Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hư cấu nghệ thuật và sự thực lịch sử qua "Hồ Quý Ly" và "Giàn thiêu"
lượt xem 3
download
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồn 3 chương: Khái niệm tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam; nội dung hiện thực lịch sử qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu; nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly và Giàn thiêu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hư cấu nghệ thuật và sự thực lịch sử qua "Hồ Quý Ly" và "Giàn thiêu"
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ BÍCH HÒA Hư cấu nghệ thuật và sự thực lịch sử qua "Hồ Quý Ly" và "Giàn thiêu" Chuyên ngành: Văn học Mã số : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS. TS.Lưu Khánh Thơ Hà Nội - 2008
- Lê Thị Bích Hoà PHẦN MỞ ĐẦU ************************ 1. Lý do chọn đề tài: 1.1 Những năm gần đây tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử luôn chiếm đƣợc sự quan tâm của bạn đọc cũng nhƣ các nhà nghiên cứu, phê bình. Đặc biệt trong khoảng mƣời năm trở lại đây tiểu thuyết lịch sử có những tìm tòi mạnh dạn hơn, vƣợt qua các quy phạm cằn cỗi đem lại sinh khí cho văn chƣơng nƣớc nhà. Ở đó, có khá nhiều nhà văn đã lỗ lực phác hoạ các bức vẽ toàn cảnh đời sống dân tộc ở những thời đoạn quá khứ nhất định bằng nhiệm vụ của một nhà viết tiểu thuyết. Mà gần đây nhất là hai cuốn tiểu thuyết đƣợc công chúng độc giả cũng nhƣ giới phê bình đón nhận nồng nhiệt. Đọc Hồ Quý Ly và Giàn thiêu, chúng ta cảm nhận ở đó một cách viết sâu sắc, mang đậm dấu ấn cá nhân tác giả. Đồng thời khi đọc tác phẩm, ngƣời đọc thấy rõ tác giả nhận thức và tập trung vào thực hiện những yêu cầu của thể loại tiểu thuyết khi tiếp cận đề tài lịch sử. Đó là trình bày đời sống cá nhân con ngƣời, số phận và tính cách dƣới ngòi bút tiểu thuyết. Sự thực và hƣ cấu đan xen lẫn nhau tạo ra sự liền mạch trong kết cấu tác phẩm giúp ngƣời đọc hình dung đời sống cá nhân con ngƣời, số phận, tính cách của từng nhân vật tạo sức hấp dẫn cho văn bản. 1.2 Chúng ta biết rằng, yêu cầu cao nhất của nhà làm sử là sự chính xác khi mô tả khách quan, khi bình phẩm, nhận định các số liệu, các sự kiện lịch sử với thời gian và không gian xảy ra nó, các nhân vật can dự vào sự kiện, dung mạo hành vi, lời nói điển hình của họ, hậu quả của sự kiện lịch sử đối với thế giới, quốc gia, tỉnh, huyện, xã, thôn, xóm, ... đó là đối tƣợng căn bản của sử học. Tuy vậy, năm tháng trôi đi, ngay cả những pho sử tốt nhất cũng không thể “phất” hết “bụi thời gian” trƣớc con mắt hậu thế. Và khi ấy, văn học có thể làm gì đây? Nó có thể giúp phục hiện lịch sử, làm cho sự kiện xa xƣa trở nên nhƣ đang diễn ra dƣới con mắt lớp sinh sau, làm cho các nhân vật lịch sử nhƣ đang đi lại, nói năng, buồn vui, “thật” hơn cả sử học. Nói -1- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà nhƣ nhà phê bình Đỗ Trung Lai: “khiến người đọc dường như có thể bá vai hoặc ôm hôn họ, ngửi thấy mùi mồi hôi của họ, biết và suy nghĩ về tính cách số phận của họ”[51;315]. Không những vậy văn học còn ““Phán xét” cả lịch sử; “chưng cất lại”lịch sủ, cãi ngầm với sử học về nhân sinh, thế sự... để giúp nhận thức thêm, nhận thức lại lịch sử và số phận con người....” [51; 315-316]. Với một nhà văn, lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù lì. Trong tiểu thuyết lịch sử, quá khứ là lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn nhƣ chủ thể. Đó là thứ quá khứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế hiện tại của chủ thể, với ý thức về giới hạn của sự truy lùng chân lý “khách quan”. Để tái chiếm hữu lịch sử, nhà văn phải nhìn ngƣợc thời gian với quan điểm triết lý (duy vật, duy tâm, biện chứng này nọ), từ đó suy xét phân giải các sự cố, và thậm chí phán xử, cách này hay cách khác, những con ngƣời có tên trong chính sử. Có thể minh oan hoặc buộc tội. Tuỳ nặng nhẹ, nhà văn bắt họ đội mồ đứng dậy. Đó chính là cách mà nhà văn xây dựng các tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử. 1.3 Mảng đề tài viết về lịch sử không phải là một đề tài mới xuất hiện trong văn học Việt Nam mà nó đã có một quá trình phát triển lâu dài trong nền văn học dân tộc, nó luôn là mảnh đất màu mỡ gieo mầm và phát triển cho hạt giống tiểu thuyết. Đây là đề tài luôn thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà văn và bạn đọc. Ta đã biết đến hàng loạt các tiểu thuyết lịch sử viết trong thời kỳ trung đại và tiếp nối những bậc tiền bối, tiểu thuyết hiện đại lại tiếp tục mảng đề tài này với sự góp mặt đông đảo của những cây viết lớn. Nửa đầu thế kỉ XX, ta đã biết đến tên tuổi của những tác giả viết tiểu thuyết lịch sử nhƣ Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Triệu Luật, Chu Thiên.... Cuối thế kỷ XX đầu thế kỉ XIX, là sự kế tiếp của những cây bút đầy tâm huyết nhƣ Hà Ân, Hoàng Công Khanh, Ngô Văn Phú, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Bình Phƣơng, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo.... với hàng loạt những tác phẩm có giá trị, khám phá ra những khía cạnh chƣa đƣợc biết -2- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà tới, những biến động lịch sử đầy lớn lao đƣợc dựng lại. Đúng nhƣ nhà tiểu thuyết nổi tiếng ngƣời Pháp gốc Tiệp Milan Kunđera đã nhận đinh: “Anh không thể kể về hay bàn về lịch sử, nhưng khám phá ra những khía cạnh chưa biết tới của hiện hữu con người. Những biến động lớn lao với anh ta như cái đèn rọi bất thình lình làm sáng tỏ những khía cạnh ẩn dấu và vạch trần chúng ra” [71]. Những bộ tiểu thuyết viết về lịch sử Việt Nam nhƣ: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác; Gió lửa của Nam Dao; Bão táp cung đình của Hoàng Quốc Hải; Người Thăng Long của Hà Ân; Vằng vặc sao Khuê của Hoàng Công Khanh; Dương Vân Nga: Non Cao và Vực Thẳm của Nguyễn Viết Trọng; Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh; Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo... là những tác phẩm có giá trị viết về nhân vật lịch sử với cách khai thác đề tài độc đáo. Trong đó tiểu thuyết Hồ Quý Ly ngay khi mới ra đời đã đƣợc trao nhiều giải thƣởng lớn nhƣ: Giải nhất giải thƣởng Thăng Long năm 2000; Giải thƣởng Hội nhà văn Hà Nội năm 2003; Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam là sự ghi nhận giá trị tài năng của Nguyễn Xuân Khánh. Và một năm sau đó (2004) giải thƣởng Hội Nhà văn Hà Nội đƣợc trao cho cuốn Giàn Thiêu của nhà văn Võ Thị Hảo. Điều này cũng chứng tỏ giá trị của hai tác phẩm. Cả Hồ Quý Ly và Giàn thiêu đều viết về các triều đại Việt Nam (Hồ Quý Ly viết về thời nhà Trần – Hồ; Giàn Thiêu viết về thời nhà Lý) với nhiều biến động, thăng trầm của xã hội. Đây là hai tiểu thuyết có quy mô lớn. Chính vì vậy, chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm trên để qua đó thấy đƣợc thành tựu của tiểu thuyết lịch sử vốn đƣợc coi là dòng chảy ngầm trong Văn học Việt Nam, lặng lẽ song luôn tiềm ẩn sức sống bền bỉ. Hơn nữa hai tác phẩm này xuất hiện gần nhau trong bối cảnh thời kỳ đổi mới của văn học nƣớc nhà với bao thử thách và cơ hội mới. Chúng ta có quyền tự hào về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu. -3- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà 1.4 Hồ Quý Ly và Giàn thiêu ngay từ khi ra đời đã tạo đƣợc tiếng vang trong dƣ luận bạn đọc. Nó đặt ra vấn đề có ý nghĩa đối với sự phát triển của thể loại tiểu thuyết lịch sử. Các ý kiến đánh giá trong hội thảo về Hồ Quý Ly cũng nhƣ Giàn thiêu trên các báo, tạp chí đều khẳng định đóng góp của hai tác phẩm đối với tiểu thuyết lịch sử nƣớc nhà. Nó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa thời sự “ứng nghiệm” với mọi thời đại và có ý nghĩa đối với sự phát triển của thể loại tiểu thuyết trên. Vì vậy, chúng tôi chọn Hồ Quý Ly và Giàn thiêu là cách tiếp cận khoa học để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa sự thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật qua hai tác phẩm này từ đó thấy đƣợc thành tựu của tiểu thuyết lịch sử. 2. Lịch sử vấn đề: Vấn đề sự thực và hƣ cấu trong các tiểu thuyết lịch sử luôn đƣợc các nhà văn, nhà phê bình quan tâm, đề cập tới. Tuy vậy, cho đến nay, còn rất ít các công trình nghiên cứu đề cập tới mối quan hệ giữa sự thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật một cách toàn diện, có tính hệ thống qua các tác phẩm tiêu biểu. Mà hầu hết mới chỉ ở mức độ chung chung hoặc có chăng thì chỉ là những bài phê bình, tiểu luận xuất hiện trên các báo, tạp chí trong và ngoài nƣớc bàn về tiểu thuyết lịch sử. Tuy nhiên chúng ta vẫn tìm thấy những khía cạnh đánh giá, nhận xét khác nhau trong vấn đề nội dung và nghệ thuật của thể loại này. 2. 1. Những ý kiến đánh giá về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam Trong luận án tiến sỹ Tiểu thuyết Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945, dƣới sự hƣớng dẫn của GS. Nguyễn Đình Chú, nhà nghiên cứu Bùi Văn Lợi nhận xét: “Các nhà viết tiểu thuyết lịch sử đã thành công đáng kể trong việc sử dụng chất liệu lịch sử để xây dựng tiểu thuyết. Một mặt trong quá trình sáng tác họ đã cố gắng giữ gìn tính chân thực của lịch sử và đã né tránh được các khuynh hướng chuyển dịch lịch sử một cách đơn thuần vào trong tác phẩm. Mặt khác, các nhà văn đã phát huy trí tưởng tượng phong phú, hư cấu một phần nào đó những sự kiện nhằm lôi cuốn, -4- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà hấp dẫn người đọc tin vào lịch sử và nghĩ rằng bản thân mình cũng có thể làm được như cha ông ta ngày trước...”[47]. Còn theo Nam Dao, một nhà viết tiểu thuyết lịch sử khá thành công thì: “Tiểu thuyết lịch sử mang khả năng phê phán hiên tại qua cách đảo ngược và xoay ngang những sự cố cũng như tính chất, những con người trong quá khứ”.[16] Trong cuộc Toạ đàm về bộ tiểu thuyết triều Trần của Hoàng Quốc Hải, nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng: “Trong bốn chiều cạnh của lịch sử là bối cảnh, sự kiện, con người và tinh thần lịch sử thì nhà văn Hoàng Quốc Hải đã truyền đạt được cái “tinh thần lịch sử” đó là tinh thần quật khởi của dân tộc ta dưới triều đại nhà Trần”.[28] Đoàn Thị Hƣơng trong bài Đọc Tổ quốc kêu gọi suy nghĩ về vấn đề khám phá và sáng tạo trong tiểu thuyết lịch sử, đã đề cập tới: “Sự kết hợp tinh thần nghiên cứu lịch sử nghiêm túc với sự sáng tạo nghệ thuật tương đối linh hoạt, việc vận dụng sử liệu một cách chủ động, sự sáng tạo hình tượng ở tiểu thuyết lịch sử.... lấy dẫn chứng cụ thể ở Tổ quốc kêu gọi, tác giả khẳng định sự thành công cỉa tác phẩm trong một giai đoạn mới”[36]. Đỗ Hải Ninh cho rằng: “Tiểu thuyết Hồ Quý Ly đã có những đóng góp đáng ghi nhận đối với quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết lịch sử; từ việc lấy con người làm trung tâm khám phá lịch sử, khả năng hiện tại hoá lịch sử làm cho nhân vật trở thành nhân vật tiểu thuyết, cái nhìn dân chủ đối với lịch sử cho đến việc tạo nên ngôn ngữ tiểu thuyết giàu cá tính... Về phương diện nghệ thuật, Hồ Quý Ly cũng có những thể nghiêm mới mẻ”[56] Hay nhƣ Nguyễn Phƣơng Chi khi Đọc tiểu thuyết Người Thăng Long của Hà Ân đánh giá tác phẩm ở những phƣơng diện: “Vừa vẽ lại được diện mạo lịch sử, vừa nắm bắt được đâu là các quy luật vận động trong lịch sử, xây dựng những chân dung lịch sử có cá tính, có đời sống và vận mệnh của nhân vật tiểu thuyết”[12]. -5- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Đọc Lịch sử trong quan niệm Nguyễn Huy Thiệp nhà nghiên cứu văn học Vƣơng Anh Tuấn cho rằng: “Những đặc điểm miêu tả trong truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp cho ta liên tưởng tới nhiều hơn đến chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, ở đó có quan niệm nghệ thuật ít nhiều phù hợp với quan niệm lịch sử của anh”[50; 332]. Trần Cƣ trong Đến với Nguyễn Trãi qua Vằng vặc sao Khuê đánh giá: “Hoàng Công Khanh tỏ ra tương đối có bản lĩnh trong việc xây dựng nhân vật Nguyễn Trãi đạt tới tầm cỡ lịch sử, trên nhiều bình diện trong đời sống chung và cả đời sống riêng tư. Tác phẩm có những “miếng” kịch sảng khoái, mới mẻ và sáng tạo”[15] Tác giả Phạm Trọng Luật khi Bàn về tiểu thuyết Gió lửa của Nam Dao, cho rằng: “Gió lửa có thể chuyên chở khá nhiều những vấn đề tư tưởng mà tác giả muốn đưa ra thảo luận. Nó thuộc vào thứ “văn học tư tưởng” chưa mấy phát triển ở Việt Nam, ... Nhìn từ văn bản, Gió lửa không phải chỉ là tiểu thuyết lịch sử. Nếu việc phân tích tác phẩm, từ quan điểm phương pháp với những khái niệm xã hội học của Max Weber, thực tình có thể mang đến cho độc giả đôi chút thích thú, thì đây còn là tiểu thuyết xã hội học.”[46] Phúc An khi viết phóng sự Niềm vui của tác giả Sông Côn mùa lũ đã nhận định: “Trong bối cảnh văn học thời đổi mới xuất hiện một số tác phẩm viết về vua Quang Trung theo lối “nã đại bác vào quá khứ”, thì việc Nguyễn Mông Giác viết hơn 2000 trang tiểu thuyết, xây dựng nhân vật Nguyễn Huệ như một con người ân tình, trung nghĩa, có cốt cách của người tri thức nho học tập hợp được những người tài khác hẳn sáng tác về ông, là một bước đột phá của dòng tiểu thuyết lịch sử với cách nhìn táo bạo và mới mẻ”[5]. Đối với Lê Đình Cai trong bài giới thiệu về tiểu thuyết Dương Vân Nga: Non Cao và Vực Thẳm của nhà văn Ngô Viết Trọng đã khẳng định: “Khi đã gọi là “lịch sử tiểu thuyết” thì tác giả có quyền hư cấu miễn sao -6- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà đừng đẩy nhân vật lịch sử mà mình tái tạo đi quá xa sự thật lịch sử. Giá trị của “lịch sử tiểu thuyết” ngoài tài năng sử dụng điêu luyện ngôn ngữ đương đại của từng nhân vật, ngoài óc tưởng tượng phong phú và kết cấu của câu chuyện li kỳ cùng những đột biết bất ngờ, nhà văn còn phải đạt những kiến thức vững vàng về lịch sử và tâm lý đương đại, nhất là giai đoạn liên quan đến nhân vật mà mình đang xây dựng lại. Nhà văn Ngô Viết Trọng “Dương Vân Nga: Non Cao và Vực Thẳm” đã nâng kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết dựa vào lịch sử lên một tầm cao mới mà tôi nghĩ, nếu ai đọc tác phẩm này rồi, chắc đều đồng ý với đánh giá này”[11]. Trên đây là một số ý kiến ít nhiều đề cập đến thành tựu về nội dung và nghệ thuật của một số tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử Việt Nam của các tác giả trong và ngoài nƣớc. Tuy vậy, các nhận xét còn ở mức độ chung chung, chƣa đi sâu phân tích mọi mặt của tác phẩm một cách hệ thống, nhƣng nó vẫn có ý nghĩa trong việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết lịch sử. 2. 2 Những ý kiến đề cập trực tiếp tới Hồ Quý Ly và Giàn thiêu: Trong bài viết Nguyễn Xuân Khánh tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới ngƣời viết bài khẳng định: “Hồ Quý Ly gần 1000 trang, tác giả của nó như thể đã chọn lối hành văn cổ đẻ thể hiện những câu chuyện xảy ra trong thời cổ, tưởng như khó tìm được tâm đắc vậy mà người ta đọc, có thể đo số lượt người đọc qua số lần nối bản và tái bản, cũng có thể đo qua liên tiếp ba giải thưởng (Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội; giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng Thăng Long của UBND TP Hà Nội). Và khi đọc Hồ Quý Ly người ta thấy tác giả đã dày công cho những nhân vật đàn ông, và đằng sau những nhân vật đàn ông ấy là bóng dáng những đàn bà làm nên tâm trạng họ”. Và khi ấy “Người ta thấy ở Hồ Quý Ly là thời khoảng biến động thượng lưu, mà qua đó bạn đọc thấy được tâm sự nhà văn Nguyễn Xuân Khánh muốn nói với người đương thời về hy vọng đầy phiền muộn của nhà cải cách vĩ đại Hồ Quý Ly – cái mẫu cải cách muôn thuở - cái đau của kẻ tiên phong”[]. -7- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Còn Đỗ Ngọc Yên trong Hồ Quý Ly cách tân hay bạo chúa thì: “Qua Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh không chỉ đem đến cho thể loại tiểu thuyết một sinh khí, nâng vị thế của nó lên một tầm cao mới về nội dung, đề tài, chủ đề và hình thức thể hiện. Nhưng theo tôi, với tiểu thuyết này Nguyễn Xuân Khánh đã vươn lên trên những sự kiện lịch sử, thổi vào đó luồng cảm xúc thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo, làm cho các sự kiện ấy trở nên sinh động hơn, gây hứng thú cho bạn đọc”[77]. Chính tác giả Nguyễn Xuân Khánh khi nhận xét về tác phẩm của mình cũng cho rằng: “Hồ Quý Ly là ý tưởng về sự đổi mới, sự đâu đớn cấp thiết về dự đổi thay của đất nước mình. Còn từ ý tưởng ấy mình thể hiện thế nào để người ta chấp nhận được. Hồ Quý Ly là con người rất phức tạp vì vậy tôi để các nhân vật khác chiếu sáng từ nhiều góc độ và không thành tiếng. Với nhân vật Hồ Quý Ly thì cho đến nay cũng chưa có ý kiến cố định nào thật khen, thật chê. Cố thể nói là xuất phát từ ý tưởng để gọi các chi tiết, các trải nghiệm và cả các ý tưởng khác về”[41] Xuân Cang trong Một cái nhìn xuyên suốt đã nhận xét: “Nguyễn Xuân Khánh là một cái nhìn xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam mang dấu ấn cá nhân Nguyễn Xuân Khánh. Nói cách khác, Nguyễn Xuân Khánh tìm thấy trong thân phận Hồ Quý Ly những tâm sự, tâm trạng, những uẩn khúc của chính cuộc đời mình”[9] Với tác phẩm Hồ Quý Ly Phạm Toàn cho rằng: “Nguyễn Xuân Khánh không vì viết truyện lịch sử mà lệ thuộc vào sự việc, không rơi vào việc dùng tiểu thuyết chỉ để lại viết thông sử nước nhà theo một cách khác. Đây là tiểu thuyết đích thực”.[71] Còn nhƣ nhà văn Nguyên Ngọc “Lâu lắm rồi mới có cuốn tiểu thuyết chứng chạc như thế này. Chọn thời đại Hồ Quý Ly, nhân vật Hồ Quý Ly là đúng. Tác giả nói được nhiều và nói được sâu sắc bởi cách chọn này”.[53] Hoàng Cát thì cho đây là: “một tác phẩm văn học bề thế, sâu sắc, hấp dẫn viết về giai đoạn lịch sử phức tạp của dân tộc- giai đoạn ruỗng nát của -8- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà nhà Trần và nhân vật Hồ Quý Ly. Ta được đọc những trang văn rất đẹp lời, sâu sắc về ý, viết về lịch sử, viết về tình yêu đôi lứa đủ mọi hạng người, viết về nhân tình muôn thủa- mà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã bỏ công sức, tâm huyết hàng chục năm trời, lặng lẽ nhà kén cho đời”[53] Hoàng Quốc Hải đã nhận xét rằng “Hồ Quý Ly là tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bán sát chính sử, văn chương mượt mà, có sức cuốn hút, đọc hết hơn 800 trang vẫn muốn đọc lại”.[28] Phạm Xuân Thạch khi bàn về vấn đề tiểu thuyết mang đề tài lịch sử thì cho rằng: “lịch sử nhiều khi không phải là điểm cuối cùng của một tiểu thuyết. Điểm cuối cùng của một tiểu thuyết như Hồ Quý Ly sẽ không phải là đáp án cho một nghi án lịch sử. Đây là một tiểu thuyết dày đặc những nhân vật với tư cách là những lập trường tư tưởng, những ẩn dụ tư tưởng: những kẻ “bị quỷ ám”(Không khỏi làm ta liên tưởng tới tiểu thuyết Lũ người quỷ ám) của đại văn hao F. Dostoievski) bị ám ảnh bởi những lí tưởng cuồng vọng(Nguyên Cẩn, Hồ Hán Thương; Trần Khát Chân); những lãnh tụ chính trị theo đuổi những lí tưởng công chính (nhân danh sự đổi mởi, nhân danh sự bác ái) nhưng bị giằng xé giữa mục đích và phương tiện để rồi rơi vào môt trạng thái phi nhân(những thủ đoạn phi nhân – kiểu Hồ Quý Ly và sự bạc nhược trước cái ác hoành hành- qua hình tượng hoàng đế thuộc triều đại nhà Trần) và kẻ si, những người thao thức vì số phận cả dân tộc và nhân dân, những kẻ lựa chọn “con đường khổ ải đi về phía nhân dân””[65] Có thể nói, xung quanh tác phẩm Hồ Quý Ly có nhiều ý kiến đánh giá nhận xét khác nhau, nhƣng qua những ý kiến đó ta nhận thấy sự ghi nhận thành công của tác phẩm từ phía độc giả. Và trên nền tiểu thuyết lịch sử, Giàn thiêu của nhà văn Võ Thị Hảo cũng đƣợc đƣa ra bàn luận hết sức sôi nổi ngay từ khi tác phẩm mới ra đời: “Năm 2003, giải thưởng tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam được trao cho cuốn tiểu thuyết Hồ Quý Ly của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Được khởi thảo từ những thập niên 60 và viết lại trong thập niên 90, cuốn sách -9- Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Nguyễn Xuân Khánh viết về triều Hồ, một trong những triều đạii ngắn ngủi nhất trong lịch sử Việt Nam nhưng cũng là triều đại thi hành những chính sách cải cách xã hội táo bạo gây những biến động trong xã hội Việt Nam. Chỉ một năm sau đó, giải thưởng Hội Nhà văn được trao cho cuốn tiểu thuyết Giàn thiêu của nhà văn Võ Thị Hảo, một cuốn tiểu thuyết mà chất liệu lịch sử lấy từ nguồn sử liêu về các triều đại Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông và những huyền tích về nhà sư Từ Đạo Hạnh”[65]. Chỉ bằng một vài lời nhận xét trên, có thể cảm nhân, Giàn thiêu ngay từ khi mới ra đời đã tạo đƣợc tiếng vang lớn trong lòng bạn đọc. Tiếp theo đó là hàng loạt vấn đề trong tác phẩm đƣợc các nhà phê bình, bạn đọc đƣa ra bàn luận. Theo nhà nghiên cứu – nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì: “Đọc Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, một điều tôi dần dần thấy rõ là tác giả hiểu và dồn sức vào nhiệm vụ thực sự của tiểu thuyết khi tiếp cận một đề tài quá khứ”[3]. Có thể nói, tác phẩm Giàn thiêu đƣợc rất nhiều nhà phê bình, nghiên cứu nói tới từ khi mới ra đời. Và trong cuốn Giàn thiêu mới tái bản năm 2007 của NXB phụ nữ, thì những trang đánh giá, phê bình về Giàn thiêu ở ngay đầu quyển sách cũng đủ để độc giả thấy đƣợc giá trị của tác phẩm: “Giàn thiêu- ấn tượng chói và bỏng rát, ngột và xót xa đã xâm chiếm lòng người... viết với Võ Thị Hảo là truyền lửa từ trái tim tìm tới bạn đọc...”[30;5]. Đây có thể coi là lời khen về giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Với cách viết sắc sảo của mình, Võ Thị Hảo đem đến cho ngƣời đọc những cảm giác mạnh nhƣ đang đƣợc đứng trên nền của Giàn thiêu thời ấy. Cùng với việc sử dụng cách viết mang cảm giác mạnh thì việc xây dựng các tuyến nhân vật (cả nhân vật có thực và cả những nhân vật hoàn toàn hƣ cấu) cũng đen đến cho bạn đọc cảm nghĩ “Chị đưa ra những nhân vật “quá khổ” kiểu như người đàn bà có nhan sắc mê hoặc cả Diêm Vương, hoặc có người thánh thiện như phật sống”[30;6]. - 10 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Và cũng nhƣ những tác phẩm trƣớc đây của chị, từ khi tác phẩm mới ra đời thì: “Văn đàn lại xôn xao về cuốn tiểu thuyết lịch sử Giàn thiêu”[30;7]. Bởi: “Võ Thị Hảo – chỉ nhắc đến tên thôi, người ta cũng đã tưởng tượng ra một nhà văn nữ đầy cá tính và gần đây tên tuổi của chị càng đượng nhắc đến nhiều hơn khi tiểu thuyết Giàn thiêu của chị đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội....”[30;6]. Cũng nhƣ vậy: “Giàn thiêu – mặc dù hấp dẫn, nhưng nó là cuốn tiểu thuyết không dễ đọc. Cũng như truyện ngắn của Võ Thị Hảo, cuốn tiểu thuyết này đang đi theo con đường riêng của nó, ngấm dần vào trái tim người ta và những tầng lớp ngữ nghĩa cũng như hình tượng nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này thường trở đi trở lại và ám ảnh người đọc”[30;7]. Lỗi văn chƣơng mệ hoặc, huyền bí này một lần nữa lại đƣợc nhà nghiên cứu- phê bình Phạm Xuân Nguyên đề cập tới khi nhận xét tác phẩm: “Giàn thiêu- xứ sở của lối văn chương mê hoặc và huyền bí” và “... người đọc lại ngạc nhiên thấy mình khám phá ra một lớp ngữ nghĩa khác ẩn mình sau những câu chữ. Đó là lỗi văn được tác giả thổi linh hồn. Linh hồn đó tạo nên những câu văn huyền ảo mê hoặc, thậm chí ma quái”[30;8]. Cũng theo Phạm Xuân Nguyên thì: “Có người so sánh Giàn thiêu với Đàn hương hình của Mạc Ngôn- nhà văn nổi tiếng Trung Quốc. Có người nói rằng Võ Thị Hảo đã quá bạo gan khi dám lật ngược lại nhân vật Ỷ Lan Nguyên Phi. Ý kiến so sánh thì nhiều, nhưng có một điều khá thống nhất là khi cầm Giàn thiêu trên tay, đa số người phải đọc một mạch”.[30;8-9] Qua một vài ý kiến nhận xét, phê bình, có thể nói, cả Hồ Quý Ly và Giàn thiêu đều là những tác phẩm có giá trị vể mặt nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt là mối quan hệ giữa sự thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật thông qua hai tác phẩm tiểu thuyết mang đề tài lịch sử này. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng khảo sát - 11 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Đề tài luận văn là Mối quan hệ giữa sự thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu. Đúng nhƣ tiêu đề của nó, luận văn tập trung vào vấn đề nghiên cứu mặt nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm Hồ Quý Ly và Giàn thiêu đồng thời có sự so sánh giữa các tác phẩm ra đời trƣớc và sau thời chúng, nhằm làm nổi bật thành tựu của tiểu thuyết lịch sử trên nền tảng vững chãi này. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở xác định đối tƣợng nghiên cứu là những tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết lịch sử. Trong đó, Hồ Quý Ly và Giàn thiêu là tâm điểm của sự phân tích, tìm hiểu. Bên cạch đó là sự đối sánh với các tác phẩm khác nhƣ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Đinh Tiên Hoàng của Nguyễn Tử Siêu, Đêm hội Long Trì của Nguyễn Huy Tƣởng, Lịch sử Đề Thám của Ngô Tất Tố, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mông Giác, Gió lửa của Nam Dao... để làm nổi bật giá trị của tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Giàn thiêu nói riêng, các tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử Việt Nam nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để có cái nhìn khach quan, toàn diện về thành tựu của tiểu thuyết lịch sử qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu, sau khi xây dựng hệ thống thuật ngữ và mối liên hệ giữa chúng. Luận văn tiến hành khảo sát, phân loại kết hợp so sánh miêu tả để làm rõ trọng tâm của vấn đề. Bên cạnh đó luận văn cũng vận dụng thi pháp học hiện đại vào phân tích tác phẩm nhằm thấy đƣợc những thành tựu phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Đồng thời phƣơng pháp so sánh sẽ làm rõ sự đổi mới, cũng nhƣ đóng góp của Nguyễn Xuân Khánh và Võ Thị Hảo trong hai tác phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật so với các tác phẩm thuộc thể loại này. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồn 3 chƣơng: Chƣơng 1: Khái niệm tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam - 12 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà 1. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử. 2. Tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam. 3. Vị trí của Hồ Quý Ly và Giàn thiêu trong sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ hiện đại. Chƣơng 2: Nội dung hiện thực lịch sử qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu. 1. Cách khai thác chất liệu lịch sử qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu. 2. Tính chân thực lịch sử và hƣ cấu nghệ thuật qua Hồ Quý Ly và Giàn thiêu. Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly và Giàn thiêu 1. Nghệ thuật kết cấu. 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật. 3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. - 13 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà PHẦN NỘI DUNG ************************* CHƢƠNG I KHÁI NIỆM TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ; TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ Ở VI ỆT NAM 1. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử: 1.1 Tiểu thuyết là gì? Có thể nói việc đƣa ra một khái niệm chung và thống nhất cho một thể loại là vấn đề không đơn giản. Có rất nhiều cách để định nghĩa tiểu thuyết. Bởi trong quá trình vận động và phát triển, diện mạo tiểu thuyết không ngừng thay đổi. Biêlinxki gọi tiểu thuyết là “Sử thi của đời tư” [52; 326]. Còn nhƣ Ralph, hình dung tiểu thuyết nhƣ “thiên trường ca về cuộc đấu tranh của cá nhân với x xã hội, với tự nhiên” [52; 327]. Theo Từ điển văn học: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các kiểu sinh hoạt giai cấp, tái hiện tính cách đa dạng”. [53; 222- 223]. Cụ thể hơn: “Tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư”; “là tái hiện cuộc sống không thi vị hoá, lãng mạn hoá, lý tưởng hoá. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời, đang sinh thành”. [53; 223] - 14 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Từ điển Tiếng Việt : “Tiểu thuyết là truyện dài bằng văn xuôi có dung lượng lớn, với nhiều nhân vật hoạt động trong phạm vi lịch sử, xã hội rộng lớn”[34; 992]. Còn theo nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được triển khai trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” [4]. Tuy những khái niệm trên có nội hàm rộng hẹp khác nhau nhƣng chúng đều cho ta nhận thức chung về tiểu thuyết ỏ một hay nhiều mặt. Chúng tôi đồng tình với cách hiểu nhƣ sau: “Tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư và táI hiện cuộc sống không lãng mạn hoá, không thi vị hoá, lý tưởng hoá. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời. Ngoài ra con người tiểu thuyết là con người nến trải tư duy, chịu đau khổ, dằn vặt của cuộc đời trong khi nhân vật của sử thi, kịch, nhân vật truyện cổ thường là nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thời gian, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật”[53;223]. Và chính bởi những điều trên, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác. 1.2 Tiểu thuyết lịch sử là gì? Nhƣ trên chúng tôi đã trình bày, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại văn học khác. Chính nhờ hiện tƣợng tổng hợp này mà thể loại tiểu thuyết cũng đa dạng, phong phú và vận động không ngừng. Ở đó chúng ta có thể phân ra làm nhiều loại tiểu thuyết. Cụ thể nhƣ: Tiểu thuyết chƣơng hồi, tiểu thuyết du đãng; tiểu thuyết đa thanh, tiểu thuyết lịch sử. Trong đó tiểu thuyết lịch sử chiếm một vi trí khá quan trọng, góp phần làm giàu thêm loại hình tiểu thuyết. - 15 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Vậy thế nào là tiểu thuyết lịch sử? Có ý kiến cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang đặc điểm chung của tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung của lịch sử là đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Sự chính xác đến tuyệt đối như là lịch sử là điều không thể có, bởi ở tiểu thuyết lịch sử, tác giả dựa vào những sự kiện trong quá khứ, hư cấu, tưởng tượng thêm để tạo nên tác phẩm nhằm gây những hứng thú cho người đọc. Tuy đề tài và cảm hứng lấy từ lịch sử song nó không hề né tránh và xa rời những vấn đề thực tại, thời thế hiện tại” [31; 10]. Còn theo Trần Nghĩa trong Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam: “Tiểu thuyết lịch sử cũng gọi là tiểu thuyết “lịch sử diễn nghĩa” gồm các tác phẩm viết về đề tài thông qua việc miêu tả nhân vật và sự kiện tái hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu thế phát triển của lịch sử một thời, nhằm mang lại cho người đọc những khơi gợi bổ ích và mĩ cảm văn học.Về phương diện bút pháp, một mặt dựa vào lịch sử, nhưng mặt khác vẫn cho phép hư cấu trong chừng mực thích hợp, nhằm phát huy trí tưởng tượng làm cho sự chân thực lịch sử được thăng hoa thành chân thực nghệ thuật”.[49] Các nhà nghiên cứu trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng, tiểu thuyết lịch sử là một phần của thể loại văn học lịch sử, lĩnh vực bao gồm các thể loại văn học khác nhau cùng viết về đề tài lịch sử. Trong đó: “Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này có chứa đựng các nhân vật và chi tiết hư cấu, tuy nhiên, nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trong lời ăn tiếng nói, trang phục phong tục, tập quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn chuyện xưa để nói chuyện đời nay, hấp thụ những bài học của quá khứ, bày tỏ sự đồng cảm với những con người và thời đại đã qua, song không vì thế mà hiện đại hoá người xưa, phá vỡ tính chân thực lịch sử của thể loại.”[53; 205] - 16 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Từ những khái niệm trên cho chúng ta thấy, mặt hƣ cấu là không thể thiếu trong mỗi tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Nhƣng sự hƣ cấu đó phải dựa trên cơ sở của sự thực lịch sử, hƣ cấu có mức độ, không cho phép quá đà. Để có thể đạt tới mục đích sự chân thực, chân thực “hơn cả sự thực ngoài đời” hay sự thực đã diễn ra trong lịch sử. Điều đó chỉ có thể xảy ra khi cái thực đƣợc mang tính nghệ thuật. Nghĩa là nhà văn đã cụ thể hoá mà đấy chính là đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết. Chính nó làm nên sức mạnh truyền cảm, chinh phục mạnh mẽ tâm hồm của độc giả khi đọc tiểu thuyết lịch sử. Nhƣ vậy, tiểu thuyết lịch sử là phân loại nhỏ của tiểu thuyết. Nó có đầy đủ những đặc điểm riêng với tƣ cách là một thể loại văn học, nó ƣu tiên cho khả năng hƣ cấu, sáng tạo để “soi sáng những thời kỳ quá khứ con người đã trải qua với mục đích rõ ràng là để gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại. Nó giúp ta làm những bảng so sánh, đối chiếu thời đại nọ với thời đại kia. Tác giả tiểu thuyết lịch sử sử dụng quá khứ như một khí cụ để vẽ lên những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại và do đó làm sáng tỏ hiện tại.” [24]. Năng lực hƣ cấu, sáng tạo của nhà văn sẽ làm cho tiểu thuyết lịch sử là thể loại văn học chứ không phải sử học. 2. Tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam 2.1 Tiểu thuyết lịch sử từ thời trung đại đến nửa đầu thế kỷ XX 2.1.1 Tiểu thuyết lịch sử thời trung đại Nhắc tới văn học trung đại ngƣời ta nghĩ ngay đến thơ phú ca từ, và đây cũng chính là loại hình văn học đƣợc ƣa chuộng nhất trong giai đoạn này. Tuy vậy, văn học trung đại vẫn tồn tại những loại hình văn học viết bằng văn xuôi nhƣ truyện, kí, tiểu thuyết. Trong đó tiểu thuyết lịch sử là một phần nhỏ của loại hình văn học viết bằng văn xuôi thời kỳ này. Tiểu thuyết lịch sử cũng nhƣ các loại hình bằng văn xuôi trong thời kỳ này tồn tại với số lƣợng còn ít. Nhất là giai đoạn trƣớc thế kỷ XVIII, hình thức sáng tạo chủ yếu trong văn học là thơ phú. Các nhà nho có thể đề tặng nhau những chùm thơ, câu đối. Và họ coi đây là thú vui tao nhã của kẻ sỹ. - 17 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà Đến giai đoạn sau thế kỷ XVIII, các thể loại văn học bằng văn xuôi nhƣ tiểu thuyết, truyện, ký...còn rất ít. Tuy vậy, lần dở trong kho tàng văn học thời trung đại ta vẫn thấy những bộ tiểu thuyết lịch sử nhƣ: Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm; Thiên nam liệt truyện bản dịch của Nguyễn Thị Thảo; Hoàng lê nhất thống chí của Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du; Hoàng Việt long ký của Ngô Giáp Đậu; Việt Nam tiểu sử của Lê Hoan; Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu... Mặc dù số lƣợng tác phẩm còn khiêm tốn song hầu hết các tác phẩm này đều có chỗ đứng và có những đóng góp trong văn học lịch sử, đánh dấu sự ra đời và trƣởng thành của văn xuôi tiểu thuyết Việt Nam. Có thể nói, hầu hết các tác phẩm trên đều là tiểu thuyết chƣơng hồi mang đầy đủ đặc tính của thể loại này với nội dung truyện đƣợc diễn giải chủ yếu qua hành vi nhân vật, ít có hƣ cấu tuy đã quan tâm đến miêu tả những số phận bi kịch, nhờ thế văn học có vẻ thoát khỏi sự hạn hẹp về chức năng để tái hiện gƣơng mặt bề bộn, phức tạp của lịch sử. Tuy nhiên, trong hầu hết các tác phẩm, tính cách và tâm lý nhân vật ít đƣợc đề cập đến. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật mang tính ƣớc lệ, truyện đƣợc kể theo trình tự thời gian tuyến tính. Thiên nam liệt truyện đƣợc coi là tiểu thuyết đầu tiên của Bắc Hà. Về nội dung, đây là tác phẩm hi hữu viết về cuộc nội chiến Lê - Mạc. Ở đó, vấn đề kẻ sĩ, ngƣời trí thức phải đối mặt với chữ trung đƣợc đặt ra. Nhiều nhân vật đã phải phân thân trong thế lƣỡng nan. Và khi Hoàng Lê nhất thống chí ra đời, nó đã đánh dấu sự phát triển thêm một bậc của tiểu thuyết lịch sử. Nhân vật trở nên đa dạng và phong phú hơn. Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán và là đỉnh cao của thể loại này. Tác giả đã có cách nhìn nhận và thái độ lịch sử hết sức tỉnh táo, không bị thiên kiến chi phối. Hằng trăm nhân vật nhƣ Nguyễn Huệ, ông vua già Hiển Tông... đã thoát khỏi “vai lịch sử” trở thành nhân vật văn học với nhân cách và cá tính khá nổi bật. Giọng điệu của nhân vật có sự pha trộn hài hoà giữa cái bi tráng và hài hƣớc, đây có thể coi là thành công quan trọng của tác phẩm. Nó đã - 18 - Luận văn thạc sỹ
- Lê Thị Bích Hoà vƣợt qua lối ghi chép biên niên bằng cách viết kết hợp sự kiện hiện tại với dòng hồi tƣởng, “phá bỏ lối kể chuyện theo trình tự thời gian” [54]. Đúng nhƣ nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng nhận định: “Nếu như “Đoạn trường tân thanh” là tập đại thành của thể loại trường thiên Nôm lục bát thì “Hoàng Lê nhất thống chí” là tập đại thành của thể loại tự sự trường thiên chữ Hán” [34]. Hai tác phẩm này ra đời gần nhƣ cùng một giai đoạn văn học đã bƣớc đầu khẳng định những thành công về nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử, đồng thời đánh dấu sự ảnh hƣởng của nó đến đời sống văn học. Mặc dù số lƣợng tác phẩm còn ít, nghệ thuật truyện còn đơn giản hầu hết là các tác phẩm tiểu thuyết chƣơng hồi, tâm lí, tính cách ít đƣợc biểu hiện song với khoảng sau tiểu thuyết lịch sử chữ Hán, tiểu thuyết lịch sử thời trung đại đã ghi dấu ấn của thể loại. Đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển tiểu thuyết lịch sử. Đồng thời là sự khơi nguồn, bồi đắp vào tƣ duy văn xuôi nghệ thuật trƣờng thiên, một mặt vốn không phải là thế mạnh trong truyền thống văn học Việt Nam. 2.1.2 Tiểu thuyết lịch sử nửa đầu thế kỷ XX Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp có tác động lớn đối với xã hội nƣớc ta. Cùng với việc thay đổi diện mạo văn hoá xã hội là sự thay đổi diện mạo của nền văn học. Quan niệm văn học trung đại có sự tan rã, dần dần có sự thay thế bởi quan niệm văn học hiện đại. Văn học đang dò dẫm tìm lối đi trƣớc ảnh hƣởng mạnh mẽ của văn học phƣơng Tây, đặc biệt là văn học Pháp và một nền văn học không mấy xa lạ là văn học Trung Quốc. Song song với sự đổ vỡ của nền văn học cũ về nội dung, hình thức, thể loại, văn tự, là sự hình thành một quan niệm văn học mới rất khác với tƣ tƣởng trung đại về cuộc đời, xã hội và con ngƣời. Mảnh đất Nam Bộ là nơi xuất hiện những điều kiện cho quá trình đổi mới văn học sớm hơn so với cả nƣớc. Cùng với nó là sự xuất hiện của chữ quốc ngữ, báo chí, nhà in... Đây là nơi cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên Truyện thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản ra - 19 - Luận văn thạc sỹ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 257 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 305 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 213 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 153 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 144 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 171 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 143 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 158 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 122 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 62 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn