intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học dân gian: “Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa nhìn từ góc độ văn học và văn hóa dân gian

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:146

46
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở những nguồn tư liệu của các tác giả đi trước và giá trị hiện có của di tích – lễ hội đền Tống Trân, luận văn tập trung khảo sát các yếu tố văn học dân gian trong truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa trên các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, đồng thời chỉ ra ý nghĩa vai trò của truyện Tống Trân – Cúc Hoa trong đời sống dân gian qua việc khảo sát lễ hội đền thờ Tống Trân. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học dân gian: “Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa nhìn từ góc độ văn học và văn hóa dân gian

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ******** TRỊNH THỊ PHƢƠNG HOA TRUYỆN THƠ NÔM TỐNG TRÂN – CÚC HOA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA DÂN GIAN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học dân gian HÀ NỘI – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ******** TRỊNH THỊ PHƢƠNG HOA TRUYỆN THƠ NÔM TỐNG TRÂN – CÚC HOA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA DÂN GIAN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 60 22 01 25 Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Chí Quế HÀ NỘI - 2015
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài: .................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. .....................................................3 4. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................4 6. Bố cục luận văn ....................................................................................4 Chƣơng 1: KHẢO SÁT CÁC DẠNG TỒN TẠI CỦA TRUYỆN THƠ 5 TỐNG TRÂN – CÚC HOA ........................................................................5 1.1. Tổng quan về đề tài, cơ sở lý luận và thực tiễn: ............................5 1.2. Các dạng lƣu truyền của truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa: ........8 1.3. Làng An Cầu kể chuyện Tống Trân – Cúc Hoa ............................9 1.3.1. Tổng quan về làng An Cầu và xã Tống Trân................................9 1.3.2. Sự tích về Tống Trân – vị thần được thờ trong đền....................27 1.3.3. Tóm tắt truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa. ........................30 1.4. Truyện Trạng nguyên (Lai Chang nguyên). ................................32 1.5. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt của hai dạng văn bản lƣu truyền của truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa. .....................................32 1.5.1. Điểm tương đồng. .........................................................................32 1.5.2. Sự khác biệt. ..................................................................................35 Chƣơng 2: TRUYỆN THƠ TỐNG TRÂN – CÚC HOA NHÌN TỪ ....41 GÓC ĐỘ VĂN HỌC .................................................................................41 2.1. Những yếu tố văn học dân gian trong truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa. .................................................................................................41 2.1.1. Kết cấu, cốt truyện. .......................................................................41 2.1.2. Nhân vật. .......................................................................................49 2.1.3. Yếu tố kì ảo. ...................................................................................57 2.1.4. Ngôn ngữ.......................................................................................62
  4. 2.2. Những yếu tố văn học viết trong truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa ..................................................................................................67 Chƣơng 3: TRUYỆN THƠ TỐNG TRÂN – CÚC HOA NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA DÂN GIAN ............................................................86 3.1. Đền thờ Tống Trân – Cúc Hoa tại làng An Cầu ..........................86 3.1.1 Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đền Tống Trân .........86 3.1.2 Những đặc trưng giá trị kiến trúc, điêu khắc đền Tống Trân. ..88 3.2. Những yếu tố văn hóa dân gian .....................................................92 3.2.1. Lễ hội .............................................................................................92 3.2.2. Phong tục, tập quán ....................................................................123 3.2.3. Tín ngƣỡng .................................................................................124 KẾT LUẬN ..............................................................................................132 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................135 PHỤ LỤC .................................................................................................138
  5. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Truyện thơ Nôm là một hiện tượng văn học, văn hóa độc đáo của dân tộc. Truyện thơ Nôm là loại hình tự sự bằng thơ dùng văn tự Nôm, “phản ánh cuộc sống xã hội thông qua sự trình bày, miêu tả có tính chất hoàn chỉnh vận mệnh, tính cách nhân vật bằng một cốt truyện với hệ thống biến cố và sự kiện” (Nguyễn Thị Nhàn). Truyện thơ Nôm là một loại truyện kể bằng thơ. Do đó, muốn đánh giá đúng giá trị nghệ thuật của truyện thơ Nôm cần phải chú ý đến tính chất truyện kể của chúng. Đó là một nét đặc trưng nghệ thuật của truyện thơ Nôm. Truyện thơ Nôm có sức cuốn hút đặc biệt mạnh mẽ đối với mọi tầng lớp người Việt Nam. Ngay từ thời trung đại, loại hình văn chương này đã được cả cộng đồng quan tâm. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu cũng được đặt ra từ lâu, nhưng kết quả của những nỗ lực này còn hạn chế. Chọn đề tài “Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa nhìn từ góc độ văn học và văn hóa dân gian”, tôi muốn đi tìm hiểu về một loại hình văn học và tác phẩm mà chưa có dịp tìm hiểu nhiều. Qua đó không chỉ hiểu hơn về truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa mà còn tìm ra được những đặc điểm riêng, nét độc đáo của truyện thơ này trong sự so sánh, liên hệ với các thể loại khác của văn học Việt Nam. Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, nằm ở trung tâm của Đồng bằng Bắc bộ, nơi không chỉ nổi tiếng vì truyền thống khoa bảng mà còn là nơi lưu giữ một hệ thống truyền thuyết, lễ hội dân gian phong phú, có giá trị cao, mang đặc trưng của vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng. Lễ hội đền Tống Trân và truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa mang tính truyền thống cao đẹp, tưởng nhớ tới danh nhân văn hóa - tấm gương sáng ngời về tinh thần vượt khó ham học, tài năng đức độ… Do vậy việc nghiên cứu truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa có ý nghĩa rất quan trọng. Việc tìm hiểu truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa sẽ góp phần bổ sung một chút ít tư liệu cho việc sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian nói riêng và văn hóa dân gian nói chung ở làng An Cầu của Hưng Yên; đáp ứng nhu cầu của đời sống tinh thần, tâm linh của cư dân trong vùng. Đồng thời cũng làm sáng rõ 1
  6. một luận điểm mà trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V khóa VIII về việc “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” đã nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Cần phải hết sức coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống”. Hiện nay các công trình nghiên cứu, sưu tầm truyện thơ Nôm, lễ hội đã có những bước phát triển đáng kể song ở các địa phương còn ít được quan tâm. Trong bối cảnh chung đó, truyện thơ Nôm và lễ hội cổ truyền ở làng An Cầu cũng không là ngoại lệ. Với tấm lòng của người con đã được sinh ra và lớn lên trên quê hương đất Trạng, tôi chọn đề tài: “Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa nhìn từ góc độ văn học và văn hóa dân gian” làm luận văn, hi vọng điều đó sẽ giúp tôi không chỉ hiểu rõ hơn vốn văn học dân gian của quê hương mình nói riêng mà còn hiểu đúng và sâu hơn văn hóa dân gian của đất nước mình nói chung; đồng thời phát huy vốn văn hóa dân gian truyền thống trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở địa phương. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mặc dù di tích – lễ hội đền Tống Trân đã tồn tại và phát triển cùng lịch sử của vùng đất, nhưng từ trước cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về truyện thơ Nôm cũng như lễ hội này một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, những nguồn tư liệu liên quan đến sự ra đời, tồn tại của nhân vật Tống Trân cũng ít ỏi. Chúng ta chỉ có thể bắt gặp những bài viết, những tư liệu về tiểu sử, sự nghiệp nhân vật Tống Trân, những tư liệu giới thiệu khái quát về di tích đền Tống Trân. Cho tới nay, tư liệu về di tích lễ hội đền Tống Trân cũng chưa có nhiều, có thể kể tới một số nguồn tư liệu ít ỏi có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài: - Trịnh Như Tấu, “Hưng Yên địa chí” (1934), trong đó có đề cập đến nhân vật Tống Trân, địa danh làng An Cầu và đến Tống Trân. 2
  7. - Hồ sơ khoa học về di tích đến Tống Trân của Ban quản lý di tích và danh thắng Hưng Yên. Trong đó tập trung tìm hiểu: Lịch sử hình thành, tồn tại của di tích, phần lễ hội có đề cập đến thời gian diễn ra lễ hội,… - Cuốn “Văn hóa – văn nghệ dân gian Hưng Yên” của NXB Hội nhà văn – 2005. Cũng viết về lễ hội đền Tống Trân nhưng rất vắn tắt. - Cuốn “Những di tích danh thắng tiêu biểu” của NXB Văn hóa thông tin – 2005. Cũng viết về đền Tống Trân song còn sơ sài. - Trong cuốn “Đại Nam nhất thống chí tập 3” của NXB Thuận Hóa, phần viết địa danh và đền miếu có nhắc đến đền Tống Trân và vài dòng tóm tắt tiểu sử Tống Trân. - Trên báo Hưng Yên – số ra 1640 ngày 01/06/2007 đăng bài: “Ánh sáng văn hóa từ trạng Gầu – Tống Trân” của Nguyễn Đức Can, trong bài viết này tác giả có đề cập đến sự tích Tống Trân – Cúc Hoa, lễ hội và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa, sinh hoạt văn hóa của cư dân trong vùng, nhưng cũng chỉ trong phạm vi một góc của tờ báo. Từ những nghiên cứu sơ bộ các kết quả của những tác giả đi trước, cho đến nay thấy rằng vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa và lễ hội đền Tống Trân. Những tư liệu trên sẽ là những tư liệu bước đầu giúp cho tôi tham khảo, kế thừa, tiếp thu để triển khai đề tài của mình. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố văn học và văn hóa dân gian trong truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa. Phần những yếu tố văn học dân gian tập trung nghiên cứu: cốt truyện, nhân vật, yếu tố kì ảo, ngôn ngữ. Một số tính chất văn học viết trong truyệnnhư: nội dung, nhân vật, ngôn ngữ, không gian, yếu tố trữ tình, mâu thuẫn giai cấp, thể thơ,…. Phần văn hóa dân gian tập trung nghiên cứu: các nghi lễ, trò diễn trong lễ hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng… Luận văn tiếp cận và nghiên cứu di tích đền Tống Trân vì đây là địa điểm diễn ra lễ hội và vị thần được thờ ở đây cũng chính là vị thần được tưởng niệm trong lễ hội. 3
  8. 3.2. Về không gian tập trung chủ yếu nghiên cứu thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Ngoài ra còn mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các di tích khác trong thôn, trong xã có các nhân vật được đón rước về dự lễ hội tại đền Tống Trân. 3.3. Về thời gian, đối với lễ hội, luận văn tập trung nghiên cứu sâu hơn lễ hội đền Tống Trân xưa. Đồng thời nghiên cứu lễ hội đền Tống Trân đã và đang phục hồi hiện nay để tìm ra những tư liệu xưa bổ sung cho lễ hội nay thêm phong phú và mang nét cổ truyền. 4. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những nguồn tư liệu của các tác giả đi trước và giá trị hiện có của di tích – lễ hội đền Tống Trân, luận văn tập trung khảo sát các yếu tố văn học dân gian trong truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa trên các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật, đồng thời chỉ ra ý nghĩa vai trò của truyện Tống Trân – Cúc Hoa trong đời sống dân gian qua việc khảo sát lễ hội đền thờ Tống Trân. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp. Tập hợp, hệ thống hóa tư liệu liên quan để phân tích, đánh giá, đối chiếu, so sánh. Từ việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu dưới góc độ văn hóa học, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa học: Lịch sử, bảo tàng học, mỹ thuật học, dân tộc học,… 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn chia làm 3 chương như sau: Chương 1: Khảo sát các dạng tồn tại của truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa. Chương 2: Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa nhìn từ góc độ văn học và văn học dân gian. Chương 3: Truyện thơ Nôm Tống Trân – Cúc Hoa nhìn từ góc độ văn hóa dân gian. 4
  9. Chƣơng 1: KHẢO SÁT CÁC DẠNG TỒN TẠI CỦA TRUYỆN THƠ TỐNG TRÂN – CÚC HOA 1.1. Tổng quan về đề tài, cơ sở lý luận và thực tiễn: Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học phong kiến Việt Nam. Ðây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng, vì vậy có người gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. Một số ít khác viết theo thể thất ngôn bát cú (thơ Ðường luật), tác phẩm Lâm Tuyền kỳ ngộ thuộc loại này. Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động. Giá trị của truyện Nôm đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng hâm mộ của quần chúng ở nhiều thế hệ. Song hiện tại khi nghiên cứu bộ phận văn học này chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết như: Nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác. Hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong (hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ nào thì chưa xác định được, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã có nhiều người sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỷ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn đưọc các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện Nôm đã có trước. Càng về sau, những bài hát này càng được bồi bổ thêm về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đó bài hát đã được ghi vào trong sách, từ đó chính thức trở thành một truyện Nôm. Nơi thứ hai sản sinh ra các truyện Nôm là các nhà chùa của đạo phật. Ðể tuyên truyền đạo phật cho các tín đồ mà phần đông là không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh phật, hình thức này ngày càng phát triển và nhiều truyện Nôm đã xuất hiện theo con đường này. Trong hai hình thức trên cái nào có trước, cái nào có sau chúng ta vẫn chưa xác định được. 5
  10. Truyện Nôm ra đời và tồn tại với hình thái đầu tiên là truyện Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác, hoặc ghi chép lại những truyện Nôm đã có. Từ đó truyện Nôm viết được xuất hiện. Cũng như mọi hình thái sáng tác, truyện Nôm không phải là đã kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi cái khi xuất hiện đều tồn tại song song với những cái xuất hiện trước hoặc sau nó. Cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học. Bởi vì cho đến nay hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác. Hiện nay chúng ta còn một số lượng khá lớn truyện Nôm không còn tên tác giả và thời điểm sáng tác, người ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh. Nguyên nhân của hiện tượng văn học này? Có ba nguyên nhân. Do tâm lý coi thường các sáng tác bằng chữ Nôm của các nhà nho. Tâm lý này đã ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội kể cả những người sáng tác. Do bị coi thường (bị coi là loại văn học nhảm nhí, nôm na, mách qué) cho nên khi các sáng tác bằng chữ Nôm ra đời tác giả của chúng không được chú ý đến và dần dần bị quên lãng. Do sự cấm đoán, thái độ thù địch của giai cấp thống trị. Ðể tránh búa rìu của bọn chúng, nhiều tác giả đã không dám lưu danh trong sáng tác. Ðây là một nguyên nhân quan trọng. Nguyên nhân văn học: Trước khi được ghi chép bằng chữ quốc ngữ, truyện Nôm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là bằng miệng. Qua một thời gian dài lưu hành từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác nhiều truyện Nôm dần dần mất tên tác giả ban đầu và trở thành tác phẩm khuyết danh, có truyện đã trở nên rất gần gũi với các truyện cổ dân gian. Truyện Nôm có một số lượng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác nhau sáng tác cho nên nội dung cũng như nghệ thuật của nó đều không thuần nhất. Ðể tiện cho việc nghiên cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác 6
  11. nhau. Có thể phân loại theo ba cách sau: Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại (Loại lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian, loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc, loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam); dựa vào nội dung và hình thức (Truyện Nôm bình dân, truyện Nôm bác học); dựa vào mối quan hệ với tác giả (Truyện Nôm hữu danh, truyện Nôm khuyết danh) Cả ba hình thức phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, trong đó hình thức thứ hai là hình thức phân loại có giá trị khoa học. Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của những người bị áp bức chống cường quyền bạo chúa bảo vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ nhân phẩm. Qua cuộc đấu tranh nhiều khi không cân sức ấy, tác giả truyện Nôm bình dân có ý thức làm nổi bật hai vấn đề cơ bản: Tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên bước đường suy vong của nó, đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động. Ngoài ra các tác giả truyện Nôm bình dân cũng thường đưa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ các vấn đề xã hội. Ba vấn đề này được coi là ba đặc điểm chính về nội dung của truyện Nôm bình dân. Ba đặc điểm này cũng đã nói lên rằng truyện Nôm bình dân có một nội dung gần gũi với quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của quần chúng lao động. Về nhân vật, nhà văn quan tâm đến việc dựng câu chuyện, đến hành động chứ không chú ý đến tâm lý nhân vật. Thường nhân vật phản diện thành công hơn nhân vật chính diện. Nhiều nhân vật còn rất đơn giản mặc dù đã đúng về bản chất. Về phương pháp sáng tác, đã có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn nhưng sự kết hợp này còn non nớt vô cùng, nó chưa phản ánh được một cách chân thực quá trình phát triển biện chứng của nhân vật, mỗi truyện đều chưa có được phong cách riêng, nhiều chuyện còn có chung môtip về nhân vật chính diện (nho sĩ nghèo đỗ trạng nguyên, bị ép duyên rồi vì từ chối mà bị hãm hại hoặc đi sứ xa, sau được sum họp). Truyện thơ Nôm còn có một số hạn chế: Thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trong xã hội mới ở khía cạnh đấu tranh bảo vệ tình yêu, hạnh phúc lứa 7
  12. đôi; chưa phản ánh khía cạnh giai cấp thống trị cấu kết với nhau để bóc lột nhân dân về kinh tế, chưa gắn được cuộc đấu tranh giữa những người bị áp bức vào cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong xã hội, ước mơ cuối cùng của tác giả là thay đổi triều đại chứ chưa phải là thay đổi chế độ xã hội. Những hạn chế trên là tất yếu vì sống trong xã hội phong kiến các tác giả không thể thoát khỏi ảnh hưởng nhiều hay ít của tư tưởng thống trị xã hội cũng như không thể vượt qua được hạn chế của lịch sử. Tuy còn có một số hạn chế nhất định nhưng Truyện bình dân vẫn là một bộ phận văn học có giá trị, là vốn quý trong gia tài văn hóa chung của dân tộc. Bộ phận văn học này đã đóng góp tiếng nói vào loại hình tự sự của nền văn học nước nhà. Cùng với các bộ phận truyện Nôm khác, bộ phận truyện Nôm khuyết danh tạo nên một nền rộng rãi để trên cơ sở đó xuất hiện kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. 1.2. Các dạng lƣu truyền của truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa: Truyện thơ Tống Trân – Cúc Hoa từ xa xưa đã được nhân dân rất yêu thích và lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Tuy nhiên, qua mỗi người kể và lưu truyền, truyện đã có ít nhiều thay đổi. Hiện nay truyện được tìm thấy năm dạng lưu truyền: 1. Truyền thuyết về Tống Trân (thần tích làng An Cầu, thần tích làng Phù Anh – xã Tống Trân – huyện Phù Cừ – Hưng Yên) 2. Truyện kể về Trạng Gầu – Tống Trân (Nguyễn Thúc Khiêm kể – Tạp chí Nam phong – số 159, 160 – năm 1931). 3. Truyện cổ (tích) do nhân dân làng An Cầu kể. 4. Truyện thơ nôm “Tống Trân – Cúc Hoa”. 5. Truyện Tống Trân – Cúc Hoa dịch sang tiếng Thái, có tên Truyện Trạng Nguyên. Các bản kể trên tương đối giống nhau, cốt truyện giống với bản được ghi chép trong thần tích làng An Cầu. Chỉ riêng bản Truyện Trạng nguyên của người Thái có một số điểm tương đồng và khác biệt khá thú vị, cho thấy sự giao lưu văn học, văn hóa là không biên giới. 8
  13. 1.3. Làng An Cầu kể chuyện Tống Trân – Cúc Hoa 1.3.1. Tổng quan về làng An Cầu và xã Tống Trân 1.3.1.1. Lịch sử mảnh đất An Cầu An Cầu ngày nay còn có tên gọi là An Đô, tục gọi là làng Gầu. Đây là mảnh đất có con người định cư khá sớm, ngay từ buổi đầu của thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đầu Công nguyên, mảnh đất này thuộc huyện Cửu Diên, quận Giao Chỉ. Thời Tiền Lê đổi thành lộ, địa bàn An Cầu thuộc huyện Khoái Lộ. Đến thời nhà Lý (thế kỷ XI), chia cả nước thành 24 lộ, mảnh đất này vẫn thuộc huyện Khoái Lộ. Khi Trần Thái Tông lên ngôi (năm 1252) đổi thành 24 lộ thành 12 phủ thì An Cầu thuộc huyện Phù Hoa, phủ Khoái Châu. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông bỏ cấp trấn, chia cả nước thành 13 đạo, An Cầu thuộc huyện Phù Dung đạo Sơn Nam. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1742) Lê Cản Tông đổi đạo thành trấn, An Cầu thuộc huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu của Sơn nam Thượng trấn. Đến năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) thành lập tỉnh Hưng Yên gồm 2 phủ, 8 huyện: huyện Đông Yên (Đông An), Kim Động, Phù Dung (Phù Cừ), Thiên Thi, Tiên Lữ thuộc phủ Khoái Châu (trấn Sơn nam cũ), huyện Thần Khê, Duyên Hà, Hưng Nhân thuộc phủ Tiên Hưng (trấn Nam Định cũ) – An Cầu là vùng thuộc Phù Cừ, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trải qua các giai đoạn lịch sử, mặc dù địa giới hành chính của cả nước nói chung, tỉnh Hưng Yên nói riêng cũng đều có sự thay đổi. Song, tên tỉnh Hưng Yên vẫn được giữ nguyên cho đến năm 1968, nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa nhập 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Đến năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập theo quyết định của Chính Phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tách tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên, tách huyện Phù Tiên thành 2 huyện Phù Cừ và Tiên Lữ. Từ sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, nhân dân xây dựng chế độ mới, các xã mới được thành lập trên cơ sở các làng thì An Cầu là một trong 3 thôn thuộc xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Trải qua các giai đoạn lịch sử, mặc dù đã có nhiều lần địa giới hành chính của làng – xã được điều chỉnh để thuận lợi trong việc quản lí, lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng của nhân dân tiến 9
  14. hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ cũng như cho việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương, song tên gọi của làng An Cầu vẫn được giữ nguyên cho đến nay. Theo các cụ trong làng kể rằng : tên gọi An Cầu có nghĩa là sự cầu an, cầu mong cho dân làng có cuộc sống yên ổn, no đủ. Ngày nay địa giới của An Cầu được xác định là vùng đất nằm hoàn toàn trên địa bàn xã Tống Trân - một trong 14 xã, thị trấn của huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên (vốn là đất thuộc tổng Võng Phan, huyện Phù Cừ, phủ Khoái Châu). 1.3.1.2.Đặc điểm vị trí địa lý – điều kiện tự nhiên. - Vị trí: Làng An Cầu nằm ở trung tâm xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Đây là vùng đất khá màu mỡ bởi sự bồi đắp phù sa của dòng sông Luộc (sông Phổ Đà). An Cầu có diện tích đất tự nhiên 389,3 ha có 2 cụm dân cư sống trong đê và ngoài đê, phía Bắc giáp xã Minh Tiến, phía Nam giáp sông Luộc, phía Đông giáp thôn Trà Dương, phía Tây giáp thôn Võng Phan. Từ trung tâm thị xã Hưng Yên, thủ phủ của tỉnh đi theo đường tỉnh lộ 39A đến Chợ Gạo rẽ phải theo đường 39B đến ngã tư trung tâm huyện Phù Cừ rẽ phải theo đường 202 đến ngã tư La Tiến rẽ phải theo đường 201 đi khoảng 4km là tới thôn An Cầu. Về đường thủy, ngược tuyến sông Luộc đi phố Hiến theo sông Hồng đi thủ đô Hà Nội, xuôi sông Luộc đi Ninh Giang (Hải Dương), Kiến An đi ra thành phố Hải Phòng. Có thể nói đến An Cầu bằng cả hai đường thủy và bộ đều rất thuận lợi, đây là điều kiện quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. - Địa hình: Xét về địa hình cả nước, chúng ta thấy duy chỉ có tỉnh Thái Bình và Hưng Yên là hai tỉnh đồng bằng châu thổ Bắc bộ không có rừng, núi; địa hình tương đối bằng phẳng. An Cầu là vùng đất khá bằng phẳng, cốt đất trũng, thuộc diện nhất nhì trong tỉnh -1.5m so với mặt nước biển. Thôn có hai phần diện tích đất khác biệt: phần nằm trong đê (Sông Luộc) là phần cao hơn dùng để cấy lúa, phần diện tích ngoài để được bồi đắp phù sa hàng năm rất màu mỡ dùng để canh tác cây hoa màu ngắn ngày như ngô, đậu, lạc… - Khí hậu: Làng An Cầu nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, một năm có 4 mùa rõ rệt : xuân – hạ - thu – đông. Nhưng có sự phân biệt hai mùa lạnh – 10
  15. nóng : mùa lạnh khô và ấm từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa nóng mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ tháng nóng nhất vào mùa hè là 39 đến 400. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông là 50C. Nhiệt độ trung bình cả năm từ 22 đến 230C. Đặc biệt trong tháng 8 và tháng 9 thường có mưa to gió lớn, đây cũng là tháng thường có bão; tuy nhiên ít khi bão đổ bộ trực tiếp vào vùng này. Do vậy, ảnh hưởng của bão không lớn bằng các vùng ven biển, lượng mưa trung bình năm ở đây từ 1600 đến 1700mml, số ngày mưa trung bình trong năm khoảng 147 ngày. Lượng mưa nhỏ nhất từ tháng 1 đến tháng 4. Tháng 8 có nhiều ngày mưa và lượng mưa nhiều nhất, hàng năm còn có mưa phùn từ tháng 11 đến tháng 4. Vì vậy, khí hậu ở An Cầu nói chung là khá ẩm ướt, độ ẩm trung bình hàng năm là 86%, độ ẩm trung bình trong các tháng đều lên đến 80%, độ ẩm không khí và độ ẩm khô hạn ở đây cao hơn các vùng khác trong khu vực châu thổ Bắc bộ. - Sông ngòi và chế độ nước: Nằm trong khu vực châu thổ Bắc bộ, toàn tỉnh Hưng Yên được bao bọc xung quanh bởi mạng lưới sông ngòi dày đặc. An Cầu là một làng nhỏ song cũng có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phong phú phục vụ sản xuất và đáp ứng nhu cầu tiêu úng vào mùa mưa bão. Đặc biệt và quan trọng hơn cả là sông Luộc (hay còn gọi là sông Phổ Đà, Đà Lỗ) : vốn là phân lưu thuộc sông Hồng ở huyện Hưng Nhân (Thái Bình) và đổ vào sông Thái Bình ở Cao Quý ( Tứ Kỳ - Hải Dương). Toàn bộ sông dài 70km, đoạn chảy qua Hưng Yên có chiều dài 26km (qua làng An Cầu dài 4km), tạo thành giới hạn địa giới tự nhiên về phía Đông và Đông Nam của tỉnh. Sông rộng trung bình 150 đến 250m, sâu từ 4 đến 6m. Từ trước thế kỷ thứ X, nơi hội tụ giữa 3 con sông lớn : sông Hồng, sông Luộc, sông Vị Hoàng, hình thành nên một ngã ba sông (ngã ba Tuần Vường). Từ đây người ta có thể ngược sông Hồng đi thủ đô Hà Nội, xuôi sông Hồng ra ngã ba Tuần Vường (Cửa Luộc) đi Thái Bình, Nam Định ra biển, hay từ ngã ba Tuần Vường theo sông Luộc đi Ninh Giang (Hải Dương), Kiến An (Hải Phòng). 1.3.1.3Thành phần dân cư. Làng An Cầu nằm trong vùng có bề dày lịch sử, điều kiện tự nhiên thuận lợi nên cư dân quần tụ từ lâu đời. Do tính chất của cư dân nông nghiệp cần phải 11
  16. có sự đoàn kết gắn bó cộng đồng, khắc phục thiên nhiên nên người dân nơi đâu rất gắn bó với nhau mặc dù họ không cùng huyết thống. Trong kết cấu của làng Việt, thì dòng họ là một trong những yếu tố quan trọng mặc dù di cư hay chuyển cư, tồn tại và phát triển của dòng họ qua các thế hệ, các thời kỳ đã tạo nên sự hình thành và phát triển của làng xã. Dòng họ là một tập hợp những gia đình có chung nguồn gốc về huyết thống, là một trong những yếu tố quan trọng để cấu thành làng Việt. Thông thường một làng Việt được cấu thành bởi nhiều dòng họ. Nhưng cũng có làng lúc đầu do một dòng họ khai lập lên và tên làng đã mang tên dòng họ đó. Dần dần các dòng họ từ nơi khác đến sinh cơ lập nghiệp theo quan niệm : “đất lành chim đậu” và những dòng họ khai làng, sinh sống lâu đời ở làng là những dòng họ gốc. Điều đáng tiếc là các dòng họ ở An Cầu không giữ được gia phả gốc hay nhà thờ họ để có thể tìm về lịch sử tụ cư của các lớp dân cư ở đây. Làng An Cầu cũng vậy, sự hình thành lên làng An Cầu là lớp dân cư đầu tiên đó là dòng họ Nguyễn, họ đã về đây định cư trước, tiếp đó là họ Phạm, họ Nguyễn Văn, thời gan sau có thêm họ Đào, họ Ngô, họ Đỗ, họ Bùi, họ Trần, họ Bình, thời gian sau nữa có thêm họ Cao, họ Vũ, họ Lê… Điều đặc biệt là các dòng họ dù to hay nhỏ, dù đến sớm hay muộn, dù là dân ngụ cư hay dân bản địa ở trong làng không có biểu hiện của sự căng thẳng thù hằn. Các dòng họ đều có quyền bình đẳng như nhau và chịu sự phân công của làng trong mỗi dịp hội hè trong những công việc của làng – xã. Qua quá trình phát triển, các thế hệ dân cư nơi đây cùng chung lưng đấu cật, cùng xây dựng làng xóm, cư dân ngày càng đông đúc và thân thiện. Hàng năm, cứ đến dịp giỗ họ, các gia đình trong họ lại gặp nhau để phân bổ đóng góp bằng các quy định ra một mức tiền cụ thể để ông trưởng họ của dòng họ tổ chức lễ cúng chung cho cả họ. Đây là một thể chế có đặc điểm giống như các làng xã khác ở đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Tổ chức sinh hoạt của dân cư trong làng lấy nguyên lý lớp tuổi để xác định vị thế xã hội mỗi người theo sự tăng dần của độ tuổi, gắn với những mốc quan trọng trong cuộc đời, lần lượt chuyển lên vị trí cao hơn trong sinh hoạt giáp. Vì vậy, trong giáp cũng có tính dân chủ, tất cả các thành viên trong lớp tuổi đều bình đẳng với nhau 12
  17. về quyền và nghĩa vụ, ở An Cầu các giáp bao gồm trai đinh của các dòng họ chứ không chỉ có ở trong họ. Những quy định đặt ra là con trai mới sinh ra phải làm thủ tục vào hàng giáp. Hàng năm, những gia đình có con trai thì biện lễ nhập giáp vào dịp lễ hội đầu năm; ngôi thứ trong giáp được xác định bắt đầu từ thời điểm nhập giáp. Các thành viên được hưởng quyền lợi của làng thông qua giáp và phải gánh các nghĩa vụ của giáp phân cho. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là làm đăng cai giáp; theo lệ làng thì các giáp đăng cai hàng năm ngoài các công việc trong giáp mình còn phải biện lễ trong dịp lễ hội, giáp đăng cai phải chịu trách nhiệm chính trong việc đồ lễ và việc phục vụ tế lễ rước sách thờ thần. Các giáp trong làng đều có ruộng riêng, hàng năm cho đấu thầu lấy tiền hoặc thóc để dùng chi phí cho các công việc chung, các giáp cho các thành viên cấy cầy và biện lễ theo quy định. Mỗi công việc đều thông qua trưởng giáp và người điều hành công việc trong giáp. Vì vậy, cơ cấu tổ chức của làng truyền thống, giáp đóng vai trò quan trọng, đó là cầu nối giữa cá nhân với làng. Đây cũng là đặc điểm chung của nhiều làng quê vùng đổng bằng châu thổ sông Hồng. Theo số liệu điều tra năm 2008, hiện nay An Cầu có 615 hộ và trên 3000 nhân khẩu. Trải qua bao biến cố của lịch sử, song người dân nơi đây đã từng có truyền thống đoàn kết, thương yêu để sinh tồn. Họ cùng nhau làm ăn, cùng nhau bảo vệ xóm làng, quê hương, cùng nhau chung vui hội hè đình đám và cùng nhau tạo dựng nên những thuần phong mỹ tục nơi đây mang sắc thái văn hóa của quê Trạng. 1.3.1.4Đời sống kinh tế. Trước kia khi hệ thống thủy lợi chưa hoàn thiện An Cầu thường bị ngập úng, lụt vào mùa mưa, bất lợi của thiên nhiên là chính nhưng mỗi khi nước rút đi trên bờ ven bãi sông Luộc là nơi đất phù sa màu mỡ rất thích hợp cho các loại hoa màu, cây mía, cây dâu phát triển và nguồn tôm cá dồi dào. Địa hình, địa thế trên đây của An Cầu đã quyết định cơ sở kinh tế chính của dân làng là nông nghiệp trồng lúa nước. Tính “chiêm trũng” thể hiện rất rõ nét trong nếp sống của dân làng; từ quy trình canh tác, các thao tác kỹ thuật, công cụ sản xuất đến bộ mặt làng xóm, bố trí khuôn viên nhà cửa… Đó là, cày bừa 13
  18. phải cắm vè, đi cấy đi gặt dưới ruộng sâu phải dùng thuyền. Nhà cửa trong vùng đều được tôn cao, bao quanh làng là hệ thống ao, hồ, kênh rạch để thoát nước trong mùa mưa lũ. Dưới thời phong kiến chế độ sở hữu ruộng đất manh mún và cuộc sống vật chất kỹ thuật lạc hậu không hỗ trợ để làm thủy lợi, cải tạo đồng ruộng nên không tạo ra cho nông nghiệp có được năng suất cao. Theo các bậc cao niên trong làng, các loại giống lúa được cấy ở đây là các giống lúa chịu úng như: dâu đen, kén muộn, hom, để chúng có thể ngoi theo triền nước nổi vươn lên để phát triển, song năng suất thấp bình quân mỗi sào ruộng chỉ được 3 cối thóc, mỗi cối 16 đấu, mỗi đấu bằng 1,3kg hiện nay. Những năm mưa thuận gió hòa thu hoạch còn đạt từ 60 - 70kg/sào, những năm thiên nhiên khắc nghiệt năng suất tụt xuống chỉ còn từ 20 – 30kg/sào, có năm mất trắng hoặc thu hoạch không tương xứng với công sức bỏ ra. Ngoài trồng lúa, với lợi thế có đất phù sa màu mỡ ven sông Luộc, dân làng còn trồng ngô, dâu, mía, đậu… thêm nguồn thu nhập cho dân làng và các giống cây này cũng đi vào truyền thuyết của dân làng nơi đây. Các cụ kể: cây mía trồng ở vùng này là cây mía de, thân nhỏ nhưng cao, đốt dài nên rất dễ róc và cho nước ngọt sắc, bà con có thể tự ép mía nấu mật hoặc bán mía cho nhà máy đường. Nghề trồng dâu nuôi tằm ươm tơ đã từng là nghề truyền thống khá nổi tiếng của An Cầu : “ Dù ai buôn đâu bán đâu Không bằng cách cửi gốc dâu làng Gầu” Dân nơi đây kể rằng, nghề trồng dâu nuôi tằm là hết sức công phu. Nghề này trước hết, phải chăm lo cho cây dâu bởi đây là thức ăn duy nhất của con tằm. Ở An Cầu, dâu được trồng chủ yếu ở ven sông Luộc, vì cây dâu rất thích hợp với đất phù sa sẽ cho nhiều lá. Chăm sóc cây dâu từ trồng tỉa đến chặt, bón phân, cải tạo đất, tưới nước, quả là một công việc vất vả, sao cho thân cây dâu cao, lá dâu hái đúng lứa tằm ăn càng sinh lợi nhiều. Một sào dâu tốt có thể đủ nuôi từ 3 đến 4 nong tằm một lứa và một nong tằm cho từ 3 đến 6 kg kén. Một cây dâu cho từ 9 đến 10 lứa lá, một năm cây dâu đốn chặt hai lần, vì tằm rất nhạy cảm với thời 14
  19. tiết, môi trường xung quanh và thức ăn, nếu có bất thường chúng sẽ chết hàng loạt, vì thế trong dân gian mới có câu “nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”. Đời sống của con tằm trong mùa nóng ấm từ lúc trứng nở đến khi làm kén kéo dài từ ba đến bốn lần lột xác (gọi là ngủ một, ngủ hai, ngủ ba và ngủ bốn), mỗi lần lột ngủ khoảng hai ngày rồi lại dậy ăn, ăn xong lại ngủ, sau bốn lần lột xác thì tằm dậy ăn rỗi suốt 7 ngày thì chết. Khi tằm ngủ hoặc chín mà gặp trái gió trở trời thì dễ mất cả chì lẫn chài. Dù nắng hay mưa bao giờ người chăn tằm cũng phải lấy đủ lá dâu cho tằm ăn liên tục cả ngày lẫn đêm. Tằm chín người nuôi phải bắt lên né rơm để tằm làm kén trong ba ngày. Sau khi tằm thành kén người nuôi có thể bóc kén quay tơ. Trước đây, An Cầu làm kén ra chủ yếu để bán, khách đến mua tơ là các lái buôn từ Cẩm Giàng (Hải Dương), Hà Đông (Hà Tây)… đó là nghề một thời đã đem lại nguồn thu nhập khá cao và được bà con trong làng đầu tư nhiều thời gian và công sức. Song những năm gần đây, không hiểu tại sao khi mua trứng tằm về hay bị hỏng, tằm ít nở, khi nuôi thường bị chết hàng loạt, bà con đâm ra nản và cứ càng ngày “gố dâu”, “con tằm” càng rời xa bàn tay bà con nơi đây. Hiện nay, sau nhiều năm cải tạo xây dựng, kết cấu kinh tế truyền thống của An Cầu có nhiều thay đổi đáng kể, mức độ tăng trưởng kinh tế có rất nhiều khả quan. Trước hêt, là trong nông nghiệp: cơ sở kinh tế chính của làng xã đã có những khởi sắc. Nhờ công cuộc làm thủy lợi (làm cống tiêu nước ra sông Luộc, xây dựng, nạo vét sông ngòi kênh rạch…) mà đồng ruộng của làng hiện nay đã trồng hai vụ lúa và một vụ trồng màu tương đối khá, không còn diện tích đồng ruộng nổi trắng nước về mùa mưa như câu ca : “Đồng trắng nước trong rau rong cua kềnh” nữa. Trong khoảng gần chục năm gần đây, An Cầu thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế mà trọng tâm là chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Các giống lúa mới như Hai dòng Q5, Kháng dân 9820 – DV108 , Bắc thơm, Xi… được đưa vào gieo cấy đem lại năng suất cao bình quân đạt từ 170 – 180kg/sào (vụ mùa), và 190 – 200kg/sào (vụ chiêm). Ngoài ra còn có vụ đông với các loại cây hoa màu như : ngô, khoai, dưa xuất khẩu, đậu tương, rau xanh… đưa tổng 15
  20. sản lượng lương thực quy ra thóc của thôn đạt từ 1800 - 2000 tấn, bình quân lương thực đầu người từ 630 – 650kg/người/năm. Ngoài trồng lúa, dân làng còn chủ động thâm canh, xen canh, luân canh nhiều cây thực phẩm như: đậu, lạc, các loại rau xanh như: cà chua, đỗ quả, su hào, cải bắp… Diện tích trồng dâu xưa nay được thay thế bằng cây ngô, một năm hai vụ đem lại lượng lớn lương thực phục vụ cho chăn nuôi như: chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm: trâu, bò, lợn, gà, vịt không ngừng phát triển về số lượng, chất lượng đem lại nguồn thu nhập chính trong cơ cấu kinh tế V-A-C (vườn, ao, chuồng). Hàng chục mẫu ao hồ, đầm được đưa vào sản xuất nuôi cá, hàng năm người dân thu nhập từ nguồn này khoảng vài trăm triệu đồng. Ngoài nông nghiệp, làng còn có khoảng vài trăm lao động đã chuyển sang các công việc khác như : làm nghề (mộc, nề, cơ khí), làm dịch vụ (ăn uống, vận tải, vật liệu xây dựng), chạy chợ buôn bán (lợn, gà, may mặc) và đi làm thuê. Bên cạnh đó một số nghề như: chặt sen, thêu ren, mây tre đan… cũng thu hút, tạo việc làm cho vài trăm lao động lúc nông nhàn. Kinh tế phát triển đem lại đời sống vật chất và tinh thần của người dân dần khá lên; theo số liệu thống kê của Ban quản lý Hợp tác xã năm 2008 có 89.5% hộ gia đình có đời sống kinh tế ổn định và phát triển, nhiều hộ gia đình giàu, không có hộ đói; 100% hộ gia đình có nhà ngói, nhà mái bằng, nhà tầng. Trên 90% số hộ gia đình có ti vi màu, 60% hộ có xe máy, 70% hộ gia đình có điện thoại. Bình quân thu nhập tính theo đầu người năm sau cao hơn năm trước : năm 2007 là 6,1 triệu đồng/người/năm, năm 2008 là 6,9 triệu/người/năm. Nhìn vào những con số thống kê trên ta thấy mức sống của bà con làng An Cầu thuộc loại trung bình khá so với các làng trong vùng. Mặc dù vậy, An Cầu là một làng nông nghiệp, trồng trọt vẫn là chủ yếu, tuy vẫn có thêm một số nghề phụ như: chăn nuôi, làm nghề dịch vụ và buôn bán nhỏ. Cũng như các làng quê khác trong tỉnh, An Cầu trong những năm gần đây có nhiều biến đổi đáng kể mang lại bộ mặt mới cho một vùng quê có bề dày lịch sử. Khi đất nước đang chuyển mình trong thời kỳ mở cửa, giao lưu và hội nhập, với những biến động lớn về kinh tế - chính trị và xã hội đã làm cho bộ mặt kinh tế, đời sống nhân dân 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2