Luận văn Thạc sĩ Văn học dân gian: Những yếu tố văn học dân gian trong một số trò rối nước cổ truyền
lượt xem 7
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm rõ đặc trưng của múa rối nước, vị trí của múa rối nước so với các loại hình sân khấu khác. Để từ đó khai thác những giá trị đặc sắc của bộ môn này. Để từ đó có biện pháp thích hợp để bảo tồn loại hình sâu khấu độc đáo này. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học dân gian: Những yếu tố văn học dân gian trong một số trò rối nước cổ truyền
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ KHÁNH VÂN NHỮNG YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG MỘT SỐ TRÒ RỐI NƯỚC CỔ TRUYỀN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học dân gian Hà Nội-2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ KHÁNH VÂN NHỮNG YẾU TỐ VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG MỘT SỐ TRÒ RỐI NƯỚC CỔ TRUYỀN Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 60 22 01 25 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Chí Quế Hà Nội-2015
- MỤC LỤC Nội dung Trang Phần 1: Mở đầu 2 1. Lí do chon đề tài 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5 3. Mục đích nghiên cứu 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7 6. Đóng góp của luận văn 7 7. Giới thiệu cấu trúc luận văn 7 Phần 2: Nội dung chính 8 Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn 8 1.1. Cơ sở lí luận 8 1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng văn học dân gian 8 1.1.2. Khái niệm và đặc trƣng của múa rối nƣớc 11 1.2. Cơ sở thực tiễn 18 1.2.1. Hoạt động của các đơn vị biểu diễn múa rối nƣớc 18 1.2.2. Thị hiếu của ngƣời xem 22 1
- Chƣơng 2: Mối quan hệ của múa rối nƣớc và văn học dân gian 26 thể hiện qua một số trò rối nƣớc cổ truyền 2.1. Trò cổ về đời sống sản xuất của ngƣời nông dân 27 2.2. Trò cổ về đời sống tâm linh 33 2.3. Trò cổ về lịch sử 43 Chƣơng 3: Múa rối nƣớc với những cách tân hiện đại 49 3.1. Mục đích cách tân múa rối nƣớc cổ truyền 49 3.2. Hƣớng cách tân múa rối nƣớc cổ truyền 50 Kết luận 78 Tài liệu tham khảo 80 2
- PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Múa rối nƣớc là một bộ môn nghệ thuật diễn xƣớng dân gian đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Trong kho tàng nghệ thuật dân gian Việt Nam, múa rối nƣớc là một trong những loại hình độc đáo nhất. Với sân khấu là mặt nƣớc, diễn viên là các con rối, cộng với hiệu quả của ánh sáng và pháo hoa đã tạo ra những màn biểu diễn hấp dẫn và vô cùng huyền ảo. Đây là bộ môn nghệ thuật độc đáo và chỉ có ở Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu các trò rối nƣớc cổ truyền, tôi nhận thấy có một mối liên hệ sâu sắc và bền chặt giữa mối rối nƣớc và văn học dân gian. Có những tích trò đã sử dụng những hình mẫu nhân vật, kịch bản trong các câu chuyện cổ; lại có những tích trò mƣợn những lời ca dao chứa chan tình cảm trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam. Chính vì vậy, trong luận văn này, tôi sẽ đi sâu nghiên cứu một số trò rối nƣớc cổ truyền để tìm ra mối liên hệ giữa múa rối nƣớc và văn học dân gian. Cá nhân tôi rất may mắn khi có mẹ là một nghệ sĩ múa rối nƣớc. Tuổi thơ tôi gắn liền với buổi biểu diễn của mẹ và các cô chú đồng nghiệp. Tôi yêu sự thô mộc của những quân rối khi nằm yên trên bờ và càng say mê hơn khi chúng thoắt ẩn thoắt hiện trên làn nƣớc kì ảo. Và chính tình yêu đƣợc hun đúc từ thƣở bé thơ đã thôi thúc tôi tìm hiểu về nghệ thuật múa rối nƣớc truyền thống của dân tộc. Tôi muốn góp một phần công sức của mình đề gìn giữ và phát huy những nét đẹp vốn có của múa rối nƣớc. Đặt ra vấn đề nghiên cứu ngiên cứu những yếu tố văn học dân gian trong một số trò rối nƣớc cổ truyền tuy không phải là vấn đề mới mẻ nhƣng 3
- hiện nay, sự phát triển nhanh của xã hội đã ảnh hƣởng mạnh mẽ tới sự tồn tại, phát triển của múa rối nƣớc thì việc nghiên cứu này sẽ góp một phần nhỏ bé để giúp tìm ra những yếu tố cốt lõi trong giá trị một số trò cổ nói riêng và bộ môn nghệ thuật múa rối nƣớc nói chung. Để từ đó có những biện pháp hữu hiệu giúp bảo tồn, giữ gìn một bộ môn nghệ thuật độc đáo của nƣớc nhà. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Một số công trình nghiên cứu về rối mƣớc đã đƣợc công bố trong và ngoài nƣớc. 2.1. Nghệ thuật múa rối nước, tác giả Tô Sanh - Nhà xuất bản: Văn hoá, 1976 - Nội dung: Nghệ thuật múa rối nói chung và nghệ thuật múa rối nƣớc. Nguồn gốc lịch sử và quá trình nghệ thuật múa rối nƣớc. Tiết mục và kỹ thuật thể hiện múa rối nƣớc. Tính chất đặc điểm quan hệ của nghệ thuật múa rối nƣớc với các bộ môn nghệ thuật khác 2.2. Lịch sử nghệ thuật múa rối Việt Nam, tác giả Nguyễn Huy Hồng - Nhà xuất bản: Sân khấu, 2005 - Nội dung: Giới thiệu về lịch sử nghệ thuật múa rối ở Việt Nam, nghệ thuật múa rối cổ truyền dân tộc, nghệ thuật múa rối 1945-1995. Giới thiệu từ vựng về nghệ thuật múa rối, các thuật ngữ múa rối 2.3. Nghệ thuật múa rối Việt Nam, tác giả Nguyễn Huy Hồng - Nhà xuất bản: Văn hoá, 1974 4
- - Nội dung: Đại cƣơng về nghệ thuật múa rối. Vài nét về lịch sử nghệ thuật múa rối Việt Nam. Nhìn qua nghệ thuật múa rối truyền thống dân tộc. Cơ sở rối truyền thống dân tộc. 2.4. Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, tác giả: Hoàng Chương (chủ biên), Đoàn Thị Tình, Đặng Ánh Ngà, Phan Thanh Liêm - Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin, 2012 - Nội dung: Giới thiệu lịch sử, mỹ thuật sân khấu, nghệ thuật tạo hình và kỹ thuật máy móc điều khiển múa rối nƣớc. Đồng thời nêu lên định hƣớng phát triển múa rối nƣớc Việt Nam và vấn đề bảo tồn, phát huy nghệ thuật múa rối nƣớc dân gian Việt Nam 2.5. Nghệ thuật múa rối nước Thái Bình, tác giả Nguyễn Huy Hồng - Nhà xuất bản: Sở Văn hoá và thông tin Thái Bình, 1987 - Nội dung: Vài nét về đất Thái Bình và nghệ thuật múa rối nƣớc: sân khấu, buồng trò, quân rối, máy điều khiển, nghệ nhân, trò và tích trò, nhân vật, biểu diễn, âm nhạc. Giới thiệu một số hình ảnh múa rối nƣớc cùng 3 phƣờng hội tiêu biểu ở Thái Bình: phƣờng múa rối nƣớc Nguyễn, Tuộc, múa rối thùng ở Đống. 2.6. Nghệ thuật múa rối Tày – Nùng, tác giả Nguyễn Huy Hồng - Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin, 2003 - Nội dung: Giới thiệu nghệ thuật múa rối Tày - Nùng; cách tổ chức và tạo hình quân rối, mỹ thuật sân khấu, cách điều khiển con rối... và một số trò rối Tày – Nùng 5
- 2.7. Rối nước = Water puppets, tác giả: Hữu Ngọc, Lady Borton - Nơi xuất bản: Thế giới, 2009 - Nội dung: Tìm hiểu nghệ thuật múa rối nƣớc ở Việt Nam. Sự bắt nguồn của rối nƣớc, âm nhạc, các nét trạm trổ của con rối truyền thống, tìm hiểu về văn hoá Việt Nam múa rối nƣớc, vai trò của chú Tễu... 2.8. Luận án: Sự phục hồi của rối nước đồng bằng Bắc Bộ, tác giả: Vũ Tú Quỳnh Nội dung: Tổng quan về rối nƣớc vùng đồng bằng Bắc Bộ trƣớc đổi mới. Trình bày những tác nhân căn bản dẫn đến sự phục hồi của rối nƣớc sau đổi mới và những vấn đề đặt ra đối với rối nƣớc trong tình hình kinh tế, văn hoá và xã hội hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu: - Đây là một loại hình sân khấu dân gian mang tính chất đặc thù dân tộc. Hiện nay, trên thế giới, múa rối nƣớc chỉ có ở Việt Nam. Nhƣng trên thực tế, trong những năm gần đây, trong giới nghiên cứu không có nhiều công trình nghiên cứu về múa rối nƣớc. - Trong luận văn này, tôi muốn làm rõ đặc trƣng của múa rối nƣớc, vị trí của múa rối nƣớc so với các loại hình sân khấu khác. Để từ đó khai thác những giá trị đặc sắc của bộ môn này. Để từ đó có biện pháp thích hợp để bảo tồn loại hình sâu khấu độc đáo này. - Tìm hiểu và khai thác những giá trị văn học dân gian trong múa rối nƣớc cổ truyền. 6
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tƣợng nghiên cứu: Một số trò cổ của múa rối nƣớc cổ truyền nhƣ: Đi cấy, Xay lúa giã gạo, Múa bát tiên, Múa tứ linh, Lam Sơn khởi nghĩa. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu một số trò rối nƣớc cổ truyền đã và đang đƣợc lƣu truyền tại các phƣờng rối tại khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng. 5. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, bên cạnh nhƣng phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo bao gồm phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng pháp nghiên cứ liên ngành, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, luận văn còn sử dụng một số phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp điền dã: vì có rất nhiều phƣờng rối cùng diễn các trò cổ nên cần có sự thu thập đầy đủ, chính xác các trò cổ đó. Để từ đó có sự so sánh, đối chiếu. - Phƣơng pháp nghiên cứu chọn mẫu: trong những tích rối của các phƣơng rối, tôi sẽ chọn ra một số trò cổ mang nhiều tính đặc trƣng của rối nƣớc cổ truyền nhất để từ đó phân tích, so sánh. 6. Đóng góp của luận văn: Luận văn nghiên cứu một số những yếu tố văn học dân gian trong một số trò rối nƣớc cổ truyền góp phần quan trọng vào việc tìm hiểu giá trị của di sản văn hóa độc đáo này. Luận văn lý giải đƣợc một số vấn đề trong mối quan hệ giữa múa rối nƣớc và văn học dân gian. Luận văn cũng tìm ra đƣợc những điểm tƣơng đồng, khác biệt trong những truyện cổ dân gian với những trò cổ của múa 7
- rối nƣớc. Để từ đó khẳng định vai trò nền tảng của văn học dân gian đối với múa rối nƣớc nói riêng và các loại hình sân khấu dân gian khác nói chung. 7. Giới thiệu cấu trúc luận văn: Luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận. Chƣơng 2: Mối quan hệ của múa rối nƣớc và văn học dân gian qua một số trò rối nƣớc cổ truyền. Chƣơng 3: Múa rối nƣớc với những cách tân hiện đại. 8
- PHẦN 2: NỘI DUNG CHÍNH CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ CỞ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận 1.1 Khái niệm văn học dân gian và các đặc trưng của văn học dân gian 1.1.1 Về khái niệm văn học dân gian Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng đƣợc tập thể sáng tạo, nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian - Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng. Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng miệng cho ngƣời khác. Văn học dân gian khi đƣợc phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan (bộ não ngƣời) nên thƣờng đƣợc sáng tạo thêm. Văn học dân gian thƣờng đƣợc truyền miệng theo không gian (từ vùng này qua vùng khác), hoặc theo thời gian (từ đời trƣớc đến đời sau). Quá trình truyền miệng thƣờng đƣợc thực hiện thông qua diễn xƣớng - tức là hình thức trình bày tác phẩm một cách tổng hợp (nói, hát, kể). - Văn học dân gian là kết quả của những quá trình sáng tác tập thể. Tập thể là tất cả mọi ngƣời, ai cũng có thể tham gia sáng tác. Nhƣng quá trình này, lúc đầu do một ngƣời khởi xƣớng lên, tác phẩm hình thành và đƣợc tập thể tiếp nhận. Sau đó những ngƣời khác (địa phƣơng khác, thời 9
- đại khác) tham gia sửa chữa, bổ sung cho tác phẩm biến đổi dần. Quá trình bổ sung này thƣờng làm cho tác phẩm phong phú hơn, hoàn thiện hơn. Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình sáng tác này ở những thời điểm khác nhau. Nhƣng vì truyền miệng nên lâu ngày, ngƣời ta không nhớ đƣợc và cũng không cần nhớ ai là tác giả. Tác phẩm dân gian vì thế đã trở thành của chung, ai cũng có thể tùy ý thêm bớt, sửa chữa. - Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Sinh hoạt cộng đồng là những sinh hoạt chung của nhiều ngƣời nhƣ lao động tập thể, vui chơi ca hát tập thể, hội hè... Trong những sinh hoạt này, tác phẩm văn học dân gian thƣờng đóng vai trò phối hợp hoạt động, tạo nhịp điệu cho hoạt động (những bài hò: hò chèo thuyền, hò đánh cá,..). Không những thế, văn học dân gian còn gây không khí để kích thích hoạt động, gợi cảm hứng cho ngƣời trong cuộc (ví dụ những câu chuyện cƣời đƣợc kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc trong công việc). 1.1.3. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam Dựa vào những đặc điểm giống nhau cơ bản về nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm trong cùng một nhóm, có thể thấy văn học dân gian Việt Nam gồm những thể loại chính nhƣ sau: thần thoại, sử thi dân gian, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cƣời, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao – dân ca, vè, truyện thơ, các thể loại sân khấu (chèo, tuồng, múa rối, các trò diễn mang tích truyện). 10
- 1.1.4. Những giá trị cơ bản của văn học dân gian - Văn học dân gian là kho trí thức vô cùng phong phú về đời sống của các dân tộc (kho trí khôn của nhân dân về mọi lĩnh vực của đời sống tự nhiên, xã hội, con ngƣời). Kho tri thức này phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời đƣợc nhân dân ta đúc kết từ thực tế. Vào trong các tác phẩm, nó đƣợc mã hoá bằng những ngôn từ và hình tƣợng nghệ thuật tạo ra sức hấp dẫn ngƣời đọc, ngƣời nghe, dễ phổ biến, dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền cùng năm tháng. - Văn học dân gian ngợi ca, tôn vinh những giá trị tốt đẹp của con ngƣời. Vì thế, nó có giá trị giáo dục sâu sắc về truyền thống dân tộc (truyền thống yêu nƣớc, đức kiên trung, lòng vị tha, lòng nhân đạo, tinh thần đấu tranh chống cái ác, cái xấu...). Văn học dân gian cũng vì thế mà góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp cho các thế hệ xƣa và nay. - Văn học dân gian có giá trị to lớn về nghệ thuật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn học dân nƣớc nhà. Nó đã trở thành những mẫu mực để đời sau học tập. Nó là nguồn nuôi dƣỡng, là cơ sở của văn học viết. 1.2. Khái niệm múa rối nước và các đặc trưng của múa rối nước Múa rối nƣớc là loại hình diễn xƣớng dân gian vô cùng độc đáo của ngƣời Việt.Múa rối nƣớc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, lấy ao hồ làm nơi dựng buồng trò che giấu nghệ thuật điều khiển, mặt nƣớc làm sàn diễn cho quân rối làm trò đóng kịch. Đó là sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật tạo hình với nghệ thuật điều khiển con rối, lấy con rối làm phƣơng tiện chủ yếu 11
- để thể hiện nội dung. Múa rối nƣớc là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi ngƣời dân lao động. Trải qua nhiều thế kỷ, múa rối nƣớc từ một loại hình nghệ thuật mang đậm yếu tố dân gian, đã trở thành một nghệ thuật truyền thống, một sáng tạo đặc biệt của ngƣời Việt và đang trên đƣờng trở thành một di sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo tồn của nhân loại. Múa rối bắt nguồn từ những trò chơi ngẫu nhiên, tự phát đến có chủ định, truyền cảm. Con rối là nhân vật chính, nhƣng phụ thuộc vào sự phối hợp giữa nghệ thuật điêu khắc, kỹ thuật lắp ráp, bài trí sân khấu và nghệ thuật điều khiển con rối, có khả năng tập trung, quy tụ nhiều loại hình nghệ thuật (điêu khắc, hội họa, chèo, tuồng…) và phụ thuộc chủ yếu vào tài điều khiển của diễn viên điều khiển con rối. Theo truyền thuyết thì lịch sử múa rối nƣớc ra đời từ thời xây dựng thành Cổ La Kinh An Dƣơng Vƣơng năm 225 trƣớc công nguyên. Múa rối nƣớc hình thành từ lâu đời, ra đời và tồn tại cùng với nền văn minh lúa nƣớc ở đồng bằng sông Hồng từ các thời vua Hùng. Và cụ thể hơn múa rối nƣớc ra đời năm 1221 thời vua Lý Nhân Tông, trên bia đá Sùng Thiện Diên Linh đặt tại Chùa Long Đọi xã Đọi Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. Khi nói đến nghệ thuật múa rối trƣớc hết phải nói đến nghệ thuật tạo hình. Nghệ thuật tạo hình đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nếu không có tạo hình con rối thì không có biểu diễn múa rối. Nhân vật rối mang tính ƣớc lệ tƣợng trƣng, việc đầu tƣ sáng tạo không theo một khuôn mẫu nào, mà phải dựa trên kịch bản. Tạo hình nhân vật đƣợc kết hợp hài hòa hai yếu tố: nghệ thuật điêu khắc dân gian và nghệ thuật điêu khắc cung đình. 12
- Nét độc đáo của quân rối là đƣợc làm từ gỗ sung và sơn ta để dễ điều khiển dƣới nƣớc. Quân rối xƣa thƣờng khá nhỏ, xinh xắn, dễ điều khiển, con rối hồn nhiên, sôi động phù hợp với hị hiếu của ngƣời dân hoạt bát và ngộ nghĩnh. Hiện nay, vẫn dựa trên các nguyên mẫu dân gian nhƣng các con rối đƣợc làm khá to, lắp ghép trong một thân hình, cao khoảng 30 - 40 cm. Làm quân rối tƣơng đối phức tạp, nếu không làm chuẩn sẽ không điều khiển đƣợc hoặc diễn rất khó. Để có một con rối hoàn chỉnh, cần mất rất nhiều công đoạn, đòi hỏi sự tỉ mẩn khéo léo của các nghệ nhân. Chất liệu làm nên con rối phải là loại gỗ sung - loại gỗ dai, nhẹ và dẻo để con rối có thể nổi trên mặt nƣớc và ngƣời điều khiển con rối dễ dàng biểu diễn. Các bƣớc thực hiện: Nghiên cứu kịch bản; vẽ nhân vật; chọn loại gỗ thích hợp (gỗ sung, gỗ mít..); đục con rối theo kích cỡ, hình dáng đã thống nhất theo bản vẽ; phơi khô, làm nhẵn bề mặt con rối; hom sơn ta (loại sơn chống thấm nƣớc giữ độ bền gỗ) để xốp đƣợc quấn nhiều lớp vải mỏng, phủ sơn ta và phơi khô; thếp bạc, vàng cho con rối (theo tính cách tùy từng nhân vật); hóa trang con rối; lắp máy, dây, sào con rối. Thông thƣờng, quân rối nƣớc gồm 2 phần, phần thân nổi trên mặt nƣớc thể hiện nhân vật, còn phần đế chìm dƣới mặt nƣớc giữ cho rối nổi đồng thời là nơi lắp máy điều khiển. Múa rối nƣớc sinh ra từ làng quê, gắn bó với ngƣời nông dân vì vậy không gian biểu diễn múa rối vẫn là những làng quê với lũy tre xanh, cánh đồng mênh mông thẳng tắp. Để cho một buổi biểu diễn thành công thì khâu chuẩn bị hết sức quan trọng, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho biểu diễn đều phải chuẩn bị trƣớc. Các con rối đƣợc tạo ra bằng vật liệu gỗ dễ kiếm. Các nghệ nhân do biết khai thác mặt nƣớc để diễn trò nên rối từ một vật vô tri vô giác trở thành những nhân vật rất sinh động và hồn nhiên. Buồng trò 13
- là nơi giấu mình của các nghệ nhân, đồng thời là nơi để con rối, để sắp trò và để nhạc công biểu diễn. Sân khấu rối nƣớc là khoảng trống trƣớc mặt buồng trò, bề ngang sân khấu là chiều rộng gian giữa khoảng 2m50. Dƣới mặt nƣớc là hệ thống nhiều cọc dây của máy điều khiển các quân rối. Phông cảnh trang trí sân khấu là những tấm mành đƣợc các nghệ nhân trang trí hình rồng phƣợng. Hai bên dọc sân khấu bài trí bởi hàng lan can, cửa dọc buồng trò là những lá cờ, cổng chào… Ngƣời nghệ nhân múa rối nƣớc đứng trong buồng trò để điều khiển con rối, họ sử dụng từng cây sào, giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dƣới nƣớc. Sự thành công của quân rối biểu diễn chủ yếu là do sự cử động thân hình, những động tác làm trò của chúng. Âm nhạc trong múa rối nƣớc có vai trò rất quan trọng. Nếu xét về đặc điểm cấu tạo thì dàn nhạc trong múa rối nƣớc có nhiều nét tƣơng đồng với chèo cổ. Dàn nhạc trong trò diễn rối nƣớc thƣờng chỉ là nhạc nền, phần nhiều hát làn điệu chèo, dàn nhạc tạo không khí. Dàn nhạc rối nƣớc xƣa ít hòa tấu nhạc không lời mang tính biểu đạt, phần hòa tấu chỉ đánh theo ngƣời hát. Nhƣng mỗi đoạn diễn tấu câu nhạc lƣu không ấy mang lại hiệu quả bất ngờ, tạo không khí trò diễn thậm chí cả buổi diễn. Dàn nhạc giữ vị trí quan trọng buổi diễn rối nƣớc trƣớc sân đình, những tiếng trống thúc dục, gọi mời ngƣời đến xem trò rối. Sau hồi trống cái thúc dục hiệu lệnh, kèn sáo, trống con, mõ sênh tiền… hòa tấu rộn ràng gọi mời công chúng đến xem trò diễn rối nƣớc. Chú Tễu bƣớc đi trong tiếng nhạc lời ca tƣng bừng dọn giọng giáo trò, âm nhạc ngắt lặng mọi ngƣời lắng nghe từng lời chú Tễu cung chúc khán giả, dẫn ngƣời xem vào trò diễn. Chú Tễu nhƣ ngƣời cầm nhịp buổi diễn thì âm nhạc làm cầu nối từ linh hồn con rối đến ngƣời xem, từng hành động diễn dẫn vào tổng thể trò rối. 14
- Bộ gõ dàn nhạc trợ giúp đắc lực thành công các mảng trò, những đoạn ngừng nghỉ vắng lặng để ngƣời nghe rót từng lời nhân vật, khi ồn ào vui tƣơi rộn ràng không khí hội làng. Trống mõ, sênh, chiêng…tạo nhịp phách gây không khí rộn ràng buổi diễn đầy phấn khích ấn tƣợng. Dàn nhạc chèo chuyển sang hòa tấu diễn rối nƣớc hiệu quả bất ngờ, dù hai hình thức sân khấu khác nhau nhƣng dàn nhạc lại diễn chung một làn điệu bài bản, đây đặc điểm tính co rãn nội dung phong phú âm nhạc dân gian. Rối nƣớc Bắc Bộ phổ cập diễn với ca nhạc chèo, ngay phƣờng rối Đồng Ngƣ Bắc Ninh sinh ra từ làng Quan họ không thể hát quan họ thay các làn điệu chèo. Phƣờng rối nƣớc Đồng Ngƣ chỉ một nét riêng hát quan họ mời trầu, nay thành lề lối hát phổ biến tại các đoàn, nhà hát múa rối chuyên nghiệp đến phƣờng rối dân gian. Rối nƣớc cổ hòa nhập nhịp sống thời đại mới, âm nhạc đã biến hóa vào các trò diễn hát quan họ, ả đào, chầu văn, thậm chí cả dân ca vùng miền vì công chúng xã hội đƣơng đại. Âm nhạc là công cụ đắc lực trong việc thể hiện tâm tƣ tình cảm của con rối vô tri mà dẫu có lời thoại cũng không thể truyền tải hết. Âm nhạc gắn kết các trò diễn với nhau, tạo cho ngƣời xem không có cảm giác bị đứt đoạn giữa các trò diễn, truyền tải đƣợc hết nội dung tạo sự giao lƣu giữa con rối và ngƣời xem. Nhạc cụ chính đƣợc sử dụng là trống, não bạt, pháo (ngày xƣa) cũng là một âm thanh hỗ trợ đắc lực. Múa rối cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi biểu diễn trong không gian ngoài trời, trong các lễ hội làng ồn ào náo nhiệt. Cho đến ngày nay, đã có nhiều phƣờng rối sử dụng băng đĩa nhƣng nhƣ vậy đã làm giảm đi sự hấp dẫn của nghệ thuật múa rối nƣớc. Bởi tiết tấu của nhạc sống gây hƣng phấn đến ngƣời xem, nghệ nhân điều khiển con rối theo âm nhạc lúc thì nhẹ nhàng, lúc thì sôi động, mãnh liệt. Nếu thiếu âm nhạc, không khí của 15
- cả chƣơng trình sẽ thiếu đi tính hấp dẫn. Âm nhạc đóng vai trò quan trọng, đứng thứ hai sau kỹ thuật biểu diễn và làm nên giá trị của nghệ thuật dân gian độc đáo này. Ngôn ngữ, cách thể hiện của sân khấu chèo đƣợc áp dụng triệt để vào nghệ thuật biểu diễn múa rối nƣớc. Cách độc thoại rối trên sân khấu không đơn thuần là những lời thoại mà đã đƣợc thể hiện bằng cách nói có vần, có điệu của nghệ thuật sân khấu chèo. Tiếng trống “sấm nở” của phƣờng Nam Chấn xƣa nay còn đƣợc nhiều ngƣời truyền tụng. Với việc đƣa âm nhạc, nghệ thuật sân khấu chèo, tuồng vào trong biểu diễn đã tạo cho múa rối nƣớc một diện mạo mới đáp ứng đƣợc nhu cầu thƣởng thức nghệ thuật biểu diễn dân gian của khán giả. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công cho các tích trò, đó là kịch bản dàn dựng ở mỗi vở diễn. Nghệ thuật múa rối nƣớc ra đời bắt nguồn từ những trò chơi dân gian, gắn với những ngƣời dân lao động. Do điều kiện tự nhiên và công việc nhà nông, múa rối nƣớc đƣợc xây đắp hình thành từ tâm tƣ tình cảm của ngƣời dân lao động, tái hiện cuộc sống và ƣớc vọng của thời đại. Nội dung các tích trò cổ thƣờng ca ngợi tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, truyền thống tƣơng thân tƣơng ái, uống nƣớc nhớ nguồn mang đầy ý nghĩa nhân văn sâu sắc đƣợc thể hiện qua các tích nhƣ: Chọi trâu; Dệt vải trao con; Cáo bắt gà; Đánh cá; Câu ếch… Con rối là những vật vô tri vô giác qua bàn tay khéo léo của con ngƣời tạo hóa đã làm cho con rối cử động vô cùng linh hoạt nhƣ một con ngƣời. Lời loại trong rối nƣớc truyền thống là các bài văn vần, biền ngẫu, không theo hình thức quy củ. Hình tƣợng nêu lên thƣờng mƣợn từ các điển tích sử sách cổ xƣa. Hiện nay, phƣờng còn khoảng 16 tích trò cổ truyền nhất và rất nhiều tích trò hiện đại kể về những sự tích dân gian, cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân Việt. Nội dung các tích trò xoay quanh đề tài về sinh hoạt đời 16
- thƣờng, lễ hội truyền thống, những câu chuyện mang tính thời sự cao: múa rồng, đấu vật, chọi trâu, đi cấy bắn máy bay, chú Tễu kể chuyện biển Đông… Có thể nói, múa rối nƣớc là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc đƣợc xem là báu vật của văn hóa dân tộc, là “linh hồn của đồng ruộng Việt Nam”. Nghệ thuật múa rối nƣớc là một loại hình sinh hoạt văn hóa truyền thống lâu đời của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc vùng châu thổ sông Hồng. Thông qua trò rối nƣớc ngƣời xem cảm nhận đƣợc sắc thái của hội làng, cuộc sống bình dị của làng quê, sự chịu thƣơng chịu khó của những ngƣời nông dân. Đó chính là hơi thở cuộc sống làng quê Việt, là biểu tƣợng cho ƣớc mơ của ngƣời Việt. 17
- 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 2.1. Hoạt động của các đơn vị biểu diễn múa rối nước 2.1.1. Phường rối dân gian Phƣờng rối dân gian là tập hợp những ngƣời sống chung trong một cộng đồng làng xã. Họ thƣờng có quan hệ thuyết thống với nhau. Nghề làm rối nƣớc thƣờng đƣợc truyền từ đời này sang đời khác. Các tò rối nƣớc cổ truyền trong các phƣờng rối truyền thống thƣờng đƣợc lƣu giữ bằng cách truyền miệng. Những kĩ thuật biểu diễn độc đáo cũng đƣợc giữ làm bí quyết riêng của từng phƣờng rối. Tuy nhiên, các phƣờng rối cổ truyền thƣờng không biểu diễn không thƣờng xuyên. Nội dung và kĩ thuật biểu diễn thƣờng chỉ đƣợc truyền cho con trai, những kĩ thuật có thể bị thất truyền vì chỉ đƣợc lƣu trong trí nhớ của các nghệ nhân. Nhƣ vậy khả năng mai một các giá trị cổ là rất cao. 2.1.2. Phường rối tư nhân: Hình thức tổ chức mới đƣợc hình thành, chủ yếu là ngay chính tại gia đình của một số nghệ nhân múa rối nƣớc hoặc những ngƣời yêu múa rối. Đặc điểm của các sân khấu này thƣờng có diện tích nhỏ hơn các phƣờng rối chuyên nghiệp. Các xuất diễn thƣờng đƣợc tổ chức theo nhu cầu và thị hiếu của ngƣời xem. Đặc điểm các quân rối phụ thuộc vào kích thƣớc của sân khấu nên chúng thƣờng chỉ bằng một nửa hoặc bằng 2/3 so với kích thƣớc của các quân rối thông thƣờng. Nhƣng kĩ thuật biểu diễn và kĩ thuật máy móc trong quân rối thì hầu nhƣ không thay đổi. Điều khác biệt lớn nhất tại các phƣờng rối tƣ nhân này là kịch bản biểu diễn. Nhiều trò diễn 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 263 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 305 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 154 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 146 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 158 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 122 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn