intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

28
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở kế thừa những ý kiến, quan điểm văn học của những nghiên cứu trước đây, luận văn sẽ hệ thống hoá những biểu hiện đặc sắc của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh trong dòng chảy chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ PHƯƠNG NGA ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội 2008
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ THỊ PHƯƠNG NGA ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 Chuyên ngành : Văn học Việt Nam. Mã số: 60 22 34. LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS LÝ HOÀI THU Hà Nội 2008
  3. MỤC LỤC Trang LỜI CÁM ƠN.............................................................................................. 4 MỤC LỤC................................................................................................... 5 PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................... 7 1. Lí do chọn đề tài...................................................................................... 7 2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................... 9 3.Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu................................................................ 15 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu................................................................... 15 3.2. Phạm vi nghiên cứu...................................................................... 15 4.Nhiệm vụ và đóng góp mới của luận văn................................................. 16 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................... 16 4.2.Đóng góp mới của luận văn.......................................................... 16 5.Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 16 6. Kết cấu của luận văn................................................................................ 17 CHƢƠNG 1 : DIỆN MẠO VÀ CÁC KHUYNH HƢỚNG CỦA TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN 1975 – 1985.......... 18 1.1. Nhìn lại chặng đƣờng của tiểu thuyết những năm chống Mĩ cứu nƣớc............................................................................................................. 18 1.1.1 Sự mở rộng dung lƣợng phản ánh và qui mô của tiểu 18 thuyết........................................................................................................... 1.1.2. Sự phát triển về chiều sâu nhận thức và phản ánh hiện thực chiến tranh.................................................................................................... 20 1.1.3. Cảm hứng ngợi ca mang đậm tính chất sử thi........................... 22 1.2. Sự vận động của văn học Việt Nam những năm 1975 – 25 1985.............. 1.2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam sau thời kì chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc...................................................................................................... 26 1.2.2. Những đổi mới đặt ra trong văn học giai đoạn sau 27 1975........... 1.2.3.Những đổi mới đặt ra từ phía chủ thể sáng tạo.......................... 30
  4. 1.3. Vài khuynh hƣớng của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh giai đoạn 1975 – 1985.............................................................................................. 33 1.3.1. Khuynh hƣớng trữ tình – Sử thi tiếp tục đƣợc duy 33 trì................ 1.3.2. Vấn đề thế sự - đời tƣ bƣớc đầu đƣợc phản ánh. ...................... 34 CHƢƠNG II: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ HÌNH TƢỢNG NGƢỜI LÍNH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 38 – 1985... 2.1. Hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985............................................................................................................. 39 2.1.1. Hồi ức chiến tranh..................................................................... 40 2.1.2. Phân tích hiện thực chiến tranh................................................. 42 2.1.3. Chiến tranh với những vấn đề của cuộc sống 48 mới..................... 2.2. Hình tƣợng ngƣời lính trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985........................................................................................................ 54 2.2.1.Sự chuyển dịch từ nhân vật lí tƣởng tới nhân vật tích cực......... 55 2.2.2.Nội tâm của ngƣời lính bƣớc đầu đƣợc khai thác...................... 59 2.2.3. Tình yêu và cuộc sống riêng tƣ................................................. 64 CHƢƠNG III: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VIỆC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG TIỂU THUYẾT GIAI ĐOẠN1975 – 1985.................................................................................... 69 3.1.Sự chuyển tiếp trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết................................. 69 3.1.1.Từ cấu trúc lịch sử – sự kiện sang cấu trúc lịch sử – tâm hồn... 70 3.1.2. Từ cấu trúc đóng đến cấu trúc mở............................................. 76 3.2. Thời gian và Không gian nghệ thuật..................................................... 82 3.2.1.Thời gian – Không gian liền mạch và mang tính thời sự........... 82 3.2.2.Sự xuất hiện của kí ức................................................................ 87 3.3. Giọng điệu trần thuật – Sự tổ chức những tiếng nói khác nhau trong 89 tác phẩm. ....................................................................................................
  5. 3.3.1.Ngƣờikể chuyện – Tác giả........................................................ 89 3.3.2. Độc thoại nội tâm – Vùng đặc thù của tiếng nói nhân vật........ 93 KẾT LUẬN.................................................................................................. 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 101
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Chiến tranh là một đề tài lớn trong văn học từ trƣớc tới nay. Sự hiện diện của đề tài này trong văn học chính là sự phản ánh sinh động nhất bức tranh hiện thực cuộc sống trong những giai đoạn lịch sử đặc biệt của từng dân tộc và của cả loài ngƣời. Soi chiếu vào cả hai nền văn học phƣơng Tây và phƣơng Đông chúng ta đủ thấy sự chi phối lớn lao của đề tài quen thuộc này. Văn học phƣơng Tây với hàng loạt tên tuổi tiêu biểu đã để lại cho văn học thế giới những tác phẩm đồ sộ và có giá trị nhƣ Lep Tônxtôi với Chiến tranh và hoà bình, Sôlôkhốp với Sông Đông êm đềm, E.M Remarque với hàng loạt tác phẩm Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh, Một thời để yêu, Một thời để chết, Đêm Lisbone, Ba người bạn, Khải hoàn môn... và Hêmingway với Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai... Chỉ chừng đó cũng đủ để thấy đề tài chiến tranh trong văn học phƣơng Tây đã vƣơn tới đỉnh cao của nó. Tất nhiên sự lớn mạnh và những thành tựu của đề tài này trong văn học phƣơng Đông cũng không hề thua kém. Điển hình là văn học Trung Quốc với những pho tiểu thuyết chƣơng hồi nổi tiếng nhƣ : Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am... Đây là những bức tranh rộng lớn, đồ sộ và hoành tráng về hiện thực chiến tranh. Văn học Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo của văn học nhân loại. Hình thành trong những bối cảnh lịch sử đặc biệt, một nghìn năm phong kiến phƣơng Bắc đô hộ, hơn một trăm năm chịu sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, văn học Việt Nam là tấm gƣơng phản ánh trung thành và chân thực hiện thực cuộc sống của đất nƣớc và con ngƣời trong nghìn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam tự nhiên và sinh động, từng bƣớc trƣởng thành qua mỗi chặng đƣờng phát triển của văn học dân tộc. Ở mỗi chặng
  7. đƣờng ấy, đề tài chiến tranh lại đƣợc tiếp cận và phản ánh từ những góc độ khác nhau, theo những cảm hứng khác nhau. Đặc biệt, sau khi hoà bình và thống nhất đất nƣớc (từ tháng 4 năm 1975), văn học vẫn không thôi viết về chiến tranh và càng hăng hái trong nhiệm vụ phản ánh đời sống con ngƣời thời hậu chiến. Lúc này, ngƣời viết đã có những “độ lùi” cần thiết để nhìn nhận về cuộc chiến, để thâm nhập sâu hơn vào đời sống tinh thần của ngƣời lính, vì vậy mà chiến tranh đã trở thành “siêu đề tài, người lính trở thành siêu nhân vật, càng khám phá càng thấy những độ rung không mòn nhẵn” (Chu Lai – Ngƣời lính là một siêu nhân vật – Báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy, 18/ 4/2001). Văn học Việt Nam sau 1975 đã có sự vận động và đổi mới trong cách tiếp cận và chiếm lĩnh mảng đề tài vốn đã trở nên quen thuộc - đề tài chiến tranh - để tạo nên diện mạo và những khuynh hƣớng mới mẻ cho dòng văn học thời hậu chiến, đặc biệt đã gặt hái nhiều thành tựu trong thời kì đổi mới (sau 1986). Chính vì thế, văn học (đặc biệt là tiểu thuyết) giai đoạn này không ngừng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình, của các luận văn, luận án ở trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, từ trƣớc đến nay, bạn đọc và ngƣời nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thƣờng tập trung vào những thời kì lớn có tính chất ổn định nhƣ giai đoạn 1945 -1975; giai đoạn sau 1975 hoặc giai đoạn từ 1986 đến nay... bởi ở những giai đoạn này, diện mạo và khuynh hƣớng văn học cũng nhƣ những thành tựu đạt đƣợc là đậm nét hơn cả. Riêng giai đoạn từ 1975 đến 1985, một giai đoạn ngắn sau khi chiến tranh kết thúc và cũng là giai đoạn chuẩn bị cho công cuộc đổi mới (1986 ) lại chƣa đƣợc quan tâm một cách đầy đủ. Xuất phát từ những lí do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985” với mục đích làm rõ những nét mới trong diện mạo, khuynh hƣớng cũng nhƣ mảng hiện thực chiến tranh trong giai đoạn văn học có tính chất “giao thoa”, “bắc cầu” này.
  8. 2. Lịch sử vấn đề. Văn học Việt Nam sau 1975 đã bƣớc sang một chặng đƣờng mới của tiến trình hiện đại hoá. Trong đời sống văn học, văn xuôi đạt đƣợc nhiều thành công cả về số lƣợng và chất lƣợng sáng tác. Cho nên không có gì lạ khi văn xuôi thời kì này trở thành đối tƣợng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu. Dù trực tiếp hay gián tiếp, khi nhận định về văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng, nhiều ngƣời đã quan tâm đến những sáng tác về đề tài chiến tranh. Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và ngƣời lính không nằm ngoài sự vận động chung của văn xuôi. Trƣớc khi bàn đến những ý kiến trực tiếp đề cập đến vấn đề chiến tranh và ngƣời lính trong tiểu thuyết, cần thiết phải kể đến những nhận định khái quát về sự vận động đổi mới của văn xuôi sau 1975. Nhìn chung, văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã đƣợc phân tích ở những phƣơng diện cơ bản, thể hiện quy luật phát triển cuả văn học và hầu hết các ý kiến nghiên cứu phê bình đều gặp nhau ở sự khẳng định thành tựu cách tân của văn xuôi thời kì này. Hà Xuân Trường nhận định: “có sự đổi mới thực sự trong văn học” , “dƣ luận rộng rãi tập trung đánh giá mặt tích cực của văn học, chủ yếu là văn xuôi trong những năm gần đây. Chính mặt tích cực đó đại diện cho sự đổi mới văn học” (trả lời P.V Lễ tưởng niệm và hội thảo về Nguyễn Minh Châu, Văn nghệ Quân đội số 3/1994). Nguyên Ngọc viết: “Tình hình sáng tác văn học hiện nay theo tôi có hai mặt: một mặt, mặt chính là rất tốt. Sáng tác văn học của chúng ta đang hay dần lên. Hình nhƣ sáng tác về đại thể đang chuyển lên một bình diện mới cao hơn, sâu sắc hơn, văn học hơn, ngƣời hơn. Tính xã hội rất mạnh mẽ, nhiều khi đến gay gắt, tính nhân văn ngày càng sâu, không dễ dãi, [105]. Nguyễn Quang Thân hào hứng: “Chƣa bao giờ văn xuôi phát triển mạnh nhƣ bây giờ”, “chƣa bao giờ nhà văn đƣợc thành thật nhƣ bây giờ”, [52]. Bàn về văn học từ 1975 đến 1990, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Điều
  9. đặc biệt quan trọng là trong mƣời lăm năm qua, kinh nghiệm văn học của ngƣời sáng tác cũng nhƣ công chúng văn học là một sự kinh nghiệm bừng tỉnh, rõ ràng là có một sự thay đổi trong thị hiếu và nhu cầu văn học.”, [45]. Tính chất bƣớc ngoặt của văn xuôi sau 1975 đƣợc đánh giá gắn với những vấn đề cụ thể hơn trong các bài viết của Nguyên Ngọc, Bích Thu, Vũ Tuấn Anh, Mai Hƣơng...v.v. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng văn học đã cố gắng rút khỏi đề tài số phận chung của cả cộng đồng dân tộc, đi đến hiện thực ngổn ngang và vì thế mà phạm vi quan tâm của văn học ngày càng rộng lớn, phong phú: “Cái tiểu vũ trụ lại chính là một vũ trụ rộng lớn khôn cùng”, [36]. Nguyễn Minh Châu, ngƣời đã có đƣợc những thành công nổi bật ở thể loại tiểu thuyết sử thi trƣớc 1975 cũng đồng thời là nguời nhạy bén với xu thế đổi mới và mạnh bạo với những thể nghiệm văn xuôi hiện đại. Dƣới góc độ lý luận phê bình, ông cũng là một trong những ngƣời có công đầu trong thời điểm chuyển mình có tính chất bƣớc ngoặt khi đƣa ra vấn đề nóng bỏng, đầy tính thời sự bức xúc của nhu cầu đổi mới. Trong bài viết Viết về chiến tranh [19], sau khi đƣa ra những nhận định về đặc điểm cơ bản của văn học 1945 – 1975 trong việc khai thác hiện thực chiến tranh và hình tƣợng ngƣời lính, chỉ ra sự hạn chế của các tác phẩm viết về chiến tranh giai đoạn này là “một chiều, theo hƣớng tích cực, những mặt xấu đƣợc giấu đi trên trang sách”, Nguyễn Minh Châu đặt ra vấn đề thể hiện “con ngƣời” trong văn học, kêu gọi những cái nhìn mới, chân thực hơn về chiến tranh, đào sâu chất nhân văn, nhân bản từ đề tài chiến tranh. Luận đề đổi mới của Nguyễn Minh Châu tiếp tục đƣợc đẩy lên mức gay gắt trong bài viết “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ”, [19]. Bàn về văn xuôi chiến tranh, Đinh Xuân Dũng đã có những nhận định xác đáng khi chỉ ra “sự xuất hiện tính đa dạng của phuơng thức khái quát hiện thực
  10. chiến tranh và tính đa thanh của việc đánh giá hiện thực” của văn xuôi sau 1975; đồng thời nói đến sự “khái quát vĩ mô” và “khái quát vi mô” đối với đề tài chiến tranh nhƣ là hai khuynh hƣớng cùng song tồn. Tất nhiên sự song hành hai khuynh hƣớng này giảm dần kể từ đầu thập kỉ 80, “khái quát vĩ mô” dần nhƣờng chỗ cho “khái quát vi mô”, văn xuôi viết về chiến tranh hƣớng tới những số phận cá nhân, những biến động phức tạp tinh vi của thế giới tinh thần, [25]. Bích Thu đã phân tích sự vận động đổi mới theo từng chặng và cho rằng văn học từ sau 1975 có thể chia thành hai giai đoạn: Từ 1975 đến 1986 văn học vẫn phát triển theo quán tính cũ, đầu những năm 80 văn học đã có một số tín hiệu đổi mới nhƣng phải từ 1986 trở đi văn học mới khởi sắc và đổi mới ở nhiều lĩnh vực. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định về sự chuyển mình từ tƣ duy sử thi sang tƣ duy tiểu thuyết; theo đó, đề tài chiến tranh cách mạng, lịch sử và dân tộc dần dần nhƣờng chỗ cho đề tài thế sự - đời tƣ, [145]. Vũ Tuấn Anh trong bài viết Văn học đổi mới và phát triển [1], đã đƣa ra nhận định tính chất dân chủ hoá nhƣ một xu hƣớng vận động của văn học sau 1975 và chỉ ra rằng chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và chủ nghĩa yêu nƣớc là những thƣớc đo cơ bản nhằm đánh giá văn học suốt một thời gian dài đƣợc vận dụng một cách uyển chuyển và mở rộng hơn, chủ nghĩa nhân văn cũng tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy những thể nghiệm nghệ thuật theo khuynh hƣớng dân chủ hoá. Khi nhận xét về tiểu thuyết Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), nhà phê bình Đặng Quốc Nhật nhận xét: “Đất trắng gợi ra cho chúng ta những suy nghĩ mới cho tiểu thuyết về đề tài chiến tranh lúc này. Ở đây ngƣời đọc thấy đƣợc sự dữ dội của cuộc chiến đấu giữa ta và địch, những thiệt hại nặng nề của ta, những vùng đất trắng, sự chịu đựng đế mức ghê gớm, cái giá của chiến công và chiến thắng cuối cùng.”. Có lẽ nhận xét này không chỉ đúng với trƣờng hợp của tiểu thuyết Đất
  11. trắng mà còn là đặc điểm nội dung của đa số các tiểu thuyết mƣời năm đầu sau 1975. Trong bài viết Chiến tranh trong các tác phẩm văn chương được giải, [79]; Tôn Phƣơng Lan đã nhận xét: “văn học viết về đề tài chiến tranh trong những năm chiến tranh ít nói về buồn vui của cuộc sống thƣờng nhật, ít nói về những đau thƣơng, mất mát, hi sinh trên chiến trƣờng, ít quan tâm đến số phận con ngƣời mà tập trung quan tâm đến số phận đất nƣớc. Sau chiến tranh, văn học viết về đề tài này mới có “xu hƣớng viết về sự thật của đời sống, viết về những khó khăn, ác liệt, những sai lầm, vấp ngã, thiếu sót của ngƣời lính trong chiến tranh cũng nhƣ trƣớc sự cám dỗ của cuộc sống đời thƣờng”; hiện thực chiến tranh đã đựơc nhìn nhận qua thế giới nội tâm, những số phận cá nhân con ngƣời. Ở một tầng bậc khác, nhà văn Hồ Phƣơng xem quá trình vận động của văn học về chiến tranh sau 1975 nhƣ là “sự trở về của nguyên lí: Văn học là nhân học”. Theo ông, văn học sau 1975 chủ yếu là khám phá và biểu hiện tâm hồn, tính cách, sức sống của con ngƣời qua những số phận rất khác nhau trong muôn vàn sự kiện xảy ra trong cuộc sống”; và “Để đi sâu vào số phận con ngƣời, không ít tác giả đã đi sâu viết về các bi kịch cá nhân nằm trong bi kịch chung của dân tộc trong cuộc chiến. Qua những bi kịch ấy, tính cách và bản ngã của con ngƣời đã đƣợc bộc lộ rõ”, “càng đi sâu vào con nguời, văn học ta càng gần tới bản chất cuộc sống, do đó tính nhân văn cũng cao hơn”, [124]. Nhà văn Xuân Thiều, trong bài viết Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng [125], nhận định: “Nhân dân ta đã trải qua nửa thế kỉ chiến tranh, nên sự biến động xã hội sẽ vô cùng lớn lao. Nó chi phối số phận từng con ngƣời, cả trong chiến tranh và thời hậu chiến. Nó vẫn là một vấn đề lớn của con ngƣời Việt Nam không chỉ trong quá khứ mà còn cả trong hiện tại và cả tƣơng lai nữa”. Ông cũng phê phán cái nhìn cực đoan, đối lập giữa văn
  12. học thời chiến với văn học thời bình; những nhận định về văn học thời chiến tranh đƣợc ông rút ra từ chính thực tiễn sáng tác của mình đã tỏ ra giàu sức thuyết phục. Nhà văn cũng rất sắc sảo khi đƣa ra nhận xét về những tác phẩm viết về chiến tranh của những cây bút cổ vũ hết mình cho công cuộc đổi mới: “Những tác phẩm viết về chiến tranh của họ đã khác trƣớc kia, ngòi bút nhà văn đã dấn sâu đến tận cùng hiện thực chiến tranh, đào sâu vào tính cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, phát hiện những vẻ đẹp khác nhau, tái hiện lại khuôn mặt chiến tranh đúng nhƣ nó vốn có”. Bài viết của Xuân Thiều đã phân tích khá toàn diện và sâu sắc những vấn đề của văn học viết về đề tài chiến tranh trong mối tƣơng quan giữa trƣớc và sau 1975. Nhận xét về giai đoạn văn học 1975 – 1985, Hà Xuân Trƣờng đã khẳng định “Nền văn học của chúng ta đang vƣơn tới. Mƣời năm qua là mƣời năm thử thách đối với bản chất xã hội chủ nghiã của nền văn học nƣớc ta”. Và chúng ta đã vƣợt qua “mƣời năm thử thách” bằng những tác phẩm văn học bƣớc đầu manh nha cho một dòng văn học đổi mới. Đúng nhƣ Giáo sƣ Phan Cự Đệ đã tự tin khi đánh giá: “Văn xuôi chúng ta đang bƣớc vào một chặng đƣờng mới với những thành tựu đáng phấn khởi. Nó đang tập trung giải quyết hàng loạt vấn đề mới của chủ nghĩa xã hội trong chặng đƣờng đầu tiên của thời kì quá độ, đồng thời trang trải món nợ tinh thần đối với hai cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc. Văn xuôi cũng đang có những tìm tòi, khám phá đáng kể, đáng khích lệ những đóng góp mới về mặt thể loại và phong cách thể hiện”, (Mấy vấn đề lí luận văn xuôi hiện nay – Tạp chí văn học, 1986 – số 5). Tƣơng tự nhƣ vậy, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng tổng kết trong “Mấy ghi nhận về sự đổi mới của tư duy nghệ thuật và hình tượng con người trong văn học ta thập kỉ qua” rằng: “Nhìn chung có thể khẳng định đƣợc là nền văn học
  13. nƣớc ta thập kỉ vừa qua đánh dấu sự biến đổi đáng kể của tƣ duy văn học và đang ở vào thời kì mới, thời kì hứa hẹn một sự khám phá và tái hiện hình tƣợng con ngƣờinhiều mặt trong tất cả chiều sâu phong phú của nó”. Những đánh giá về văn xuôi sau 1975, cụ thể từ 1975 - 1985, rất phong phú, thậm chí còn có phần bề bộn. Ở đây, chúng tôi không hi vọng bao quát đầy đủ mà chỉ dừng lại ở những ý kiến tiêu biểu, phục vụ trực tiếp cho đề tài. Trên tinh thần đó, có thể tóm lƣợc lại thành một số điểm nhƣ sau: Thứ nhất, nhận định về văn học sau 1975 nói chung hầu hết các ý kiến đều thống nhất là: văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 đã có sự chuyển biến trên nhiều phƣơng diện, trong đó sự đổi mới cách tiếp cận, khai thác hiện thực là điểm quan trọng, thể hiện sự đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật. Theo đó, các ý kiến đều nhấn mạnh đến sự thay đổi trong cảm hứng: từ sự quan tâm đến mảng đề tài mang tính sử thi chuyển sang hứng thú đặc biệt tới những đề tài thuộc phạm vi thế sự, đời tƣ; tiểu thuyết nhờ vậy có diện mạo mới, thể hiện đúng bản chất thể loại của nó. Thứ hai, phần lớn các ý kiến bàn về vận động đổi mới của văn xuôi 1975 – 1985 đều lấy những sáng tác về đề tài chiến tranh làm cứ liệu, xem những dấu hiệu đổi mới từ mảng sáng tác này là biểu hiện nổi bật của sự đổi mới toàn diện của văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Nhƣ vậy, trong tƣơng quan với văn học trƣớc 1945 – 1975, hiện thực chiến tranh trong tác phẩm sau 1975 thể hiện tập trung những đặc trƣng thẩm mĩ mới. Chiến tranh và ngƣời lính đã bƣớc đầu đƣợc đặt trong một hệ quy chiếu khác trƣớc, theo xu hƣớng dân chủ hóa, gắn với ý thức về con ngƣời cá nhân, cá thể; chiến tranh đƣợc phản ánh dƣới cái nhìn đa chiều, đa hƣớng, đặc biệt là từ những năm 80 trở về sau.
  14. Thứ ba, hiện thực chiến tranh, hậu chiến tranh đƣợc mở rộng đào sâu khi nhà văn hƣớng ngòi bút của mình vào đời sống bên trong, bộc lộ diện mạo tinh thần con ngƣời. Nhờ vậy, nhà văn có điều kiện phơi bày đầy đủ toàn diện hơn tính khốc liệt của chiến tranh cũng nhƣ đặt ra đƣợc những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống hiện tại. Những nhận định trên đây là cơ sở để chúng tôi tiến tới xác lập hệ thống luận điểm cho đề tài: - Xu hƣớng vận động chung của văn xuôi 1975 – 1985 chi phối sự thể hiện đề tài chiến tranh và ngƣời lính ra sao?. - Khi bƣớc ra khỏi cuộc chiến để bƣớc vào cuộc sống hoà bình, khi quan niệm về hiện thực quan niệm về con ngƣời đã thay đổi thì chiến tranh đƣợc khai thác trong các tiểu thuyết nhƣ thế nào?. - Những biểu hiện cụ thể nào chứng tỏ sự thể hiện đề tài chiến tranh và hình tƣợng nguời lính là dấu hiệu quan trọng để hình dung hƣớng phát triển của tiểu thuyết?. - Các nhà tiểu thuyết đã khai thác những khía cạnh mới mẻ từ đề tài truyền thống ra sao?. Những vấn đề này sẽ đƣợc lần lƣợt giải quyết trong các phần của luận văn. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Luận văn lấy những sáng tác thuộc thể loại tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và ngƣời lính làm đối tƣợng khảo sát, từ đó khái quát về cách nhìn nhận, khai thác hiện thực chiến tranh, sự thể hiện hình tƣợng ngƣời lính gắn với những dấu hiệu đổi mới về sự phản ánh hiện thực và sự thể hiện nhân vật. 3.2. Phạm vi nghiên cứu.
  15. Về mặt tác phẩm, chúng tôi tập trung vào những tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của những tác giả tiêu biểu, đã tƣơng đối thống nhất trong sự đánh giá chung của dƣ luận. Hơn nữa, “tiểu thuyết giai đoạn 1975 – 1985” là một giai đoạn ngắn ngay sau khi chiến tranh kết thúc, một giai đoạn có tính chất “giao thoa”, “bắc cầu” từ thời kì chiến tranh sang thời kì đổi mới cho nên diện mạo và khuynh hƣớng vận động của tiểu thuyết chƣa thật sự ổn định và nổi bật, thành tựu cũng chƣa nhiều. Vì vậy, trong phạm vi của luận văn chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số sáng tác điển hình của tiểu thuyết trong giai đoạn này. Tuy nhiên, để có thể hình dung đƣợc sự vận động cũng nhƣ tính chất “cầu nối” của giai đoạn 1975 – 1985 thì cần có sự đối chiếu, so sánh với một số tiểu thuyết giai đoạn trƣớc 1975 và cả những tác phẩm thời kì sau đổi mới. 4. Nhiệm vụ và đóng góp mới của luận văn. 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để thực hiện việc khảo sát và nhận diện đối tƣợng, luận văn đặt ra những nhiệm vụ cơ bản sau: - Khái quát diện mạo và các khuynh hƣớng của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh giai đoạn 1975 – 1985. - Phân tích một số vấn đềvề hiện thực chiến tranh và hình tƣợng ngƣời lính trong tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn 1975 – 1985. - Tìm hiểu một số đặc trƣng nghệ thuật của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh giai đoạn 1975 – 1985. 4.2. Đóng góp mới của luận văn. Trên cơ sở kế thừa những ý kiến, quan điểm văn học của những nghiên cứu trƣớc đây, luận văn sẽ hệ thống hoá những biểu hiện đặc sắc của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh trong dòng chảy chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
  16. 5. Phương pháp nghiên cứu. Chúng tôi vận dụng các thao tác của thi pháp học, loại hình học, văn bản học... trong quá trình xử lí các nội dung nghiên cứu. Ngoài ra, các phƣơng pháp cụ thể nhƣ thống kê, so sánh, phân loại, phân tích, tổng hợp... cũng đƣợc kết hợp sử dụng. 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, Luận văn triển khai nội dung thành 3 chƣơng: Chƣơng I: Diện mạo và các khuynh hƣớng của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh giai đoạn 1975 – 1985. Chƣơng II: Hiện thực chiến tranh và hình tƣợng ngƣời lính trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985. Chƣơng III: Một số vấn đề về nghệ thuật trong việc thể hiện đề tài chiến tranh của tiểu thuyết giai đoạn 1975 – 1985.
  17. CHƢƠNG 1 DIỆN MẠO VÀ CÁC KHUYNH HƯỚNG CỦA TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 1.1. Nhìn lại chặng đường của tiểu thuyết những năm chống Mĩ cứu nước. Nói đến chiến tranh là nói đến máu lửa, chết chóc, sự tàn phá, sự hi sinh và muôn ngàn hậu quả đau đớn khác. Đất nƣớc Việt Nam, con ngƣời Việt Nam, hơn ai hết đều cảm nhận rõ ràng và sâu sắc điều này; bởi lẽ, lịch sử dân tộc ta đã phải trải qua biết bao cuộc chiến tranh để bảo vệ đất nƣớc. Song cũng chính từ những năm tháng “khổ nhục nhƣng vĩ đại ” ấy, đội ngũ những nhà văn - những “thƣ kí trung thành của thời đại” đã kịp thời phản ánh một cách chân thực và xúc động những hình ảnh khác nhau về đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam trong chiến tranh. Chúng ta không thể nào quên sự kiện ngày 5 tháng 8 năm 1964, tiếng súng chống Mĩ ở miền Bắc đã nổ và đóng một dấu mốc quan trọng của thời kì cả nƣớc có chiến tranh. Và trong khoảnh khắc ấy, tiếng gọi thiêng liêng của của Tổ quốc nhƣ cùng trỗi dậy trong muôn vàn trái tim của thanh niên Việt Nam, thôi thúc họ lên đƣờng vào tuyến lửa. Trong đội ngũ trùng trùng điệp điệp của những đoàn quân
  18. đang “Xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc”, có không ít những nhà văn mà họ vừa cầm súng chiến đấu vừa cổ vũ động viên chiến sĩ bằng những trang viết của mình. Bên cạnh những thể loại đi đầu nhƣ kí sự và thơ ca, tiểu thuyết những năm chống Mĩ cũng góp một tiếng nói riêng, âm hƣởng riêng tạo ra một dấu ấn đậm nét cho thể loại tiểu thuyết về đề tài chiến tranh. 1.1.1 Sự mở rộng dung lượng phản ánh và qui mô của tiểu thuyết. Trong khoảng hơn mƣời năm kể từ 1964, khi cả nƣớc bƣớc vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc, văn học của chúng ta luôn đứng ở mũi nhọn chiến đấu, bám sát và phục vụ những nhiệm vụ chính trị. Các sáng tác văn học đặc biệt là tiểu thuyết đều cố gắng phản ánh những diễn biến cực kỳ mau lẹ cuả cuộc kháng chiến, rút ngắn đƣợc khoảng cách vốn thƣờng có giữa văn học và sự kiện lịch sử. Những nhà văn hầu hết đều là những ngƣời lính, họ có mặt ở các chiến dịch, các mặt trận; họ vừa chiến đấu vừa cổ vũ đồng đội chiến đấu bằng những tác phẩm văn học của mình. Họ đã viết bằng tất cả nguồn cảm xúc còn vẹn nguyên nơi chiến trƣờng với mong muốn tái hiện thật đầy đủ, thật chi tiết những diễn biến của cuộc chiến đấu. Chính vì thế, nhiều tiểu thuyết giai đoạn này còn mang tính kí sự, nặng về “kể”, “tả”. Nhƣng đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy hơn cả chính là sự mở rộng dung lƣợng phản ánh và qui mô của tiểu thuyết. Các tác phẩm thời kì này viết về nhiều chiến trƣờng, nhiều mặt trận, nhiều quân binh chủng khác nhau cung cấp cho ngƣời đọc một bức tranh tổng hợp về sự trƣởng thành vƣợt bậc của quân đội. Nếu nhƣ Vùng trời của Hữu Mai viết về không quân thì Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu viết về các binh chủng trong một chiến dịch chiến đấu lớn với bộ binh. Nếu Chiến sĩ là chuyện kể của một chiến sĩ xe tăng quân giải phóng thì Những người cùng tuyến viết về những ngƣời chiến sĩ trên tuyến đƣờng vận chuyển ra tuyền
  19. tuyến... Ngoài ra, chúng ta còn có Mẫn và tôi của Phan Tứ, Chớp trắng của Thu Bồn, hai nhà văn miền Nam viết về các chiến sĩ quân giải phóng..v.v. Trong loạt tiểu thuyết này, sự mở rộng dung lƣợng phản ánh còn thể hiện ở chỗ, lần đầu tiên ngƣời lính đƣợc đặt trong bối cảnh rộng lớn của đất nƣớc, gắn hậu phƣơng với chiến trƣờng; gắn số phận một ngƣời với nhiều ngƣời, ngƣời tuyến trƣớc với ngƣời tuyến sau, lớp già và lớp trẻ... Lần đầu tiên ngƣời lính chống Mĩ đƣợc phản ánh nhƣ những nhân vật chính của đời sống, đƣợc đặt ở trung tâm xoáy động của một thời kì lịch sử chứ không phải chỉ ở chiến trƣờng. Bề rộng phản ánh ấy còn ở chỗ tiểu thuyết đã trình bày những mảng hiện thực chiến đấu khá đặc biệt: đó là những con đƣờng trong mây, những trận chiến đấu vƣợt biển... Hậu phƣơng Xã hội chủ nghĩa vững vàng và lớn lên trong chiến tranh cũng đƣợc văn học chú ý đúng mức hơn qua các tác phẩm Đất làng (Nguyễn Thị Ngọc Tú) và Vùng quê yên tĩnh (Nguyễn Kiên). Có thể thấy ở giai đoạn này, văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng thể hiện đƣợc sự phong phú, đa dạng trong cách chiếm lĩnh đề tài và phản ánh nó một cách sinh động. Chiến tranh – một vấn đề không mới song các nhà văn đã làm mới nó bằng cách mở rộng dung lƣợng phản ánh, đem dến cho văn học Việt Nam những diện mạo mới mẻ, đặc sắc. 1.1.2. Sự phát triển về chiều sâu nhận thức và phản ánh hiện thực chiến tranh. Hiện thực chiến tranh, cụ thể là cuộc chiến tranh chống Mĩ là một vấn đề rất lớn mà muốn tái hiện đƣợc bức tranh toàn cảnh của hiện thực, cần phải dựng lên diện mạo của nó mang tính chất tổng hợp: đó là cái dữ dội, khắc nghiệt, cái anh hùng vô cùng đẹp đẽ, những hi sinh to lớn, những chặng đƣờng vô cùng gian khổ, những chiến công vang dội... Nhận thức của con ngƣời thời kì chống Mĩ cũng phải
  20. đặt trong tƣơng quan biện chứng với hiện thực đa dạng trên, tái hiện sinh động những tác động qua lại hết sức tinh vi và phức tạp giữa con ngƣời và hiện thực. Để làm đƣợc điều đó, văn học thời kì này không thể chỉ đơn thuần mở rộng dung lƣợng phản ánh bằng tổng số những sự kiện, biến cố chiến tranh, tổng số hành động mà cần phải vẽ cho ra đƣợc sự vận động biện chứng bên trong con ngƣời và hành động. Tiểu thuyết những năm chống Mĩ đã phần nào cho thấy khuynh hƣớng muốn tìm tòi, lí giải những vấn đề xã hội, nói cách khác là đã có sự phát triển về chiều sâu nhận thức và phản ánh hiện thực chiến tranh, về xây dựng tính cách nhân vật. Cuộc chiến đấu của chúng ta là một sự sàng lọc nghiêm ngặt và vĩ đại những con ngƣời. Không có sự lẫn lộn vàng thau, trắng đen, tốt xấu trƣớc những thử thách quyết liệt trong chiến tranh. Những cặn bã, dối trá, hèn nhát, thoái hoá đã bị sàng lọc ra từ chiến tranh; những cái anh hùng, cao cả, đẹp đẽ đƣợc bộc lộ với tất cả tính chất và màu sắc của nó. Để đạt tới chiều sâu của tác phẩm, cần sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa việc miêu tả hiện thực với quá trình phân tích và lí giải hiện thực. Chiến tranh là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt, không bình thƣờng trong tiến trình cuộc sống, vì thế hiện thực chiến tranh thƣờng không tƣơng đồng với hiện thực đời sống sau chiến tranh và những vấn đề cụ thể đặt ra cho con ngƣời trong chiến tranh cũng rất khác biệt với những vấn đề của con ngƣời trong đời sống bình thƣờng. Để cho việc miêu tả chiến tranh thực sự có tác động đối với hiện tại, các tác giả thƣờng xuyên phải xử lý những vấn đề “xuất phát từ những yêu cầu của hiện tại, tìm ra trong hiện thực chiến tranh những vấn đề gặp gỡ với hiện tại, những mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp giữa quá khứ chiến tranh và thực tại hiện nay. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả bề mặt của chiến tranh với tổng số những sự kiện, biến cố và quá trình của nó thì chắc chắn rằng sẽ không tìm thấy sự gặp gỡ và
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2