intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/tình dục

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

45
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là một tác phẩm có sức hấp dẫn, được coi là “Thiên cổ kỳ bút”. Khi nghiên cứu tác phẩm này, chúng tôi muốn tìm hiểu một phương diện quan trọng trong tư tưởng Nguyễn Dữ qua mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong Truyền kỳ mạn lục. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/tình dục

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN THANH BÌNH MỐI QUAN HỆ GIỮA DIỄN NGÔN ĐẠO ĐỨC VÀ DIỄN NGÔN TÌNH YÊU/ TÌNH DỤC TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ NGUYỄN THANH BÌNH MỐI QUAN HỆ GIỮA DIỄN NGÔN ĐẠO ĐỨC VÀ DIỄN NGÔN TÌNH YÊU/ TÌNH DỤC TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thu Hiền Hà Nội - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Đỗ Thu Hiền. Các kết quả và số liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một công trình khoa học nào. Những luận điểm sử dụng của các tác giả khác, tác giả luận văn đều có ghi chú rõ ràng nguồn gốc. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Bình
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Đỗ Thu Hiền - người thầy đã tận tình hướng dẫn, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, khoa Sau đại học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Tác giả luận văn chân thành biết ơn những người thân trong gia đình, nhà trường nơi tôi giảng dạy và bạn bè đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi học tập và nghiên cứu. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả Nguyễn Thanh Bình
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................9 Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ............................................................................................................................9 1.1. Lý thuyết diễn ngôn. .........................................................................................9 1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kỳ. ...................................................................12 1.3. Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. .................................................14 1.3.1. Tác giả Nguyễn Dữ. .................................................................................14 1.3.2. Truyền kỳ mạn lục. ..................................................................................17 Chƣơng 2: TỪ DIỄN NGÔN ĐẠO ĐỨC ĐẾN DIỄN NGÔN TÌNH YÊU/ TÌNH DỤC TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ ...............20 2.1. Diễn ngôn đạo đức trong Truyền kỳ mạn lục. ................................................20 2.1.1.Kỳ thị nữ sắc, điều tiết bản năng .............................................................20 2.1.2. Cảnh tỉnh thói tham lam ..........................................................................25 2.1.3. Cảnh tỉnh thói ghen tuông mù quáng .......................................................26 2.1.4. Trọn đạo hiếu trung, hành xử cẩn trọng .................................................27 2.1.5. Sự chung thuỷ, đức hy sinh của người phụ nữ trong mối quan hệ vợ chồng ..................................................................................................................28 2.1.6. Nhân quả báo ứng (của những yêu ma nhiễu dân ..................................30 2.2. Diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong Truyền kỳ mạn lục. ................................31 2.2.1.Yếu tố tính dục trong các câu chuyện tình ...............................................31 2.2.2. Tình yêu tự do nam nữ không chịu ràng buộc ở lễ giáo phong kiến .......37 2.3. Sự vận động của diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu trong Truyền kỳ mạn lục. .................................................................................................................47 Chƣơng 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA DIỄN NGÔN ĐẠO ĐỨC VÀ DIỄN NGÔN TÌNH YÊU/ TÌNH DỤC TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT ...........................................................................................53 3.1. Hệ thống nhân vật chính trong các câu chuyện tình yêu. ...............................53
  6. 3.1.1. Nhân vật nam giới: ..................................................................................53 3.1.2. Nhân vật nữ giới: .....................................................................................57 3.2. Mối quan hệ giữa tự sự- trữ tình và chính luận. .............................................61 3.2.1. Phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục............................................61 3.2.2. Phương thức kết hợp trữ tình với tự sự trong Truyền kỳ mạn lục: ..........64 3.2.3.Màu sắc chính luận trong Truyền kỳ mạn lục. ..........................................67 3.2.4. Mối quan hệ giữa tự sự, trữ tình và chính luận........................................69 3.3. Mối quan hệ giữa yếu tố kỳ- thực. .................................................................82 3.3.1. Yếu tố “kỳ” ..............................................................................................82 3.3.2. Yếu tố thực: .............................................................................................88 3.3.3. Yếu tố kỳ- thực có mối liên hệ chặt chẽ. .................................................91 3.4. Ngôn từ đậm màu sắc tính dục. ......................................................................93 3.4.1.Lời của các nhân vật ma nữ, yêu hoa. ......................................................93 3.4.2. Những bài thơ đậm màu sắc nhục dục. ....................................................96 PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................99 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................103
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài . Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm có vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của văn xuôi trung đại Việt Nam. Trong cuốn Văn xuôi tự sự thời trung đại, tác giả Nguyễn Đăng Na khẳng định: “Nguyễn Dữ là người đầu tiên dùng thuật ngữ “Truyền kỳ” đặt tên cho tác phẩm của mình. Có thể nói ông là cha đẻ của loại hình truyền kỳ Việt Nam”.Tác phẩm được đánh giá là một viên ngọc lung linh của thể loại văn xuôi trong văn học trung đại. Hơn thế nữa, Truyền kỳ mạn lục được coi là một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam thời trung đại. Tác phẩm cho thấy sự trưởng thành của văn xuôi trung đại từ văn xuôi mang nặng tính chức năng sang văn xuôi giàu tính nghệ thuật. (Văn học chức năng: “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” - văn chương có thể tác động làm thay đổi cá nhân, giáo hóa cá nhân). Đây là giai đoạn văn, sử, triết bất phân; bản chất của quá trình sáng tạo văn học không phải là hành trình đi tìm cái mới, sáng tạo ra hình thức để tái hiện thực tế… mà là sự thể nghiệm về đạo, hướng về đạo và đề cao đạo lí. Tác phẩm cho thấy bước chuyển mình thoát khỏi những ảnh hưởng đậm nét của văn học dân gian và văn xuôi lịch sử để chuyển sang văn xuôi tự sự. Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm có sức hấp dẫn lạ kỳ. Ngay từ thế kỷ XVI, tác phẩm đã được Nguyễn Thế Nghi dịch sang chữ Nôm để độc giả có thể thuận tiện trong việc tìm đọc. Đây là tác phẩm được Vũ Khâm Lân ngợi ca là “Thiên cổ kỳ bút”. Truyền kỳ mạn lục cũng trở thành đối tượng nghiên cứu có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Những khuôn mẫu đạo đức vốn được coi là “khuôn vàng thước ngọc” của xã hội phong kiến được đặt bên cạnh luồng tư tưởng mới mang theo khát khao bản năng của con người. Vấn đề tình yêu tự do không chịu sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến, vấn đề tình dục trong tình yêu được đề cập đến. Ông đang bảo vệ cho hệ thống tư tưởng Nho gia hay đang đồng tình với khát vọng yêu đương cháy bỏng - đó có lẽ là câu hỏi mà nhiều người muốn tìm lời giải đáp. Có khá nhiều nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục và không ít những ý kiến trái chiều; cũng có rất nhiều cách tiếp cận tác phẩm này dưới những góc độ khác nhau. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài: 1
  8. Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục cho luận văn của mình nhằm hy vọng đem đến một góc nhìn mới cho việc nghiên cứu một tác phẩm đã được đào xới quá nhiều của văn học trung đại. 2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn 2.1. Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là một tác phẩm có sức hấp dẫn, được coi là “Thiên cổ kỳ bút”. Khi nghiên cứu tác phẩm này, chúng tôi muốn tìm hiểu một phương diện quan trọng trong tư tưởng Nguyễn Dữ qua mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong Truyền kỳ mạn lục. Chúng tôi cũng muốn xem xét mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục đã được thể hiện như thế nào trong hình thức nghệ thuật của tác phẩm. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Thực hiện mục tiêu trên, chúng tôi hy vọng luận văn của mình sẽ hữu ích đối với những người yêu thích tác phẩm này và muốn tìm hiểu về tác giả Nguyễn Dữ. Đặc biệt hơn, luận văn sẽ giúp chúng ta có cách lí giải thấu đáo về sự mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Dữ. Đồng thời, luận văn giúp chúng ta thấy rõ tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của ông trong quan điểm về tình yêu, về hạnh phúc trần thế. 3. Lịch sử vấn đề Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có sức hút kỳ lạ với các nhà nghiên cứu. Có khá nhiều nghiên cứu tâm huyết về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa thật chú ý đến mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu trong Truyền kỳ mạn lục. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ mối quan hệ này. Trong bài viết: : Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán [47], Bùi Duy Tân có những nhận định, đánh giá đặc biệt về chuyện tình yêu giữa người với hồn ma, yêu hoa. Theo quan điểm của ông, những câu chuyện tình giữa người và ma là những chuyện tình được miêu tả “trái với đạo lí Nho gia” [47, tr.518]. Thậm chí tình yêu tự do, không bị ràng buộc của lễ giáo phong kiến ở Hà Nhân với Đào, Liễu; Nhị Khanh với Trình Trung Ngộ là “xa lạ với 2
  9. quan niệm lành mạnh về cuộc sống, về tình yêu nam nữ trong truyện Nôm bình dân, trong văn nghệ dân gian” [47, tr. 519]. Mặc dù vậy, Bùi Duy Tân vẫn khẳng định tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Dữ thể hiện trong Truyền kỳ mạn lục, nhất là những câu chuyện về tình yêu bởi Nguyễn Dữ bày tỏ thái độ cảm thông với những khao khát yêu đương trần thế ở các nhân vật, Nguyễn Dữ trân trọng sự si tình, hết mình vì người mình yêu ở nhân vật của mình (không phân biệt người hay ma). Với phần lời bình ở cuối truyện, Bùi Duy Tân chỉ ra sự mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Dữ vì phần lời bình xuất phát từ “thái độ bảo thủ của Nho giáo”. Đáng tiếc là mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Dữ chưa được Bùi Duy Tân khai thác một cách chuyên sâu để lí giải một cách thỏa đáng căn nguyên cũng như đưa đến kết luận cuối cùng là Nguyễn Dữ có thực sự mang “thái độ bảo thủ của Nho giáo” hay không. Kawamoto Kunyé: Những vấn đề khác nhau liên quan đến TKML (Lịch sử sáng tác, xuất bản và nghiên cứu theo cái nhìn văn học so sánh) [26]. Bài viết của Kawamoto Kunyé (Đại học tổng hợp Nhật Bản) quan tâm đến việc đánh giá tác phẩm dưới góc độ một tác phẩm viết lại theo mô hình thể loại, phong cách, đề tài và môtip của Tiễn đăng tân thoại. Đây là bài tham luận có quan điểm khác với các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng, Truyền kỳ mạn lục quả có những điểm tương đồng về nội dung tư tưởng và nghệ thuật so với Tiễn đăng tân thoại, nhưng không phải là một tác phẩm mô phỏng lại Tiễn đăng tân thoại Trần Thị Băng Thanh khi viết lời tựa cho Truyền kỳ mạn lục đã có cái nhìn nhân bản khi nhận định về số phận các nhân vật và cách kết thúc truyện. Nếu như Bùi Duy Tân cho rằng những câu chuyện tình giữa người và ma là những chuyện tình được miêu tả “trái với đạo lí Nho gia” thì Trần Thị Băng Thanh lại bày tỏ sự cảm thông với những nhân vật nữ giới dù là chuyện tình yêu của họ có đi ngược lại lễ giáo phong kiến: “Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông, họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, 3
  10. giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật “phản biện” như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên thụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và “Yêu quái ở Xương Giang” cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì “nghiệp oan” mà đến nỗi trở thành ma quái. Họ đáng bị trách phạt, nhưng cũng đáng thương”. Lời tựa này giúp người đọc trút bỏ bớt cái nhìn khắt khe đối với những nhân vật xưa này bị xa lánh như ma nữ. Tuy nhiên, lời tựa mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giả với cái nhìn đầy nhân bản chứ chưa chuyên sâu nghiên cứu về cuộc đời của các nhân vật để các nhân vật nữ thực sự chiếm được sự cảm thông của người đọc. Trần Ích Nguyên (Đài Loan) đã có một công trình nghiên cứu khá tỉ mỉ và công phu: Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục [41]. Trong bài viết này, tác giả đã đi sâu khai thác, tìm hiểu sự đón nhận Tiễn đăng tân thoại ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam từ đó cho thấy ý nghĩa của việc nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục. Không chỉ cung cấp những thông tin hữu ích về tác giả Cù Hựu, Trần Ích Nguyên còn cho bạn đọc thấy được những tìm hiểu rất nghiêm túc khi nói về Nguyễn Dữ. Hơn thế nữa, trong bài viết của mình, Trần Ích Nguyên luôn đưa ra sự đối sánh về nguồn gốc, nội dung tư tưởng và nghệ thuật của hai tác phẩm sau đó chốt lại bài viết bằng những nhận định khách quan mang tính phát hiện. Truyền kỳ mạn lục được coi là tác phẩm phóng tác từ Tiễn đăng tân thoại, tuy nhiên sự vay mượn chủ yếu là trên phương diện cốt truyện. Đối với tác giả bài viết thì: “Tóm lại, việc lấy tài liệu của bất kỳ một tác phẩm văn học nào đều có thể là từ nhiều nguồn. Chỉ cần các tác giả không thỏa mãn với việc mô phỏng, thì dù có tiếp thu ảnh hưởng của nước mình hay nước ngoài thì cũng chẳng làm tổn hại gì đến tính sáng tạo độc đáo” [41, tr 215]. Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu hấp dẫn độc giả không chỉ bởi triết lí nhân sinh gửi gắm qua các câu chuyện mà còn bởi sự hấp dẫn, li kì và độ căng của các tình tiết do yếu tố kỳ ảo tạo nên. Trong khi đó Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ không chỉ là tác phẩm để thỏa mãn tính hiếu kỳ của người đọc mà còn gửi gắm triết lí nhân sinh và tỏ bày thái độ chính trị - xã hội. Đặc biệt, khác với Tiễn Đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục đều có phần lời bình của 4
  11. tác giả ở cuối mỗi truyện - một đoạn văn nghị luận ngắn (Trừ Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa). Phần lời bình này thể hiện quan điểm của người viết và có mục đích thuyết giáo. Việc so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục của Trần Ích Nguyên giúp ta có cái nhìn tổng quát giữa hai tác phẩm này để nhận ra điểm tương đồng và sự sáng tạo riêng của từng tác giả. Tuy nhiên, bài viết chỉ chú trọng nhiều đến việc so sánh hai tác phẩm mà không đi sâu nghiên cứu về đặc sắc trong một khía cạnh cụ thể của Tiễn đăng tân thoại hay Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Phạm Hùng Với Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến rất nhiều vấn đề của tác phẩm và giúp người đọc hiểu thêm khuynh hướng, tư tưởng, nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Dữ. Không chỉ thế, nghiên cứu này còn cho thấy vị trí của Truyền kỳ mạn lục đối với tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tìm hiểu một cách kỹ lưỡng về sự mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Dữ thì bài viết của Nguyễn Phạm Hùng chưa đề cập tới một cách sâu sắc. Bài viết Vài nét về truyện truyền kỳ Việt Nam [36], Nguyễn Đăng Na đã bàn nhiều về vấn đề nhân đạo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Theo quan điểm của Nguyễn đăng Na, những câu chuyện tình táo bạo đậm màu sắc tính dục, vượt ra khỏi vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến cũng là một cách mà Nguyễn Dữ làm một cuộc thử nghiệm. Nguyễn Dữ để nhân vật của mình tự do phóng khoáng mà yêu đương; nồng nhiệt, đắm say mà thỏa mãn khát khao tình dục bởi dẫu sao thì kết cục của họ cũng đều bi đát. Phải chăng sinh ra làm người phụ nữ là đã gánh lấy sự thiệt thòi vì “Sống đạo đức tử tế đều bị chết oan. Vậy hãy hành động theo ham muốn của tình dục, theo tiếng gọi của trái tim. Nguyễn Dữ làm cuộc thử nghiệm ngược lại: cho một số nhân vật phụ nữ sống tự do. Tác giả cho Nhị Khanh (Cây gạo) sống một cách “thoải mái”, vượt vòng cương tỏa, chạy theo tình dục”[36]. Theo lời Nhị Khanh thì cuộc đời chẳng qua là một giấc chiêm bao ngắn ngủi, trời cho sống ngày nào thì nên tìm lấy những thú vui kẻo hoài phí một thời xuân tươi tốt. Dẫu có chính chuyên như Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu hay tần tảo, hy sinh như Vũ Nương thì kết cục vẫn ôm hận mà chết. Vậy sao 5
  12. những người phụ nữ không làm một cuộc bứt phá để sống những tháng ngày hạnh phúc ái ân dù là ngắn ngủi? Bài viết này của Nguyễn Đăng Na đã thực sự đứng về phía người phụ nữ mà cảm thông, thương xót cho họ. Không chỉ vậy, tác giả bài viết còn đưa ra những lời lẽ hết sức đanh thép để đòi lại công bằng cho những người sinh ra đã phải hứng chịu số kiếp nữ nhi trong xã hội phong kiến: “Đào Hàn Than có thai. Lẽ ra đấy là niềm hạnh phúc lớn nhất của nàng: làm mẹ! Song, xã hội đâu có chấp nhận cho nàng làm mẹ? Hình ảnh đó như một ám ảnh vò dứt, đập mạnh vào cái xã hội dã man đối với phụ nữ, đồng thời khơi dậy ở người đọc một niềm thương cảm cho thân phận nàng” [36]. Những đánh giá sắc sảo, đanh thép này cho thấy Nguyễn Đăng Na đề cao quyền sống của con người (nhất là người phụ nữ), lên tiếng bênh vực họ cho dù họ là những nhân vật mà định kiến xã hội phong kiến tẩy chay. Tuy nhiên trong bài viết này, Nguyễn đăng Na mới đưa ra những nhận định mang tính khái quát mà chưa đi vào cụ thể một đối tượng nào để khắc sâu. Trần Nho Thìn đã có một bài viết về Truyền kỳ mạn lục với cách tiếp cận tác phẩm từ các góc độ khác nhau: thế giới nhân vật, quan hệ giữa cái kỳ và cái thực. Ở bài viết này khi tìm hiểu thế giới nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục từ nhân vật trí thức, đạo sỹ, người nhà chùa cho đến nhân vật nhân vật phụ nữ, tác giả bài viết nhận định: “Các loại nhân vật chủ yếu mà chúng ta vừa xem xét trên đây biểu hiện tư tưởng chính trị đạo đức và quan niệm về con người của ông”[59, tr400]. Đặc biệt, khi bàn về quan hệ giữa cái kỳ và cái thực trong Truyền kỳ mạn lục, tác giả khẳng định: “Tất cả các truyện đều có hai phần, phần kể chuyện cuộc sống hiện thực và phần kể chuyện có yếu tố kỳ”[59, tr404]. Yếu tố kỳ xuất hiện để khai thông mạch truyện khi cuộc sống hiện thực vận động đến chỗ bế tắc. Với cách đọc Truyền kỳ mạn lục từ nhiều góc độ khác nhau, người đọc sẽ có những cảm nhận phong phú và toàn diện về tác phẩm này. Bài viết của Vũ Thanh: Thể loại truyện kì ảo Việt Nam trung đại- quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm [60] giúp ta có cái nhìn toàn diện về thể loại truyền kỳ. Đồng thời cũng thấy rõ, Truyền kỳ mạn lục cũng như một số tác phẩm thuộc loại truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam có vay mượn từ cốt truyện dân gian, 6
  13. nhưng lời nói, ngôn ngữ kể chuyện và cách miêu tả nhân vật đã có sự khác biệt. Điều đó càng khẳng định những đóng góp của Nguyễn Dữ: “Chú trọng đến việc phản ánh những mâu thuẫn bình thường trong đời sống gia đình, cũng như việc đi sâu khắc họa nội tâm nhân vật đã xác định vị trí người mở đường cho loại truyện ngắn thế sự trong lịch sử văn học dân tộc của Nguyễn Dữ và khiến cho truyện của ông trở nên gần gũi với văn xuôi hiện đại”[60, tr754]. Trong bài viết này, tác giả cũng tìm hiểu sự phát triển của mối quan hệ giữa truyện kì ảo trung đại và văn xuôi lịch sử để thấy rằng Nguyễn Dữ đã thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn xuôi lịch sử. Những nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Dữ được xây dựng sáng tạo thành những hình tượng nghệ thuật. Tất cả những điều đó khẳng định vị trí và những đóng góp của Nguyễn Dữ đối với văn xuôi trung đại Việt Nam. Tóm lại, đã có không ít những nhà nghiên cứu với những bài viết có quy mô về Truyền kỳ mạn lục, tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa thật chú ý đến mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong tác phẩm này. Bởi vậy, luận văn của chúng tôi sẽ cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục để lí giải những mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Dữ. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp văn học sử. - Phương pháp thống kê phân loại: Dựa trên những dữ liệu đã tìm hiểu để phân loại cho phù hợp với từng tiêu chí. - Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Trong xã hội phong kiến Việt nam, sự ảnh hưởng của Nho giáo rất lớn. Hệ thống giáo lý phong kiến đã chi phối cách nhìn nhận, cách đánh giá của xã hội đối với con người nói chung và người phụ nữ nói riêng. Bởi vậy phương pháp này giúp người viết luận văn có góc nhìn cụ thể hơn xã hội phong kiến Việt nam. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: giúp người viết luận văn có cái nhìn khách quan và toàn diện trong quá trình nghiên cứu. Chúng tôi so sánh nhân vật trong câu chuyện này với nhân vật trong câu chuyện khác hoặc so sánh nhân vật của Nguyễn Dữ với nhân vật của tác giả khác 7
  14. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: dựa trên cơ sở đã phân tích, từ đó người viết luận văn đưa ra những đánh giá tổng quan về diễn ngôn đạo đức, diễn ngôn tình yêu/ tình dục. - Phương pháp phân tích diễn ngôn: Sử dụng lý thuyết về phân tích diễn ngôn để phân tích tác phẩm. 5. Cấu trúc luận văn - Chương 1: Các vấn đề lý thuyết và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. - Chương 2: Từ diễn ngôn đạo đức đến diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong Truyền kỳ mạn lục. - Chương 3: Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ hình thức nghệ thuật. 8
  15. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC 1.1. Lý thuyết diễn ngôn M. Foucault đưa ra ba cách định nghĩa về diễn ngôn. Thứ nhất diễn ngôn bao gồm “tất cả các nhận định nói chung”. Theo bà Sara Mills - một chuyên gia về Foucault thì tất cả các nhận định ấy là “tất cả các phát ngôn hoặc văn bản mang nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực, đều được coi là diễn ngôn” [53]. Nói cách khác, diễn ngôn là những phát ngôn trực tiếp (lời nói) hoặc gián tiếp (dưới dạng văn bản mang nghĩa) tác động tới thế giới thực. Như vậy, diễn ngôn có thể được thể hiện thông qua văn bản (tác phẩm văn học) để thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả trước cuộc sống. Bởi vậy, khi tìm hiểu một tác phẩm, cũng có nghĩa là ta đang tiếp cận diễn ngôn của tác giả đó về một phương diện nào đó của cuộc sống. Thứ hai, diễn ngôn như là “một nhóm các nhận định được cá thể hóa”. Theo Trần Văn Toàn, “diễn ngôn trong cách sử dụng này là một nhóm những nhận định được tổ chức theo một cách thức nào đó và có một mạch lạc và một hiệu lực chung. Theo đó, người ta có thể nói đến chẳng hạn: diễn ngôn nữ quyền, diễn ngôn thuộc địa, diễn ngôn nam tính, diễn ngôn nữ tính, diễn ngôn y học, diễn ngôn phân tâm học…” [53]. Như vậy, khi tìm hiểu Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, luận văn bàn đến diễn ngôn đạo đức, diễn ngôn tình yêu/ tình dục. Thứ ba, diễn ngôn “như một hoạt động được kiểm soát/ điều chỉnh nhằm tạo nên một tập hợp các nhận định”. Nói cách khác, chính những qui tắc, những cấu trúc được điều chỉnh, kiểm soát sẽ tạo ra các nhận định ( các diễn ngôn). Như vậy, ba định nghĩa về diễn ngôn của Foucault vừa độc lập, vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trên cơ sở định nghĩa của Foucault về diễn ngôn, chúng tôi tìm hiểu diễn ngôn trong Truyền kỳ mạn lục. Trước hết, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm tâm huyết của Nguyễn Dữ nên sẽ là nơi tác giả gửi gắm tư tưởng, tình cảm và cách nhìn về cuộc sống của mình. Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ có “một 9
  16. nhóm các nhận định được cá thể hóa” chẳng hạn như vấn đề bảo vệ hệ thống đạo đức Nho gia, vấn đề tình yêu/ tình dục. Bởi vậy, tìm hiểu Truyền kỳ mạn lục cũng là đi tìm hiểu về diễn ngôn đạo đức, diễn ngôn tình yêu/ tình dục được đề cập đến trong tác phẩm. Diễn ngôn đó không chỉ được nhìn nhận từ phương diện nội dung, từ tư tưởng của tác phẩm mà còn qua phương diện hình thức tác phẩm (những qui tắc, cấu trúc…). Thông qua việc tìm hiểu diễn ngôn đạo đức, diễn ngôn tình yêu/ tình dục trong tác phẩm, ta sẽ thấy được một trong những bức thông điệp mà Nguyễn Dữ gửi gắm. Theo giáo sư Trần Đình Sử: “Hiểu tổng quát, diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội. Nhấn mạnh thực tiễn giao tiếp xã hội để phân biệt với lời nói cá nhân. Mọi lời nói cá nhân đều phụ thuộc vào diễn ngôn xã hội. Hoạt động diễn ngôn xã hội thể hiện một trạng thái ngôn ngữ, tri thức, quyền lực trong xã hội của diễn ngôn đó mà các cá nhân đều phụ thuộc vào”. Bởi vậy, khi tìm hiểu một phát ngôn, ta phải căn cứ vào thực tiễn giao tiếp trong xã hội để hiểu phát ngôn đó. Ví dụ, khi gặp một người bạn tay xách nách mang bao nhiêu đồ ăn từ chợ đi về, người ta có thể chào bằng một câu hỏi: - Chị đi chợ về à? Nếu chỉ căn cứ vào lời nói cá nhân mà tách khỏi thực tiễn giao tiếp thì câu trên là một câu hỏi để xác nhận thông tin: có phải chị đi chợ về hay không? Tuy nhiên, như một “luật bất thành văn”, ai cũng hiểu rằng đó không phải là câu hỏi cần thiết phải trả lời mà đó chỉ là câu chào quen thuộc trong hoàn cảnh đó. Vậy, tìm hiểu diễn ngôn cần phải thấy rõ, diễn ngôn không phải là lí thuyết suông trên sách vở mà là thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội. Theo Trần Đình Sử, diễn ngôn biểu hiện thành hình thức ngôn ngữ và được coi là “hiện tượng tư tưởng”. Nói cách khác, khi nghiên cứu diễn ngôn là ta đi nghiên cứu về mặt tư tưởng. Không phải là tư tưởng tồn tại trên lý thuyết mà là tư tưởng được thực tiễn hoá trong đời sống giao tiếp hàng ngày. Đối với một nhà văn, tư tưởng của nhà văn được kết tinh lại trong tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học được coi là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn. Tác phẩm văn học cũng được coi là tấm 10
  17. gương phản chiếu đời sống xã hội. Bởi vậy, tìm hiểu diễn ngôn trong tác phẩm văn học cũng chính là tìm hiểu tư tưởng, phát ngôn- bức thông điệp bằng tác phẩm mà tác giả muốn truyền tải tới người đọc. Thông qua tác phẩm văn học, tư tưởng, tình cảm, khát vọng, sự trao đổi, đối thoại của tác giả được thể hiện. Ví dụ, thông qua Bánh trôi nước, Hồ Xuân Hương cho thấy số phận bị phụ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời bênh vực, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của họ. Bên cạnh đó, nữ sĩ còn ngầm phê phán xã hội phong kiến bất công khiến cho người phụ nữ dù có vẻ đẹp, phẩm chất hoàn mĩ thì số phận vẫn bị đặt vào tay nam nhân phong kiến. GS. Trần Đình Sử nhận định: “Chức năng của diễn ngôn là kiến tạo bức tranh thế giới bằng ngôn ngữ, là gọi tên các sự vật, hiện tượng…Diễn ngôn kiến tạo bức tranh thế giới, sự thật, chân lí theo các quy tắc, cơ chế của nó, ví như thẩm quyền của chủ thể, của ngữ cảnh, của quan hệ giao tiếp, của chiến lược, trật tự nhất định. Dựa vào quyền lực nó có thể là áp đặt, cưỡng bức, bắt học tập, cải tạo, có thể trao đổi, đối thoại, hoặc có thể trình bày, giải thích để tiếp nhận…”[45] như vậy, ngôn ngữ chính là chất liệu để kiến tạo bức tranh thế giới, đồng thời thông qua diễn ngôn, ta có thể đối thoại, trao đổi hoặc bị thuyết phục, bị áp đặt… nếu đó là diễn ngôn có sức thuyết phục cao. Thông qua diễn ngôn, bức tranh của đời sống sinh động được kiến tạo một cách rõ nét. Theo GS. Trần Đình Sử: “Diễn ngôn là hiện tượng siêu văn bản, liên văn bản, nó thể hiện trong các văn bản nhưng không đồng nhất với văn bản, không giới hạn trong các văn bản. Nó gắn với chủ thể diễn ngôn, song không có tác giả cụ thể. Diễn ngôn là hiện tượng xã hội, có tính chỉnh thể, tính liên tục, tính thống nhất, tính hệ thống… Diễn ngôn có tính chỉnh thể hữu hạn. Do đó nghiên cứu diễn ngôn không thoát li văn bản cụ thể, nhưng không giới hạn trong bất cứ văn bản nào, bởi tính liên văn bản của nó, không câu nệ vào văn bản cụ thể, mà hướng đến khái quát các cơ chế chung trong việc kiến tạo nên diễn ngôn” [46] Như vậy, diễn ngôn luôn gắn với thực tiễn giao tiếp của con người trong xã hội, diễn ngôn được coi là hiện tượng tư tưởng và nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu tư tưởng. Diễn ngôn là hoạt động trực tiếp tạo ra hiện thực mà con người sống 11
  18. trong đó với những cung bậc cảm xúc như tin, yêu, giận hờn, căm ghét…Nghiên cứu diễn ngôn, ta hiểu được bức thông điệp mà tác giả gửi gắm. Đối với một nhà văn, diễn ngôn được thể hiện trong đứa con tinh thần - tác phẩm văn học của mình. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ chính là nơi tác giả gửi gắm tư tưởng, tình cảm, khát vọng của mình. Trong những câu chuyện có liên quan đến nhân vật nam, nữ trong mối quan hệ tình cảm, Nguyễn Dữ đang truyền tải diễn ngôn đạo đức hay diễn ngôn tình yêu? Nếu là đứa con đẻ của Nho gia, chắc hẳn Nguyễn Dữ đang diễn ngôn đạo đức (và nhiều tác phẩm, đặc biệt là lời bình cuối truyện cho thấy điều đó). Tuy nhiên, ngôn ngữ, giọng điệu và cảm hứng thể hiện trong một số câu chuyện lại cho thấy rằng Nguyễn Dữ đang bảo vệ khao khát yêu đương, khao khát ái ân mãnh liệt - điều này đi ngược lại với quan niệm của Nho gia. Và ngay trong một tác phẩm, ta cũng thấy rõ sự mâu thuẫn này. Sự mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Dữ là một bài toán khó cho kết luận: Nguyễn Dữ đang truyền tải diễn ngôn đạo đức hay diễn ngôn tình yêu/ tình dục? 1.2. Đặc trƣng của thể loại truyền kỳ Truyền kỳ là thể loại tự sự ngắn thịnh hành từ đời Đường ở Trung Quốc. Đây là thể loại bắt nguồn từ chí quái nhưng có sự gia công bằng nhiều chi tiết, tình tiết sóng gió, ly kỳ bởi vậy tạo được sức hấp dẫn kỳ lạ. Truyện truyền kỳ phát triển qua ba giai đoạn ở đời Đường: Sơ Đường, Trung Đường và Vãn Đường. Đỉnh cao của thể loại truyền kỳ ở Trung Quốc là Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh đời Thanh. Thời Minh, truyền kỳ cũng đạt được thành tựu lớn với Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Tiễn đăng dư thoại của Lý Xương Ký…Bởi vậy truyền kỳ ở Trung Quốc đã du nhập vào các nước đồng văn, đồng chủng ở Châu Á trong đó có Việt Nam. Khi du nhập vào Việt Nam, ở giai đoạn đầu, thể loại truyền kỳ vẫn còn mang đậm chất dân gian. Nhưng đến khi Thánh Tông di thảo (tương truyền là của Lê Thánh Tông), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ xuất hiện thì truyền kỳ thực sự đã đạt đến đỉnh cao và đơm hoa kết trái. Sau những tác phẩm này là sự nối tiếp của Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích. Những tác phẩm truyền kỳ ở nước ta tuy tiếp nhận và chịu ảnh hưởng thể loại của Trung Quốc 12
  19. nhưng vẫn mang những dấu ấn riêng biệt. Đặc biệt là truyền kỳ ở nước ta chịu ảnh hưởng lớn từ văn học dân gian Việt Nam. Nói cách khác, trong quá trình phát triển, thể loại truyền kỳ ngày càng hoàn thiện bằng cách tiếp thu một số thành tố dân gian như mô típ, đề tài, cốt truyện sau đó phát triển thành tác phẩm văn học viết có tính hoàn chỉnh về nội dung và nghệ thuật với kết cấu chặt chẽ và phần lời bình ở cuối truyện (có những truyện không có phần lời bình). Theo Nguyễn Đăng Na: “Tuy là văn học viết, nhưng truyền kỳ dựa trên cơ sở truyền thống tự sự dân gian, khai thác các môtip, nhân vật, cốt truyện, thậm chí cả lối kể dân gian. Cho nên, muốn tìm nét đặc trưng hoặc so sánh ảnh hưởng của truyền kỳ giữa các dân tộc trong khu vực đồng văn, một nguyên tắc bắt buộc là phải xuất phát từ kho tàng truyện dân gian của dân tộc đó. Truyền kỳ lấy yếu tố kỳ ảo làm phương thức thể hiện nội dung. Nhưng, mức độ của cái kỳ ảo phụ thuộc vào truyền thống thẩm mĩ dân tộc và nhu cầu lịch sử của dân tộc ấy. Như vậy phải bám sát lịch sử và truyền thống thẩm mĩ dân tộc khi nghiên cứu truyền kỳ của họ” [36]. Trong truyện truyền kỳ, hệ thống các nhân vật người thường được xây dựng song song với các nhân vật kỳ ảo (ma nữ, tiên, yêu hoa) để thông qua đó phản ánh những vấn đề có tính chất hiện thực. “Truyền kỳ” là truyền đi sự lạ, truyền đi những chuyện ít thấy, những chuyện biến hóa khác thường, những chuyện không có thật (nhấn mạnh tính hư cấu). Đặc trưng về mặt hình thức của thể loại truyền kỳ: sự kết hợp giữa văn xuôi và thơ. Nhờ đôi cánh kỳ ảo, người đọc có thể bay vào một thế giới chỉ có trong tưởng tượng. Đó có thể là thế giới bồng lai tiên cảnh đáng mơ ước; đó cũng có thể là thế giới của ma quỷ chốn âm ti địa phủ rùng rợn. Nhưng dù là thế giới nào đi chăng nữa thì đó cũng là những khung trời mới lạ để thỏa sức tưởng tưởng; để thoải mái khám phá. Đó là khung trời không chịu bất cứ ràng buộc khắc nghiệt nào của lễ giáo phong kiến; là thế giới mà cái tôi trần thế, trần tục nhất của con người lại mượn loài yêu ma mà bộc lộ rõ rệt; là thế giới hình chiếu của hiện thực với muôn trò bất công được vạch trần- nơi kẻ có quyền tước lợi dụng chức vụ để lộng hành, nơi những thánh thần cũng ăn của hối lộ, cũng ăn trộm vì đói khát…Cả một thế giới sinh động được gửi gắm thông qua thể loại truyền kỳ. Bởi 13
  20. vậy, thể loại truyền kỳ với đặc trưng là yếu tố “kỳ” góp phần bộc lộ quan điểm, thái độ, cách đánh giá của tác giả đối với cuộc sống một cách công khai hay gián tiếp. Như vậy, hai yếu tố “kỳ” và “thực” là đặc trưng của thể loại truyền kỳ. Hơn thế nữa, truyền kỳ là thể loại chú trọng chủ đề tình yêu nam nữ. Đó là thế giới mà thông qua nhân vật ma nữ, yêu hoa, những câu chuyện tình được thể hiện một cách sinh động, hấp dẫn. 1.3. Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục 1.3.1. Tác giả Nguyễn Dữ 1.3.1.1. Hoàn cảnh xã hội Đầu thế kỷ XVI, xã hội Việt Nam đã có những biến loạn và khủng hoảng sâu sắc. Mâu thuẫn trong lòng xã hội phong kiến bộc lộ rõ nét với những cuộc đảo chính, chém giết lẫn nhau để tranh quyền đoạt vị, bên cạnh đó, khởi nghĩa nông dân bùng phát mạnh mẽ. Trước những biến động của thời đại, đời sống xã hội cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Có thể nói đây là giai đoạn mà xã hội hứng chịu những dư chấn của cơn bão tố lịch sử (trong vòng mấy chục năm từ 1504 đến 1527 có tới 6 vị vua Lê lần lượt lên ngôi rồi lần lượt bị phế truất - đặc biệt vua Túc Tông (1504), lên ngôi đúng 1 năm). Năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm ngôi lập ra nhà Mạc. Nho giáo đã bước qua thời phát triển cực thịnh và bước đầu có những dấu hiệu lung lay. Tư tưởng của kẻ sĩ cũng chịu những dư chấn của cơn bão khủng hoảng. Kẻ sĩ có nhiều sự lựa chọn, nhiều hướng ứng xử (một bộ phận nhà nho xử sự trung liệt; một bộ phận mang tư tưởng nhập thế cứu đời, không câu nệ về vấn đề chính thống hay phi chính thống; một bộ phận khác chọn con đường ở ẩn, quay lưng lại với triều đại, thể hiện sự bất hợp tác trước thời cuộc đen bạc, đảo điên, đổ nát). Nguyễn Dữ cũng chịu tác động của yếu tố thời đại. Nguyễn Dữ từng ra làm quan một năm - dù thời gian nhập thế ngắn ngủi nhưng cũng cho thấy ông mang trong mình lý tưởng của nhà nho nhập thế. Tuy nhiên sau đó, trước sự đảo điên của thời cuộc, Nguyễn Dữ đã từ quan về quê - góp mình vào bộ phận những nhà nho ẩn dật. Tóm lại, thời đại Nguyễn Dữ sống là thời đại đầy biến động với bao phen thay đổi sơn hà. Không chỉ khủng hoảng về chính trị, lòng tin về những thiết chế 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2