tình yêu thêm phần lãng mạn, huyền

hoặc.

Trong truyện ngắn Chiêm Thành, chúng ta cũng bắt gặp một không

gian đan xen giữa thực và ảo. Đó là những cánh đồng ruộng xanh, những con

cò trắng, những ngày vui vẻ, thái bình” hiện lên trong nỗi nhớ của Chế Văn

Tô: “Những cảnh vật thân yêu, những kỉ niệm nồng nàn thuở ấu thơ” cứ hiện

lên trong trong tâm trí chàng, trong khi bây giờ tất cả chỉ là một “quang cảnh

rất dìu hiu lạnh lẽo”, “nhà cửa vườn tược: một đống tro tàn nguội lạnh” [42,

72]. Đó là hình ảnh một cung điện trang hoàng lộng lẫy hiện ra trong giấc mơ

của chàng. Trong đó có “một bậc đại phu Nam Việt đương nhí nhởn với một

thiếu nữ Chiêm Thành…”, có “viên võ tướng nhảy ùm vào, rút gươm chém

đại phu một nhát, ẵm người thiếu nữ, chạy về trại rồi thúc quân đi”, có

“chiêng dồn, trống giục, mác rĩ gươm rền, xung lên giữa giời một tiếng ghê

gớm, hỗn độn” [42, 73]. Rồi khung cảnh đó biến mất, chỉ còn “trơ trọi lại

giữa quãng đồng không mông quạnh một mình chàng với một cái mạng người

hấp hối” [42, 74]. Chàng lại thấy mình lạc vào tiên giới “ở chốn nước non lạ

lùng, có những cây dương liễu xanh mướt, có những cái tháp mạnh mẽ, nguy

nga, đứng đồ sộ giữa từng không (…) một thiếu nữ, một vị tiên nga, bận toàn

màu xanh nhạt, tay cầm một nhánh dương liễu, vừa đu mình vừa hát một khúc

hát Chiêm Thành” [42, 74]. Quá khứ và hiện tại, thực và mộng cứ dồn dập

hiện lên trong tâm hồn bậc trượng phu mang nỗi đau vong quốc.

Rõ ràng, sự xuất hiện của những không gian ảo trong truyện ngắn của

Lưu Trọng Lư phần nào tạo nên sự mới lạ, cuốn hút cho câu chuyện. Đồng

thời, nó giúp tác giả biểu đạt một cách lãng mạn những ý tưởng mà không

gian cụ thể không thể dung chứa: sự phản kháng, nỗi niềm hoài cổ,…

108

Tóm lại, Lưu Trọng Lư thường tạo dựng trong các truyện ngắn của

mình những bức tranh thiên nhiên, hoặc những không gian chứa nhiều yếu tố

kì lạ, hư ảo. Không gian đó hiện lên chưa thật sự rõ nét, song các đường nét,

màu sắc của khung cảnh đều nhằm biểu hiện những sắc thái nội tâm của nhân

vật và hay những ý tưởng lãng mạn của tác giả. Điều này góp phần làm cho

truyện ngắn của Lưu Trọng Lư thêm giàu chất lãng mạn trữ tình.

TIỂU KẾT:

Sau khi khảo sát một số phương diện về hình thức nghệ thuật của

truyện ngắn Lưu Trọng Lư, chúng ta thấy có những điểm nổi bật sau:

Nhân vật của Lưu Trọng Lư thường là những con người thất bại. Khi

xây dựng nhân vật, tác giả thường tập trung vào miêu tả cảm giác, cảm xúc

nội tâm hơn ngoại hình, hành động.

Cốt truyện trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư thường đơn giản, ít sự

kiện, thậm chí có truyện gần như không có chuyện. Câu chuyện thường xoay

quanh tình huống gặp gỡ, đây là tình huống hé mở ra thế giới tâm trạng, cảm

xúc của nhân vật.

Truyện ngắn của Lưu Trọng Lư được tổ chức theo hai kiểu kết cấu

quen thuộc: tuyến tính và phi tuyến tính. Ỏ mỗi truyện ngắn, kiểu kết cấu

cũng có ít nhiều biến đổi. Điều này chứng tỏ sự nỗ lực trong việc đổi mới

hình thức kể chuyện của tác giả.

Ngôn từ trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư là ngôn từ rất giàu cảm

xúc, giàu chất thơ. Tuy nhiên, đôi lúc quá chú tâm vào cảm xúc, tác giả như

quên đi sự gọt giũa ngôn từ. Trong truyện ngắn của ông cũng dấu vết của

ngôn ngữ truyền thống.

109

Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Lưu Trọng Lư vừa có không

gian thật, vừa có không gian ảo, song điểm chung của chúng là luôn chứa

đựng cảm xúc trữ tình trong sự hòa điệu với tâm hồn nhân vật.

110

KẾT LUẬN

Lưu Trọng Lư là một cây bút đa tài, ông vừa làm thơ, viết văn, vừa

sáng tác kịch. Tài năng và đóng góp của ông đã được ghi nhận bằng Giải

thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Trong kho tàng sáng tác của Lưu Trọng Lư, truyện ngắn chiếm số

lượng không nhỏ. Nhưng có lẽ vì không nổi bật bằng các sáng tác thơ nên

truyện ngắn ít được chú ý. Tuy nhiên, khi nhìn lại chặng đường sáng tác của

Lưu Trọng Lư, chúng ta có thể khẳng định truyện ngắn vẫn có một vị trí khá

quan trọng, có những đóng góp nhất định trong sự nghiệp văn học của ông.

Nhìn một cách khái quát, truyện ngắn của Lưu Trọng Lư có những đặc

đặc sau:

Thế giới trong truyện ngắn và thế giới trong thơ của Lưu Trọng Lư

không tách biệt mà có sự giao hòa. Trong truyện ngắn, chúng ta cũng có thể

tìm thấy những câu thơ, những hình ảnh, cảm xúc giống như trong thơ.

Đề tài trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư khá đa dạng. Trong đó ông

tập trung nhiều vào các câu chuyện tình yêu. Ngoài ra ông cũng quan tâm đến

những câu chuyện dã sử, những câu chuyện về người nghệ sĩ, về người nông

dân, về những đứa trẻ bất hạnh. Sự lựa chọn đề tài phần nào thể hiện được

khuynh hướng sáng tác lãng mạn của Lưu Trọng Lư.

Truyện ngắn của Lưu Trọng Lư chịu sự chi phối bởi hai nguồn cảm

hứng: cảm hứng trữ tình và cảm hứng thế sự.

Cảm hứng trữ tình thể hiện rất sâu đậm trong các truyện ngắn viết tình

yêu. Tình yêu của Lưu Trọng Lư thường là tình yêu thầm kín, nhiều mơ mộng

và luôn tan vỡ. Trong những câu chuyện tình yêu, tất cả những trạng thái,

cung bậc cảm xúc của một cái tôi đa tình, mơ mộng được biểu lộ rõ nét. Đó là

111

cách tác giả thể hiện tiếng nói khao khát yêu thương, tiếng nói đề cao tình

yêu.

Cảm hứng thế sự biểu hiện khá rõ trong các truyện ngắn viết về cuộc

sống đời thường. Trong những truyện ngắn này, Lưu Trọng Lư đã khám phá

và tái hiện lại cuộc đời của những người nông dân, người nghệ sĩ và những

đứa trẻ. Người nông dân phải sống một cuộc sống nghèo túng. Món nợ sưu

thế luôn đè nặng trên vai họ, đặt họ vào trong tình thế bế tắc, không tương lai.

Cuộc sống của người nghệ sĩ cũng không khá hơn gì. Họ không những nghèo

về vật chất mà còn mang một nỗi khổ trong tâm hồn. Còn những đứa trẻ thì bị

hất hủi phải bỏ nhà đi hoang. Qua những trang viết giàu chất hiện thực, người

đọc hiểu hơn về xã hội đương thời, đồng thời thấy được tấm lòng nhân ái tha

thiết chân thành của tác giả.

Cảm hứng thế sự cũng xuất hiện trong các câu chuyện dã sử. Thông

qua các câu chuyện này, tác giả đã gián tiếp thể hiện tình yêu quê hương và

sự khao khát tự do của mình.

Nét nổi bật trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Lưu Trọng Lư là

ông thường xây dựng những nhân vật chính như những con người thất bại.

Nhân vật của ông gần như không có ngoại hình, hành động và mờ nhạt về

tính cách. Nhân vật chỉ hiển hiện thông qua cảm giác, cảm xúc, trạng thái tâm

lí.

Cốt truyện trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư thường ít sự kiện, biến

cố. Các sự kiện không nhắm thể hiện tính cách mà chủ yếu là biểu hiện cảm

xúc của nhân vật. Trong câu chuyện thường xuất hiện tình huống gặp gỡ.

Chức năng chủ yếu của tình huống này là khai mở thế giới cảm xúc, tạo biến

chuyển trong tâm trạng nhân vật.

112

Nghệ thuật xây dựng kết cấu trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư cũng

là vấn đề đáng quan tâm. Phần nhiều truyện ngắn của ông có kết cấu tuyến

tính quen thuộc. Một số truyện có mạch truyện không theo trình tự thời gian

khiến nội dung câu chuyện trở nên rộng mở và sinh động hơn. Cùng với linh

hoạt trong cách mở đầu, cách kết thúc, cách tổ chức điểm nhìn trần thuật, các

truyện ngắn của Lưu Trọng Lư cũng tạo được ít nhiều sự mới lạ. Tuy nhiên,

nhìn chung, cách tổ chức kết cấu truyện ngắn của Lưu Trọng Lư vẫn chưa

thoát khỏi nghệ thuật tự sự truyền thống.

Nhắc đến Lưu Trọng Lư là nhắc đến một thứ ngôn từ rất giàu cảm xúc.

Trong thơ cũng như trong văn xuôi. Ở truyện ngắn, cảm xúc được thể hiện

trực tiếp thông qua một lớp từ láy có chức năng biểu cảm cao và qua một số

hình ảnh so sánh vừa có giá trị tạo hình vừa gợi cảm. Đọc truyện ngắn Lưu

Trọng Lư, chúng ta bắt gặp không ít những trang văn có ngôn từ trong sáng,

tinh tế, truyền cảm như lời thơ. Tuy nhiên cũng có không ít nhưng trang văn

mà ngôn từ còn mang dáng dấp của ngôn ngữ truyền thống, với lối diễn đạt

biền ngẫu, những hình ảnh ước lệ, những từ ngữ khuôn sáo. Cũng có khi vì

quá chú tâm vào việc biểu hiện cảm xúc mà tác giả ít quan tâm đến việc trau

chuốt, gọt giũa ngôn từ, khiến lời văn trở nên rườm rà, giảm đi sự tự nhiên,

trong sáng.

Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Lưu Trọng Lư là hình

ảnh của những vùng đất mà ông từng gắn bó. Bên cạnh đó, còn có không ảo

do trí tưởng tượng phác họa ra. Hiện lên trong trang viết của ông là những

khung cảnh thơ mộng, chứa đựng nhiều cảm xúc trữ tình.

Với những đặc điểm về nội dung và hình thức nghệ thuật vừa nêu, có

thể xếp truyện ngắn của Lưu Trọng Lư vào truyện ngắn trữ tình. Truyện ngắn

của Lưu Trọng Lư tuy chưa được biết đến rộng rãi, nhưng với những giá trị

113

nội dung và nghệ thuật nhất định chắc chắn cũng đã góp phần làm phong phú

cho diện mạo của nền truyện ngắn giai đoạn 1930 – 1945.

Đồng cảm với suy nghĩ của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân - “Việc

khôi phục lại được những phần đã bị bỏ quên hoặc mất mát của mỗi tác giả

luôn luôn đem lại niềm vui cho người nghiên cứu sưu tầm” [42, 22], người

viết đã thực hiện luận văn này. Nhưng do những điều kiện khách quan, nhất là

do sự hạn chế về năng lực nghiên cứu của cá nhân nên luận văn không tránh

khỏi những thiếu sót về nội dung và hình thức. Chúng tôi rất mong nhận được

sự góp ý của Thầy, Cô để cho luận văn được hoàn chỉnh hơn, để có cái nhìn

đúng đắn hơn, toàn diện hơn về truyện ngắn Lưu Trọng Lư, một bộ phận sáng

tác mới vừa được sưu tầm đầy đủ.

114

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Antônốp (1956), Viết truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam

(từ cuối thế kỷ XIX đến 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

4. Nam Cao (2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học.

5. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

6. Xuân Diệu (2001), Xuân Diệu toàn tập (tập 2, Nguyễn Bao sưu tầm,

biên soạn và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Trần Ngọc Dung (1992), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học

Việt Nam thời kỳ đầu những năm 1930 – 1945: Nguyễn Công Hoan – Thạch

Lam – Nam Cao, Luận án phó tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội I.

Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930/1945), Nxb 8.

Giáo dục, Hà Nội.

9. Trần Thanh Địch (1988), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới,

Hội Nhà văn Việt Nam.

10. Hà Minh Đức (1978), Văn học Việt Nam 30 – 45, tập I, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

11. Hà Minh Đức, Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học, Nxb ĐH và

THCN.

12. Nhiều tác giả (1989), Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện đại, Viện

thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

115

14. Nhiều tác giả (1998), Thơ mới 1932 – 1945 Tác giả, tác phẩm, Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

15. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

16. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế Giới, Hà Nội.

17. Bằng Giang (1998), Văn học quốc ngữ ở Nam Kì 1865 – 1930, Nxb

Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

18. Hoàng Bích Hà, Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn), (2004), Truyện

ngắn Khái Hưng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Văn Hạnh (1972), Một số điểm cần nói rõ thêm về vấn đề

nghiên cứu tác phẩm văn học, Tạp chí văn học, số 6.

21. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học – vấn

đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

23. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

24. Mai Hương (2000), Thơ Lưu Trọng Lư - Những lời bình, NXB Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

25. Phạm Thu Hương (1965), Dòng truyện ngắn trữ tình Việt Nam 1930 –

1945 nhìn từ ba tác giả tiêu biểu: Thạch Lam – Hồ Dzếnh – Thanh Tịnh,

Luận án tiến sĩ văn học, Hà Nội.

26. Ngô Thị Hy (2003), Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Hồ Dzếnh, Luận

văn thạc sỹ, ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

116

27. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ

thi pháp, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

28. Nguyễn Hoàng Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt nam 1930 –

1945, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Nguyễn Hoành Khung (2004), Truyện ngắn Việt Nam 1930 – 1945,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Thạch Lam (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn.

32. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam

1900/1945, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

33. Kim Lân (1996), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.

34. Nhất Linh (2000), Nhất Linh truyện ngắn, Trịnh Bá Dĩnh tuyển chọn và

giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.

35. Lưu Trọng Lư (1987), Lưu Trọng Lư tuyển tập (thơ, văn xuôi, kịch

thơ), Nguyễn Văn Long tuyển chọn, giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.

36. Lưu Trọng Lư (1993), Tiếng thu, Nxb Hội nhà văn, Tp. Hồ Chí Minh.

37. Lưu Trọng Lư (1996), Tuyển tập thơ chọn lọc, Nxb Văn hóa thông tin,

Tp. Hồ Chí Minh.

38. Lưu Trọng Lư (2011), Lưu Trọng Lư tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết

(2 tập, Lại Nguyên Ân, Hoàng Minh sưu tầm, biên soạn), Nxb Lao động

Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

39. Phan Quốc Lữ (2003), Văn xuôi trữ tình thời kỳ 1930 – 1945 mấy vấn

đề về đặc điểm thi pháp, Luận án tiến sĩ, ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

40. Phương Lựu chủ biên (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

41. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Tác

phẩm mới, Hà Nội.

117

42. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

các nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam

1930-1954, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

44. Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (2003), Từ điển tác

giả, tác phẩm văn học dùng cho nhà trường, Nxb Đại học Sư phạm.

45. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Bản dịch tiếng Việt

của Phạm Vĩnh Cư), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

46. M. Bakhtin (1998), Lý luận và thi pháp Dostoievski (Bản dịch tiếng

Việt của Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn), Nxb Giáo dục.

47. M.B. Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát

triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

48. Vương Trí Nhàn (1992), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà

Nội.

49. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ

Chí Minh.

50. Phùng Quý Nhâm, Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Trường Đại

học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

51. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 2), Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

52. Lâm Quế Phong (1998), Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Anh

Thơ, NXB Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

53. Pospêlôp (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

54. Nguyễn Thanh Sơn (2001), Truyện ngắn Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến

1932, Luận án tiến sĩ, ĐH sư phạm Hà Nội.

118

55. Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Dĩnh (2007), Tuyển tập nghiên cứu phê

bình, Nhà xuất bản Lao động-Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà

Nội.

56. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn, hiện thực, đời sống và cá tính sáng

tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.

57. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Đại học Sư phạm Tp.

Hồ Chí Minh.

58. Trần Đình Sử (2001), Đọc văn học văn, Nxb Giáo dục.

59. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn

học, Nxb Giáo dục.

60. Hoài Thanh, Hoài Chân (2000), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà

Nội.

61. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.

62. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lí thuyết và thực

tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

63. Nguyễn Thành Thi (2000), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch

Lam, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học KHXH và NV Tp. Hồ Chí Minh.

64. Nguyễn Ngọc Thiện (1973), Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam

1900/1945, Nxb Văn học, Hà Nội.

65. Bùi Thị Thu Thủy (2003), Văn xuôi nghệ thuật Xuân Diệu, Luận văn

thạc sĩ, ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

66. Ngô Tất Tố (2006), Tắt đèn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

67. Nguyễn Tuân (2000), Vang bóng một thời, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí

Minh.

68. Xuân Tùng (1999), Xuân Diệu như chính ông, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

69. Xuân Tùng (2000), Thạch Lam và văn chương,Nxb Hải Phòng.

119

70. Phan Văn Tường (2004), Phong cách nghệ thuật Nam Cao, Luận án

tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm tp. Hồ Chí Minh.

71. Lê Trí Viễn (1989), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.

72. Nguyễn Đăng Vy (2010), Truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng trong

văn xuôi Tự lực văn đoàn, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Tp.

Hồ Chí Minh.