intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

53
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của một nhà văn trẻ đang trên con đường kiếm tìm và định hình phong cách, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm nổi bật một số nét phong cách trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đồng thời cũng thấy được rõ hơn những đóng góp của chị trong sự vận động của Văn học Việt Nam đương đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

  1. Ơ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ VŨ THỊ HẢI YẾN NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2012
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ VŨ THỊ HẢI YẾN NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Hà Văn Đức Hà Nội - 2012
  3. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1 1.Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3 3.Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu ............................................. 12 4.Phương pháp nghiên cứu. .......................................................................... 13 5.Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 13 PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 14 CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ .................................................................................. 14 1.1Giới thuyết về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự .......................... 14 1.1.1 Khái niệm người kể chuyện......................................................................14 1.1.2 Vai trò, chức năng của người kể chuyện ..................................................16 1.1.3 Người kể chuyện chi phối điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự.18 1.2 Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.. 19 1.2.1 Người kể chuyện lộ diện trực tiếp ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong ............................................................................................................19 1.2.1.1 Cái tôi tự kể về mình .............................................................. 20 1.2.1.2 Cái “tôi” kể chuyện người khác ............................................. 25 1.2.2 Người kể chuyện ẩn mình qua hình thức trần thuật từ ngôi thứ ba..........27 1.2.2.1 Kể theo điểm nhìn của chính mình ......................................... 28 1.2.2.2 Kể theo điểm nhìn của nhân vật .............................................. 30 1.2.3 Người kể chuyện toàn tri với điểm nhìn di động......................................32 CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ....................................... 36 2.1 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ............................................................. 36 2.1.1 Khái niệm cốt truyện ................................................................................36 Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
  4. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư 2.1.2 Tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .........................38 2.1.2.1 Cốt truyện truyền thống .......................................................... 39 2.1.2.2 Cốt truyện tâm lý .................................................................... 46 2.1.3 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...56 2.1.3.1 Chi tiết nghệ thuật .................................................................. 56 2.1.3.2 Kết thúc mở gợi nhiều day dứt, trăn trở .................................. 59 2.2 Nghệ thuật tổ chức kết cấu. ................................................................. 61 2.2.1 Khái niệm kết cấu. ....................................................................................61 2.2.2 Tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư..............................64 2.2.2.1 Truyện thường có lời đề từ ..................................................... 64 2.2.2.2 Kết cấu đảo trật tự thời gian, sự kiện ...................................... 69 2.2.2.3 Kết cấu mở ............................................................................. 73 CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ ..................................................... 77 3.1 Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................ 77 3.1.1 Giới thuyết về ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm tự sự.........................77 3.1.2 Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .......................79 3.1.2.1 Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ .................................................. 79 3.1.2.2 Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật.......................... 82 3.2 Giọng điệu trần thuật........................................................................... 88 3.2.1 Giới thuyết về giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự .......................88 3.2.2 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ....................89 3.2.2.1 Giọng điệu trữ tình – lo âu, khắc khoải ................................... 89 3.2.2.2 Giọng điệu dân dã, mộc mạc................................................... 94 KẾT LUẬN................................................................................................ 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 103 Vũ Thị Hải Yến Luận văn Thạc sĩ
  5. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ của vùng đất tận cùng Tổ quốc. Chị sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau trong một gia đình nông dân. Sau hơn mười năm cầm bút, chị đã trở thành một hiện tượng độc đáo khiến bạn đọc trong nước và ngoài nước quan tâm. Người con đất Mũi, người con gái miền Tây xuất thân từ nông dân bằng tài năng của mình đã góp phần làm sống động nền văn học đương đại. Nhà văn Dạ Ngân đã tâm sự: “tôi nhớ mãi cảm giác của người trong nghề, lại là dân biên tập, tôi nghĩ hình như mình đang tiếp cận một ngôi sao không biết nó sẽ tỏa sáng đến đâu” (“May mà có Nguyễn Ngọc Tư” – Báo Văn nghệ). Với Nguyễn Ngọc Tư “viết văn là một lựa chọn khó, đầy nhọc nhằn, nặng nề, dằn vặt”. Nhiều khi nhà văn phải nuôi nỗi cô đơn “cô đơn là sự tối cần của người viết, nó là một điều kiện hàng đầu của nhà văn” (Nguyễn Ngọc Tư). Nhưng với tài năng thiên bẩm, với đam mê nghiệp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã gặt hái được những thành công liên tiếp. Thành công khởi nghiệp của Nguyễn Ngọc Tư là tác phẩm Ngọn đèn không tắt, đạt giải 3 Báo chí trong năm 1997. Năm 2000, chị nhận Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II với tác phẩm Ngọn đèn không tắt. Ngay năm sau, chị được trao tặng giải B giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt. Cùng năm 2001, Nguyễn Ngọc Tư nhận tặng thưởng dành cho các tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam cho tập Ngọn đèn không tắt. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận là một trong mười truyện ngắn hay nhất năm 2005 do báo Văn nghệ bình chọn. Hội nghị Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 6, khóa VI (13-10-2006) đã quyết định trao tặng giải thưởng của Hội nhà văn Việt Vũ Thị Hải Yến 1 Luận văn Thạc sĩ
  6. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nam năm 2006 cho truyện Cánh đồng bất tận. Năm 2008, chị được Hội nhà vănViệt Nam đề cử nhận giải thưởng Văn học ASEAN. Đây cũng là năm đầu tiên Hội nhà văn đề cử trao giải cho một tác giả trẻ dưới 40 tuổi. Đó là niềm vinh dự lớn đối với Nguyễn Ngọc Tư. Bên cạnh truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư còn sáng tác nhiều tản văn. Nhưng có thể thấy, ở lĩnh vực truyện ngắn chị đang khẳng định được ưu thế của mình. Truyện của Nguyễn Ngọc Tư vừa mang hơi thở của cuộc sống hiện đại vừa mang nét duyên của “trái sầu riêng” Nam Bộ, có người thích, khen thơm, có người bưng mũi quay đi vì chê nó nặng mùi. Tuy vậy, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn của chị thực sự tạo được “hiệu ứng” với bạn đọc. Điều gì đã làm nên thành công vang dội của một nhà văn trẻ tuổi ở những bước đầu tiên đến với văn chương nghệ thuật? Muốn lí giải điều đó chúng tôi đã chọn đề tài: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Đặc trưng của phương thức tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng là nghệ thuật trần thuật. Nắm được những đặc điểm trần thuật sẽ giúp chúng ta khám phá những tầng sâu kín, những vẻ đẹp độc đáo của truyện ngắn. Ở lĩnh vực văn xuôi, truyện ngắn đang khẳng định được ưu thế. Với những đặc điểm riêng, truyện ngắn có thể coi là một thể loại bắt nhịp nhanh với những chuyển biến muôn màu của đời sống hiện đại. Nó là thể loại phát triển mạnh nhất trong văn học đương đại, góp phần làm nên diện mạo chính của nền văn học hôm nay. Việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của một nhà văn trẻ như Nguyễn Ngọc Tư sẽ cho chúng ta thấy được sự đóng góp của chị trong quá trình vận động chung của truyện ngắn Việt Nam đương đại. Qua đó cũng cho người đọc một cái nhìn khái quát về những chuyến biến mạnh mẽ cả về nội dung phản ánh và hình thức thể hiện của thể loại truyện ngắn trong nền văn học hiện nay. Vũ Thị Hải Yến 2 Luận văn Thạc sĩ
  7. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư 2. Lịch sử vấn đề PGS.TS Lý Hoài Thu khi tổng kết sự vận động của các thể loại văn xuôi trong thời kỳ đổi mới đã nhận xét “Bên cạnh tiểu thuyết, truyện vừa và truyện ngắn (trung thiên tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết) trong các thập niên vừa qua phát triển mạnh mẽ, có thể gọi là rực rỡ. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi đây là thời kỳ “lên ngôi” của truyện ngắn. Điều này hoàn toàn có thể cắt nghĩa được bởi nhịp độ của đời sống công nghiệp hiện đại, dưới sức ép từ phía các phương tiện nghe nhìn, truyện ngắn đã phát huy được ưu thế của mình một cách hiệu quả”(Lý Hoài Thu, Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới, http: //www. Tapchisonghuong. com. vn). Đã có cả một đội ngũ đông đảo các nhà văn với sức trẻ, tài năng, họ đã tạo cho nền truyện ngắn Việt Nam đương đại một vườn hoa nhiều màu sắc rực rỡ. Bên cạnh những tên tuổi quen thuộc như: Sương Nguyệt Minh, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Nguyễn Thị Châu Giang,… Nguyễn Ngọc Tư cũng là một nhà văn trẻ đầy tài năng. Là một nhà văn được yêu mến không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài, vì thế những bài viết tìm hiểu về truyện ngắn và tạp văn của chị thường xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Từ tập truyện ngắn đầu tay năm 2000 Ngọn đèn không tắt đến tập truyện ngắn xuất bản năm 2010 Khói trời lộng lẫy, Nguyễn Ngọc Tư thực sự đã tạo nên “thương hiệu” riêng cho mình trong nền văn học hiện đại. Khen có, chê cũng không ít khiến cho việc tìm hiểu và nghiên cứu văn chương của chị càng hấp dẫn với độc giả yêu văn. Trên cơ sở tìm hiểu những bài nghiên cứu, phê bình, thảo luận về Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi xin điểm lại một số ý kiến bàn đến sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài. Vũ Thị Hải Yến 3 Luận văn Thạc sĩ
  8. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư 2.1 Lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở Cà Mau – vùng đất phương Nam cuối cùng của Tổ quốc, mới mở mắt chào đời Nguyễn Ngọc Tư đã quen với mùi hăng hăng của cỏ khi sa mưa, mùi nồng nồng oi oi của đất, mùi thơm dậy từ nồi mắm chấm rau đồng,…Chị chỉ học hết lớp chín phổ thông, cấp ba bổ túc, sống giản dị cùng người chồng thợ bạc chẳng bao giờ đọc truyện vợ viết nhưng chị thực sự là một tài năng rực sáng của Văn học Việt Nam đương đại. Chị cầm bút viết văn từ chính hiện thực quê nghèo với kênh rạch chằng chịt, con người đi lại đều trên mặt nước, một bước cũng phải ghe xuồng. Xuất hiện lần đầu tiên với truyện Ngọn đèn không tắt, Nguyễn Ngọc Tư ngay lập tức chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bằng giọng văn nhẹ nhàng, một tấm lòng trong trẻo, sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương Nam. Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập truyện khác của chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và chín câu chuyện khác và Khói trời lộng lẫy với một sự thích thú đặc biệt. Từ tập truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt (2000), Nguyễn Ngọc Tư đã sớm nổi tiếng. Mặc dù không gây xôn xao dư luận, nhưng tập truyện ngắn đã chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc và giới chuyên môn. Khi viết bài “May mà có Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên báo Văn nghệ, nhà văn Dạ Ngân đã bộc bạch tâm sự: “Chính văn nghệ đã in cho tác giả này một truyện đậm chất Nam Bộ dù truyện khá mảnh”. Cũng trên báo Văn nghệ, nhà văn Dạ Ngân đã trả lời: “tôi đã viết bài “Nguyễn Ngọc Tư như thế nào?” bằng tâm trạng thú vị khi nhớ tới lời khen mà người ta từng giành cho Solokhov: “trên bầu trời văn học nước Nga, một con đại bàng non vừa cất lên đôi cánh mênh mông từ sông Đông”. Vũ Thị Hải Yến 4 Luận văn Thạc sĩ
  9. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nhà văn Nguyễn Quang Sáng - Tổng thư ký Hội nhà văn Thành Phố Hồ Chí Minh, trưởng ban chung khảo cuộc thi sáng tác văn học tuổi 20 lần thứ II năm 2000 đã nhận xét về tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt như sau: “Tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” của Nguyễn Ngọc Tư có truyện “Ngọn đèn không tắt” là truyện ngắn nổi bật nhất. Với giọng văn mộc mạc bình dị, với ngôn ngữ đời thường đã tạo nên một không khí rất tự nhiên về màu sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng Tổ quốc – mũi Cà Mau của những con người mà cha ông là người tứ xứ về mũi đất của rừng, của sông nước, của biển cả đã dày công khai phá, đã đứng lên khởi nghĩa. Qua ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những con người lam lũ, giản dị, bộc trực ấy chứa bên trong cả một tâm hồn vừa nhân hậu vừa tinh tế qua cách đối nhân xử thế…”. Nhà văn Huỳnh Kim cũng nhận xét: “đọc tập truyện “Ngọn đèn không tắt” thật là thích vì văn chương sâu sắc mà dung dị, tinh tế mà lại tràn trề tánh nết của người dân Nam Bộ trong khi tác giả mới 24 tuổi. Với tôi truyện của Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện nhà quê. Ở trong đó, ai đọc, dù không hợp gu, cũng như tìm gặp được bóng dáng nhà quê của riêng mình”. Nhà văn Phạm Xuân Nguyên lại tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư từ góc độ khác: “Truyện “Ngọn đèn không tắt” đã cho thấy Tư biết kể những truyện nhân tình bằng một giọng chân tình khiến người đọc dễ nghe và dễ chịu”. Hoàng Thiên Nga đã tâm sự: “tôi chưa từng gặp nhưng đã yêu Nguyễn Ngọc Tư qua ngòi bút chị quá đỗi tinh tế, nhân hậu và trong lành” [20, 3]. Cũng vì yêu mến Nguyễn Ngọc Tư mà giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng - một Việt kiều Mỹ đã lập một tủ sách Nguyễn Ngọc Tư trong trang web “Văn hóa và giáo dục” của mình. Ông tự bạch trong website của mình: “tôi lập trang web với mục đích trước hết, cho tôi thu thập vào một nơi những Vũ Thị Hải Yến 5 Luận văn Thạc sĩ
  10. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư bài của (và về) Nguyễn Ngọc Tư rải rác trên các web và sau đó chia sẻ với những bạn thích văn Nguyễn Ngọc Tư như tôi”. Ông đặc biệt ấn tượng với truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vì theo ông trong văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta, khắp mọi phương trời, tìm lại được cái quê hương đích thực trong tâm tưởng, những tình tự ngủ quên trong lòng mình, những kỉ niệm mà mình tưởng không ai chia sẻ cùng. Ông đánh giá “những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư là bữa ăn thịnh soạn, dọn bày chu đáo với đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống” [11,1]. Có thể thấy, ấn tượng mà Nguyễn Ngọc Tư để lại trong độc giả là một nhà văn có “bút pháp giản dị, gọn ghẽ, đầy ắp âm sắc Nam Bộ”. Nhưng nhiều người bắt đầu sốt ruột về Nguyễn Ngọc Tư khi nghĩ rằng chị đang bằng lòng với những vinh quang chị đã có: “Đọc mãi, thấy lo lo, hình như tác giả viết bắt đầu trơn tay, ít thể nghiệm. Có cảm giác Nguyễn Ngọc Tư đang quá thảnh thơi trên con đường mà dư luận nhiều ưu ái đã phát quang cho, sự kỳ vọng bắt đầu trở thành sự sốt ruột, kiên nhẫn” [21,1]. Giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng trong bài viết: Nguyễn Ngọc Tư, “đặc sản” miền Nam, cũng có những nhận xét tương tự: “Phần nào, sự chuyên biệt của Nguyễn Ngọc Tư vào những truyện loại này, có thể làm người đọc lo ngại. Chẳng lẽ nghiệp văn của cô sẽ khoanh trong thể loại những mối tình không trọn, những kí sự đồng quê? Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhiều (trong vòng 3 năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là ở chỗ đó. Người đọc bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau…Sự quanh quẩn trong những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ) trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư” [11,3]. Tháng 8 năm 2005, truyện Cánh đồng bất tận đã ra mắt bạn đọc. Một Nguyễn Ngọc Tư rất mới khuấy động đời sống văn học, những nhận định Vũ Thị Hải Yến 6 Luận văn Thạc sĩ
  11. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trái chiều về chị được đăng trên các báo tạo thành một “hiện tượng văn học” đáng chú ý của năm 2005. Đã có nhiều ý kiến, đánh giá và những bài báo tỏ ra không có cảm tình thậm chí phê phán gay gắt về tác phẩm. Ban tuyên giáo Tỉnh Ủy Cà Mau yêu cầu kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Thạc sĩ Vưu Nghị Lực, phó giám đốc sở văn hóa - thể thao tỉnh Cà Mau viết bài đăng trên báo Tuổi trẻ với tiêu đề Có một vũng lầy bất tận. Trong đó ông đã lên án gay gắt: “ “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là ở đâu vậy; một cánh đồng bệnh hoạn về nhân cách; tồn tại không kỉ, không cương, không pháp luật” [4, 22]. Trên báo Tuổi trẻ, Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: “Tôi như cảm thông sâu sắc với người cha của Nguyễn Ngọc Tư khi ông đọc bản thảo của con mình đã im lặng…Nguyễn Ngọc Tư của ông đã là một cơn gió mát rượi của đất phương Nam bỗng trở thành cơn lốc xoáy lên, chướng lên trên cánh đồng bất tận thì ông đành phải im lặng và giấu sau đó một tiếng thở dài. Tiếng thở dài rất nhẹ mà tôi ngờ rằng một người rất nhạy cảm như Nguyễn Ngọc Tư cũng có thể sẽ không nghe thấy, nhưng đó sẽ là tiếng thở dài bất tận nếu Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục thổi phồng lên, tiếp tục khai thác, tiếp tục tô đậm phần con, phần cái ác cái xấu…” [22,1]. Tuy nhiên, đã có nhiều ý kiến đánh giá của các nhà phê bình, các nhà văn lên tiếng ủng hộ Cánh đồng bất tận và Nguyễn Ngọc Tư. Đoàn Ánh Dương khẳng định: “đến truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” trong tập truyện cùng tên, người đọc thực sự ngỡ ngàng trước sự bứt phá của tác giả. Tác phẩm kết thúc một bước quá độ dài để khẳng định sự trưởng thành của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời cũng là một tín hiệu đáng mừng cho đời sống văn học đương đại” [10,1]. Phạm Xuân Nguyên thì nhận thấy: “ “Cánh đồng bất tận” đã chia đoạn sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thành những truyện trước và sau nó” [23,1]. Vũ Thị Hải Yến 7 Luận văn Thạc sĩ
  12. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Nhà văn Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam nhận xét: “đây là một tác phẩm văn chương, không phải là một bút kí hay phóng sự. Tác giả hoàn toàn có quyền hư cấu hay sáng tạo nhằm chuyển tải tốt nhất thông điệp nghệ thuật đến người đọc” [4,57]. Nhà văn Dạ Ngân đã phát biểu trên báo Văn Nghệ: “theo tôi chúng ta đáng lẽ phải mừng vì ở tận cùng đất nước, ở miền đất xa xôi ấy, có một cây bút nữ như Nguyễn Ngọc Tư. Tôi luôn cho rằng văn học Nam Bộ mà có thêm Nguyễn Ngọc Tư là cao thêm mấy tấc nữa rồi”. Và “tôi tin Nguyễn Ngọc Tư có bản lĩnh. Không thể so sánh một tác phẩm văn học với hiện thực đời sống một cách máy móc…nhà văn nào cũng phải chịu xây xước để khẳng định mình” [4, 27]. Những khó khăn, vấp váp trên con đường văn chương đối với một người trẻ tuổi như Nguyễn Ngọc Tư là khó tránh khỏi. Đáp lại những nhận xét, đánh giá, Nguyễn Ngọc Tư vẫn tiếp tục trau dồi và không ngừng sáng tác. Khi Gió lẻ và chín câu chuyện khác ra đời, cũng có nhiều cảm nhận về tập truyện mang nhiều nét mới trong cách kể, ngôn ngữ,... Phạm Xuân Nguyên trên báo Tuổi trẻ nhận thấy: “Truyện hứa hẹn là một đột phá mới của người viết. Nhưng “Gió lẻ” chưa được đến độ như mong đợi”. Sau này, khi Khói trời lộng lẫy ra mắt bạn đọc, Phạm Xuân Nguyên cũng khẳng định: “Sách mỏng mà hay như thế này ngày nay cực hiếm”. Đúng là, mỏng manh, nhẹ nhàng như khói nhưng vẫn có thể gây cay mắt và choáng ngợp. Hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư vẫn đang sung sức trên con đường văn chương và những nhận xét, đánh giá về chị cũng rất sôi động. Đó là những gợi ý sâu sắc cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Vũ Thị Hải Yến 8 Luận văn Thạc sĩ
  13. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư 2.2 Lịch sử nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Đến với văn học bằng những truyện ngắn giản dị mà sâu sắc, Nguyễn Ngọc Tư nhanh chóng tìm được chỗ đứng trong nền văn học hiện đại và trong lòng độc giả. Những bài nghiên cứu, phê bình hoặc những cảm nhận ban đầu về truyện ngắn của chị xuất hiện ngày càng nhiều. Hiện có nhiều bài viết in trên các báo và tạp chí của các nhà nghiên cứu tìm hiểu sáng tác của chị dưới góc nhìn Trần thuật học về cốt truyện, nhân vật, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ,…. Chúng tôi xin điểm qua một số bài viết và những nhận xét tiêu biểu Giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng - người đặc biệt quan tâm đến các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư có nhận xét: “Trong cách lựa chọn tình tiết, cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư “trung thành” với cái tình tự Nam Bộ của quê hương cô. Chỉ những người sống và lớn lên ở địa phương, thật sự mến yêu họ hàng, làng xóm của mình, mới thể hiện tình tự với quê hương mình được như thế. Và bởi ở đâu cũng có cái đặc thù, chính tính đặc thù lại là độc đáo nhất. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tình tự của cuộc sống con người, có khả năng vạch ra cái chung của cái riêng” [11,2]. Khi viết bài “Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư”, Phan Quý Bích nhận định: “Nhiều người viết truyện ngắn thường cố tìm ra những cốt truyện li kỳ, những sự kiện mà người ta hay gọi là đắt giá. Không phải trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư không có những chân dung lạ, những sự kiện ít gặp trong cuộc sống của chúng ta vì hình như bức tranh không có chút gì đặc biệt thì nó khó thành bức tranh của truyện ngắn. Nhưng những câu chuyện như thế không nhiều. Thường thì Nguyễn Ngọc Tư cho ta biết những cái “tin” giản dị: một cô gái sửa soạn đồ mang theo trong ngày Vũ Thị Hải Yến 9 Luận văn Thạc sĩ
  14. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cưới, một anh bạn trẻ thấy nhớ ông già hàng xóm đã đi xa. Những cái tin như thế không cần đến những cốt truyện li kỳ, những biến cố giật gân, mà chỉ như sự thông báo về những gì diễn ra quanh ta với những con người mà ta có thể bắt gặp thường ngày mà thôi. Tuy vậy, nó vẫn là “tin”, vẫn đáng chú ý vì có một cái gì đó khiến ta phải suy nghĩ, phải chiêm nghiệm. Và đây mới là điều đáng nói” [8, 1]. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng nhận thấy: “Nguyễn Ngọc Tư thường kể cho ta nghe những chuyện buồn, rất buồn. Những cảnh đời éo le, những thân phận đau đớn” [8, 2]. Về nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Trần Phỏng Diều có những nhận xét rất tinh tế: “Mặc dù phần lớn người nông dân Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đều nghèo, đều có một số phận long đong, vất vả, nhưng trên hết, họ sống với nhau bằng cái tình, bằng sự yêu thương và đùm bọc lẫn nhau…Nguyễn Ngọc Tư quả có cái nhìn sâu sắc, tinh tế, có khả năng phát hiện ra những ngõ sâu trong tâm hồn những người nông dân Nam Bộ, những niềm vui, nỗi buồn, cốt cách đặc trưng cũng như bản chất cố hữu của họ” [9, 4]. Nhà phê bình Văn Công Hùng đã khẳng định: “Cái làm nên Nguyễn Ngọc Tư còn là ngôn ngữ. Nguyễn Ngọc Tư đã thiết lập cho riêng mình một hệ thống ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ nhưng không dị mọ ăn theo mà tung tẩy, thăng hoa theo từng ngữ cảnh cụ thể” [17, 1]. Đoàn Ánh Dương trong bài viết “Cánh đồng bất tận nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ trần thuật” nhận xét: “Tác giả đã lồng ghép hai hệ thống tự sự với ba mô hình cốt truyện trong “Cánh đồng bất tận”. Trực diện với tác phẩm, cốt truyện sự kiện đã ít nhiều bị phân rã và cốt truyện tâm lí đã có phần lấn lướt. Truyện như một bức tranh ghép mảnh những mảng kí ức chắp nối, đứt đoạn của nhân vật. Ở đó, nhân vật tan chảy thành dòng xúc cảm hỗn độn giữa quá khứ và hiện tại, tâm cảnh và ngoại cảnh mà một sự Vũ Thị Hải Yến 10 Luận văn Thạc sĩ
  15. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư phục dựng đầy đủ chỉ có được khi người đọc đã lật đến trang cuối cùng. Điều này đem đến cho người đọc cái hứng thú được thể nghiệm “một hiện thực chưa hoàn kết”, được cùng theo đuổi và trải nghiệm với nhân vật, tức là gia tăng sự tham gia của người đọc vào câu chuyện. Đó là khuynh hướng tự sự giàu tính hiện đại” [10, 2]. Đồng thời ông còn chú ý đến giọng điệu và người kể chuyện: “Để có một giọng văn chân thật, một mặt như đã nói, tác giả rời chuyển ngôi kể từ người kể chuyện sang nhân vật chính, cho nhân vật “nói” bằng ngôn ngữ cảm xúc, suy tưởng, mặt khác, đẩy ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ của nhân vật khác lọc qua lăng kính tâm lý của nhân vật chính, đưa nó vào trường cảm nhận của nhân vật chính” [10, 3]. Phạm Phú Phong trong bài Lời đề từ trong Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhận xét: “Lời đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh Phật, một câu hát dân gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với truyện…nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm…” [25]. Ở cuối bài viết tác giả khẳng định: “Những gì hiện ra trên văn bản, trên ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm ngôn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành công, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ” [25]. Có thể nói, những ý kiến, nhận định về truyện ngắn của cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư đều có những phát hiện sâu sắc về nét riêng trong cách kể chuyện, hành văn của chị. Điều đó góp phần làm cho các sáng tác của chị ngày càng được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Vũ Thị Hải Yến 11 Luận văn Thạc sĩ
  16. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Hiện cũng đã có một số luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đề cập đến một vài khía cạnh của nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư như: Khám phá thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Hà, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm 2006. Tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy từ phương diện giá trị văn học - văn hóa, Luận văn thạc sĩ của Dương Thị Kim Thoa, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm 2008. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp của Lương Thúy Hà, Đại học KHXH & NV Hà Nội, năm 2009. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu và có hệ thống về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Trên tinh thần kế thừa những thành tựu nghiên cứu của người đi trước chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của chị; hi vọng sẽ góp tiếng nói của mình vào việc khẳng định tài năng, cũng như những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư với thể loại truyện ngắn nói riêng và với nền văn học đương đại nói chung. 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi khảo sát các tập truyện ngắn sau của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: - Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn , NXB Trẻ, 2000). - Ông ngoại (Tập truyện, NXB Kim Đồng, 2001). - Biển người mênh mông (Tập truyện, NXB Trẻ, 2003). - Giao thừa (Tập truyện, NXB Trẻ, 2003). Vũ Thị Hải Yến 12 Luận văn Thạc sĩ
  17. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư - Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí, NXB Văn nghệ TPHCM, 2004). - Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2005). - Cánh đồng bất tận (Tập truyện, NXB Trẻ, 2005). - Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện, NXB Trẻ, 2008). - Khói trời lộng lẫy (Tập truyện, NXB Thời đại, 2010). Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của một nhà văn trẻ đang trên con đường kiếm tìm và định hình phong cách, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm nổi bật một số nét phong cách trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đồng thời cũng thấy được rõ hơn những đóng góp của chị trong sự vận động của Văn học Việt Nam đương đại. 4. Phương pháp nghiên cứu. Để đạt được mục đích trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích tác phẩm; Phương pháp so sánh, đối chiếu; Phương pháp phân loại, thống kê; Phương pháp hệ thống, tổng hợp. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được triển khai phần nội dung thành 3 chương : Chương 1: Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Vũ Thị Hải Yến 13 Luận văn Thạc sĩ
  18. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ 1.1 Giới thuyết về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự 1.1.1 Khái niệm người kể chuyện Tz.Todorov đã khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng…Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị trí hoàn toàn đặc biệt…”. Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại. Tìm hiểu người kể chuyện sẽ giúp ta hiểu được phương diện chủ thể của tác phẩm tự sự, sẽ hiểu tác phẩm một cách sâu sắc, trọn vẹn hơn. Trong tác phẩm trữ tình và trong kịch không cần sự xuất hiện của người kể chuyện nhưng trong tác phẩm tự sự người kể chuyện lại đóng một vai trò hết sức quan trọng. Người kể chuyện được xây dựng để phát ngôn cho ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Người kể chuyện chính là loại người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và người tiếp nhận tác phẩm, là người chứng kiến, cắt nghĩa của sự việc xảy ra còn nhà văn giống như người “chép hộ” lời lẽ của người kể chuyện do mình tạo ra, “chỉ như người ghi, người sao lục lời kể hoặc là người nghe trộm người kể”. Cho nên không thể đồng nhất tác giả với người kể chuyện bởi khi đó tác giả đã hóa thân vào hình tượng tác giả trong tác phẩm, xuất hiện như cái tôi thứ hai, trung tâm giá trị trong tác phẩm. Người kể chuyện do nhà văn sáng tạo ra và phụ thuộc chặt chẽ vào tác giả nhưng nó vẫn có những chức năng nhất định như can thiệp vào việc kể chuyện, kể nhanh, chậm, mách bảo, phân tích miêu tả hay chỉ điểm cho người Vũ Thị Hải Yến 14 Luận văn Thạc sĩ
  19. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đọc…Vì vậy mà người kể chuyện không chỉ có mối liên hệ gắn bó với tác giả mà còn với bản thân câu chuyện kể và người tiếp nhận nó. Trong tác phẩm tự sự, nhà văn trình bày, tái hiện một cách sáng tạo thế giới hiện thực thông qua lời kể, lời miêu tả,…của một người trần thuật nào đó. Người kể chuyện là sản phẩm của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác với người kể chuyện thực tế trong đời sống. Khi nhà văn lựa chọn dạng thức xuất hiện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự cũng là cách để nhà văn thể hiện ý đồ sáng tác. Có nhiều cách phân loại người kể chuyện. Nếu căn cứ vào vị trí của người kể chuyện trong tác phẩm, ta có: người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba, cá biệt có trường hợp người kể chuyện vừa ở ngôi thứ nhất vừa ở ngôi thứ ba (Linh Sơn – Cao Hành Kiện). Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất kể về câu chuyện mình chứng kiến hay câu chuyện của bản thân mình nên khoảng cách giữa người kể với câu chuyện được kể bị triệt tiêu (Lão Hạc – Nam Cao, Sợi tóc - Thạch Lam, Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu). Tham dự vào truyện như một nhân vật, người kể chuyện đứng ở vị trí bên trong như một chủ thể, được tự do quan sát bàn luận, có điều kiện đi sâu tìm hiểu, khám phá thế giới hiện thực trong tác phẩm. Lời kể bộc lộ tính chất chủ quan và sắc thái cảm xúc cao độ. Người kể chuyện ở ngôi này có thể mang quan điểm của tác giả nhưng không phải lúc nào cũng trùng khít với tác giả. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba phổ biến hơn, là hình thức kể khi người kể chưa được ý thức (như trong truyện thần thoại, truyện cổ tích,…) hoặc là đã được ý thức nhưng cố ý giấu mình (như trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại). Ngôi kể này làm cho câu chuyện hoàn toàn khách quan, người kể chuyện vốn có tài “hiểu biết hết” mọi chuyện. Nếu căn cứ vào vai trò của người kể chuyện, sẽ có hai loại: Người kể chuyện không đáng tin cậy, không biết hết và người kể chuyện đáng tin cậy Vũ Thị Hải Yến 15 Luận văn Thạc sĩ
  20. Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Tuy nhiên, vấn đề người kể chuyện trong tác phẩm tự sự “cho đến nay, nó vẫn là vấn đề đòi hỏi phải tiếp tục xem xét và nghiên cứu” (Nguyễn Hải Phong). Mặc dù vậy chúng ta không thể phủ nhận vai trò và chức năng của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự nói chung và trong truyện ngắn nói riêng. 1.1.2 Vai trò, chức năng của người kể chuyện Là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự, người kể chuyện là một sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể hoàn toàn không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục đích chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả nhất. Có thể khẳng định trong truyện ngắn nói riêng cũng như trong tác phẩm tự sự nói chung người kể chuyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Viết truyện, nhà văn thường xây dựng những kết cấu riêng. Người kể chuyện phải thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết cấu tốt nhất để làm câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc. Với những cách kể chuyện khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lý, cốt truyện “chuyện lồng chuyện”…Có tác phẩm chỉ có một người kể chuyện và cũng chỉ kể một câu chuyện (Đồng hào có ma - Nguyễn Công Hoan). Có tác phẩm chỉ có một người kể chuyện nhưng kể nhiều câu chuyện khác nhau (Đất kinh kì - Nguyễn Khải). Có tác phẩm trong đó nhiều người kể chuyện cùng kể về một câu chuyện (Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu). Cũng có tác phẩm trong đó nhiều người kể chuyện kể nhiều chuyện khác nhau (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu),…Có thể thấy, người kể chuyện có một vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm. Timofiev đã từng khẳng định: “Hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng Vũ Thị Hải Yến 16 Luận văn Thạc sĩ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2