intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái

Chia sẻ: Minh Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:120

44
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn sẽ tập trung phân tích, đánh giá những đặc sắc về nghệ thuật trào phúng của Hồ Anh Thái ở các phương diện: Xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện. Ngoài ra còn nghiên cứu nghệ thuật trần thuật độc đáo, phát huy khả năng tạo dựng tiếng cười ở phương thức trần thuật, hệ thống giọng điệu và ngôn ngữ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- PHẠM THỊ NGỌC HÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI LUÂN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2009 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- PHẠM THỊ NGỌC HÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. NGUYỄN BÍCH THU HÀ NỘI - 2009 2
  3. MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 5 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................ 5 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................. 7 3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI ...................... 13 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................... 14 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN ..................................................................... 15 Chương 1: HỒ ANH THÁI VÀ NHỮNG SÁNG TÁC TRÀO PHÚNG .. 16 1.1. VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ... 16 1.2. SỰ LỰA CHỌN BÚT PHÁP TRÀO PHÚNG CỦA HỒ ANH THÁI 24 1.3. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG SÁNG TÁC TRÀO PHÚNG CỦA HỒ ANH THÁI ..................................................... 29 1.3.1. Cuộc sống là một “Nhà cƣời” ...................................................... 33 1.3.2. Con ngƣời trong sáng tác trào phúng của Hồ Anh Thái ................ 37 Chương 2: NHÂN VẬT, TÌNH HUỐNG VÀ CỐT TRUYỆN TRONG SÁNG TÁC TRÀO PHÚNG CỦA HỒ ANH THÁI ................................. 44 2.1. NHÂN VẬT TRÀO PHÚNG ............................................................. 44 2.1.1. Nhân vật nghịch dị ....................................................................... 44 2.1.2. Ký hiệu hóa nhân vật – Những nhân vật vô danh ......................... 53 2.2 MỘT SỐ TÌNH HUỐNG TRÀO PHÚNG .......................................... 58 2.2.1. Tình huống mâu thuẫn - hài hƣớc ................................................ 59 2.2.2. Tình huống kỳ ảo ......................................................................... 63 2.2.3. Chuỗi tình huống nghịch dị trong Mười lẻ một đêm ..................... 66 2.3. MỘT SỐ CẤU TRÚC CỐT TRUYỆN ĐỘC ĐÁO ............................ 70 2.3.1. Xâu chuỗi các chi tiết trào phúng ................................................. 71 2.3.2. Cấu trúc cốt truyện phân mảnh .................................................... 74 3
  4. 2.3.3. Cấu trúc cốt truyện lồng ghép ...................................................... 76 Chương 3: PHƢƠNG THỨC TRẦN THUẬT, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRONG SÁNG TÁC TRÀO PHÚNG CỦA HỒ ANH THÁI ........ 80 3.1. PHƢƠNG THỨC TRẦN THUẬT ..................................................... 80 3.1.1. Mở đầu và kết thúc bất ngờ, hóm hỉnh ......................................... 80 3.1.2. Cách thức trần thuật tạo tiếng cƣời trào phúng ............................. 83 3.1.2.1. Trần thuật ngôi thứ nhất ............................................................ 83 3.1.2.2. Trần thuật khách quan với sự dịch biến điểm nhìn .................... 87 3.1.3. Thủ pháp gián cách và đối thoại độc giả ...................................... 91 3.2. HỢP XƢỚNG GIỌNG ĐIỆU ............................................................ 94 3.2.1 Giọng điệu hài hƣớc ...................................................................... 94 3.2.2. Giọng điệu châm biếm ................................................................. 96 3.2.3. Giọng điệu giễu nhại .................................................................... 98 3.2.4. Giọng điệu triết lý ...................................................................... 100 3.3. NGÔN NGỮ ĐA THANH, HIỆN ĐẠI ............................................ 102 3.3.1. Ngôn ngữ thị dân hiện đại .......................................................... 102 3.3.2. Sự phức hợp của các hệ lời ........................................................ 104 3.3.3. Các thủ pháp lạ hóa ngôn ngữ .................................................... 106 3.3.4. Một số biện pháp tu từ ............................................................... 108 KẾT LUẬN ............................................................................................... 112 THƢ MỤC THAM KHẢO .......................... Error! Bookmark not defined. 4
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đặc biệt là từ những năm 1980 trở lại đây đã chứng kiến sự trở lại của tiếng cƣời trào phúng sau một thời gian vắng bóng. Hiện tƣợng này cho thấy những thay đổi đáng kể trong quan niệm, tƣ duy nghệ thuật của nhà văn về hiện thực cuộc sống và con ngƣời. Sự “phục sinh” tiếng cƣời là một sự đổi thay lớn trong nội dung cảm hứng của văn xuôi giai đoạn này. Nó xuất hiện trong các sáng tác của nhiều nhà văn, từ lớp nhà văn lão thành nhƣ Vũ Bão, Tô Hoài, Trang Thế Hy, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Kiên... cho đến lớp nhà văn đã và đang sung sức nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Khắc Trƣờng, Tạ Duy Anh và đặc biệt xuất hiện nhiều ở các tác phẩm gần đây của Hồ Anh Thái. Trong không khí dân chủ của đời sống văn học, các nhà văn tìm đến những phƣơng tiện nghệ thuật trào phúng để phản ánh hiện thực cuộc sống đang có nhiều biến chuyển dữ dội, một mặt kế thừa những thành tựu nghệ thuật trào phúng từ lớp các nhà văn bậc thầy trong văn học Việt Nam, mặt khác có những khám phá, tìm tòi, thể nghiệm mới mẻ, góp phần tạo nên diện mạo mới cho văn học Việt Nam đƣơng đại. 1.2. Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn trƣởng thành trong thời kỳ đổi mới. Ông đến với nghề văn khá sớm (từ năm 17 tuổi) với tác phẩm đầu tay Bụi phấn. Từ đó đến nay, trải qua hơn 30 năm cầm bút, Hồ Anh Thái đã có trong tay hơn 30 đầu sách gồm cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Hồ Anh Thái cũng đã đƣợc nhận giải thƣởng truyện ngắn của báo Văn nghệ với truyện ngắn Chàng trai ở bến đợi xe, giải thƣởng văn xuôi 1986 – 1990 của Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam với tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng; giải thƣởng của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt 5
  6. Nam, với tập truyện ngắn Người đứng một chân. Nhìn vào chặng đƣờng sáng tác của Hồ Anh Thái có thể nhận thấy một sức viết bền bỉ, miệt mài thể hiện những nỗ lực trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Số lƣợng tác phẩm của Hồ Anh Thái tăng dần theo thời gian: tiểu thuyết Phía sau vòm trời (1982), Mai phục trong đêm hè (1982), Vẫn chưa tới mùa đông (1984), Người đàn bà trên đảo (1985), Trong sương hồng hiện ra (1989), Mảnh vỡ của đàn ông (1993), Lũ con hoang (1995) Tiếng thở dài qua rừng kim tước (2003), Tự sự 265 ngày (2003) (tác phẩm này đƣợc giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam nhƣng tác giả từ chối không nhận), Cõi người rung chuông tận thế (2003), Bốn lối vào nhà cười (2004), Mười lẻ một đêm (2006), Đức Phật, nàng Savitri và tôi (2007)... Hồ Anh Thái cũng là một trong số ít những nhà văn có tác phẩm đƣợc in và dịch ở nhiều nƣớc trên thế giới nhƣ Mỹ, Anh, Pháp, Ấn Độ... Tác phẩm Hồ Anh Thái không chỉ nhiều về số lƣợng mà còn có giá trị về nội dung và nghệ thuật, thu hút sự quan tâm của độc giả và giới phê bình. 1.3. Nhìn vào quá trình sáng tác của Hồ Anh Thái, chúng tôi tạm thời phân chia thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu là những tác phẩm tràn đầy ƣớc mơ khát vọng, niềm tin về lớp ngƣời trẻ đầy nhiệt huyết trong sự nghiệp khôi phục và phát triển đất nƣớc sau chiến tranh; giai đoạn tiếp theo là những sáng tác về Ấn Độ; và gần đây là những sáng tác về thành thị và đời sống công chức. Trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái thời gian gần đây, có thể thấy một phƣơng diện nghệ thuật nổi bật là tiếng cười trào lộng. Cùng với đó là sự thay đổi về bút pháp nghệ thuật, từ bút pháp lãng mạn, huyền thoại hoá tới bút pháp hiện thực, trào phúng. Đọc các tập truyện ngắn nhƣ Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, đặc biệt là cuốn tiểu thuyết gây đƣợc tiếng vang đặc biệt nhƣ Mười lẻ một đêm, có thể thấy Hồ Anh Thái là một ngƣời thích cƣời, biết cƣời và có thể làm độc giả cƣời đƣợc. Nghệ thuật trào phúng đã giúp nhà văn không chỉ tạo đƣợc tiếng cƣời mà còn là phƣơng tiện giúp nhà văn thể hiện 6
  7. cách nhìn về cuộc sống và con ngƣời đƣơng thời hài hƣớc mà không kém phần sâu sắc. Tác giả một mặt kế thừa truyền thống văn học trào phúng qua những bậc thầy nhƣ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xƣơng, Nguyễn Công Hoan, đặc biệt là Vũ Trọng Phụng, mặt khác, luôn có những tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật tạo nên sắc diện mới cho tiếng cƣời trong nhiều tác phẩm của mình. Xuất phát từ niềm hứng thú với tác phẩm trào phúng nói chung và các tác phẩm của Hồ Anh Thái nói riêng, chúng tôi nghiên cứu đánh giá nghệ thuật trào phúng ở một vài tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác gần đây nhất của Hồ Anh Thái. Tuy đây chỉ là một phần nhỏ trong thành tựu đạt đƣợc của Hồ Anh Thái, song chúng tôi hy vọng, việc tìm hiểu về nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái cũng là một trong những cách đánh giá những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của nhà văn cùng những đóng góp của ông trong nền văn xuôi đƣơng đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Các tác phẩm của Hồ Anh Thái ngay từ khi ra đời đã thu hút đƣợc sự quan tâm giới nghiên cứu, phê bình văn học và dƣ luận bạn đọc trong và ngoài nƣớc. Hàng loạt bài tiểu luận, nghiên cứu phê bình, bài viết giới thiệu tác phẩm và các bài phỏng vấn nhà văn đƣợc đăng tải trên các tạp chí, các báo, phƣơng tiện truyền thông. Chúng tôi chú ý đến những ý kiến xoay quanh nghệ thuật trào phúng của Hồ Anh Thái trong những năm gần đây. Có thể nói, sự ra đời của ba tác phẩm Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Mười lẻ một đêm đánh dấu một lối viết mới của Hồ Anh Thái. Rất nhiều công trình, nhiều bài viết khẳng định, nghệ thuật trào phúng là một trong những đặc điểm độc đáo trong sáng tác Hồ Anh Thái trong những năm gần đây, đặc biệt là ở các tác phẩm nêu trên. Tác giả Vân Long trong bài Một giọng văn khác nhận ra ở tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, “nhà văn hình thành 7
  8. một giọng văn hoàn toàn khác thời kỳ đầu: trào lộng, châm biếm hóm hỉnh và sắc sảo những câu chuyện, những thói tật đáng cƣời trong xã hội. Đọc tập truyện này, ngƣời đọc nhiều chỗ phải bật cƣời thành tiếng nhƣ đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hay những chuyện châm biếm của Azit Nêxin (Thổ Nhĩ Kỳ)” [50, 245]. Trong bài viết này, tác giả cũng đã chỉ ra một vài thủ pháp nghệ thuật đặc sắc tạo nên một vị trí riêng ở thể văn này và cho rằng, đó cũng là một cách nhà văn nhập sâu vào thực tại đời sống đang đan xen lẫn lộn giữa cái mới đích thực và sự học đòi nhố nhăng, dùng tiếng cƣời thông minh để phê phán chúng. Trong bài viết Cái mà văn chương còn thiếu, Ma Văn Kháng cũng khẳng định trào phúng là một đặc điểm nổi bật của văn phong Hồ Anh Thái, và tác giả thực sự thích thú với giọng văn mới này: “Tôi thích giọng văn của Hồ Anh Thái ” bởi “nó có cái thông minh hóm hỉnh, vừa sâu sắc, vừa có tính truyền thống. Hơn nữa cái này mới thật thích đây: chất trào phúng, giễu nhại chua cay mà tâm thiện. Chất này văn chương ta thiếu quá” [48, 327]. Bằng nhận định này, Ma Văn Kháng đã khẳng định vai trò của Hồ Anh Thái khi góp phần đổi mới văn học theo khuynh hƣớng dân chủ hoá, thông qua việc sáng tạo tiếng cƣời trào phúng, cái vốn có truyền thống trong văn học dân tộc nhƣng bị đứt gãy, vắng bóng một thời gian do sự chi phối của điều kiện lịch sử, chính trị, xã hội... Nhà văn Ma Văn Kháng cũng nhận thấy những câu chuyện của Hồ Anh Thái mở ra một góc nhìn nhân sinh, cho thấy tính đa tầng, những thực tại nhìn thấy và không nhìn thấy, những ấn tƣợng đặc sắc thông qua chủ đề của nó ở chính cuộc đời này, của hôm nay... Nhiều bài viết cũng khẳng định sự hiện diện của tiếng cƣời trào phúng trong nhiều sáng tác của Hồ Anh Thái. Trong bài viết Nói bằng lời của mình, tác giả Võ Anh Minh nhận xét, Hồ Anh Thái là nhà văn tinh nhạy trong việc phát hiện những thói xấu đáng cƣời, đáng chê của con ngƣời và vạch nó ra 8
  9. bằng cái nhìn hài hƣớc. Nhƣng cái cƣời trong văn xuôi Hồ Anh Thái thật thâm sâu, đến mức cƣời xong thì thấy ƣu tƣ, xa xót, thậm chí giật mình chợt nghĩ: khéo ta vừa mới cƣời chính ta. Các tập truyện Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, cùng tiểu thuyết Mười lẻ một đêm mới xuất bản đầu năm 2006 và một số truyện ngắn khác là những nụ cƣời nhƣ vậy của Hồ Anh Thái. Tác giả Võ Anh Minh cũng phân tích rõ đối tƣợng của tiếng cƣời trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Nếu nhƣ ở tập truyện Tự sự 265 ngày, nhà văn chủ yếu hƣớng tiếng cƣời vào giới trí thức, công chức thì đến Bốn lối vào nhà cười, cái cƣời có phạm vi rộng hơn, vƣơn tới bao trùm nhiều hạng ngƣời trong xã hội, nhiều lĩnh vực khác nhau... Nhiều bài viết cũng đánh giá cao tiếng cƣời trong Mười lẻ một đêm. Tác giả Hoài Nam trong bài “Chất hài hƣớc, nghịch dị trong Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái đánh giá sáng tác của Hồ Anh Thái “có thể khiến ta phải bật cƣời, bởi tính chất hài hƣớc của nó. (...) kể từ khi Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cƣời hài hƣớc. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cƣời và cũng ít muốn khiến cho độc giả phải bật cƣời thông qua tác phẩm của mình” [55, 339]. Ở đây, tác giả bài viết đã đặt tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái trong bối cảnh văn học đƣơng thời đang thiếu vắng tiếng cƣời sắc sảo, càng cho thấy ý nghĩa của cuốn tiểu thuyết này. Trên báo Thanh niên cũng đƣa ra những nhận xét về chất hài hƣớc trong tiểu thuyết này: “Mười lẻ một đêm đƣợc viết bằng giọng hài hƣớc chủ đạo. Thậm chí có những truyện đƣợc lồng cả vào truyện cƣời dân gian. Câu văn thụt thò, dài ngắn có chủ đích... Tác giả dũng cảm - phải dùng từ dũng cảm - nhảy thẳng vào những ngổn ngang của cuộc sống hôm nay.” Nhƣ vậy, rất nhiều nhà phê bình, bạn đọc đã nhận thấy một lối viết mới trong sáng tác của Hồ Anh Thái, gắn với việc tạo dựng tiếng cƣời trào phúng. 9
  10. Nhiều công trình, bài viết cũng bƣớc đầu nghiên cứu, đánh giá những phƣơng diện cụ thể trong nghệ thuật trào phúng của Hồ Anh Thái. Trong bài viết Hồ Anh Thái người mê chơi cấu trúc của Nguyễn Đăng Điệp cho rằng, Hồ Anh Thái dám nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo… Chính vì hình dung cuộc sống nhƣ những mảnh vỡ, tác giả sẽ nhận thấy sự xen cài của cái ác và cái thiện, cái cao cả và thấp hèn, cái sang trọng đi liền với cái nhếch nhác, cái trong suốt xen lẫn cái phàm tục. Đây là cái nhìn “suồng sã” của tƣ duy nghệ thuật hiện đại. Nguyễn Đăng Điệp cũng phân tích cho thấy một vài nét đặc sắc trong nghệ thuật của Hồ Anh Thái: “Có thể nói, Hồ Anh Thái đã xây dựng những tác phẩm của mình bằng tƣ duy nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại. (…) Nhà văn không chú ý nhiều đến chuyện mà chú ý nhiều hơn cấu trúc truyện. Tƣơng ứng với điều đó là sự gia tăng các chi tiết miêu tả không gian so với hệ thống chi tiết miêu tả thời gian. Điều này giúp nhà văn dựng lên các hoạt cảnh để nhân vật diễn vai mình một cách chân thực trong quá trình va quệt với môi trƣờng và với các nhân vật khác” [48, 352]. Chính vì vậy mà các nhân vật trong sáng tác của Hồ Anh Thái chinh phục ngƣời đọc một cách khá tự nhiên, không gây cảm giác gƣợng. Theo Nguyễn Đăng Điệp: “Dấu vết các “mối hàn” khi xây dựng nhân vật trong các trƣờng đoạn khác nhau đƣợc ngụy trang rất khéo khiến cho ngƣời đọc không nhận thấy sự sắp xếp lộ liễu của nhà văn. Đây là một thành công đáng ghi nhận của Hồ Anh Thái về nghệ thuật dựng truyện và tạo “lực hấp dẫn” nhằm thu phục ngƣời đọc.” Tác giả Hoài Nam trong bài viết: Hồ Anh Thái - người lúc nào cũng viết đăng trên báo Văn nghệ cho rằng từ năm 1995 cho đến nay, các tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Sắp đặt và diễn, và tiểu thuyết Mười lẻ một đêm “không nhƣ các giai đoạn trƣớc đôn hậu, trong sáng hoặc tỉnh táo sắc lạnh - giọng điệu văn xuôi Hồ Anh Thái lúc này nghiêng về giễu 10
  11. cợt, trào lộng, mỉa mai sâu cay và không hề nƣơng nhẹ trƣớc đối tƣợng.” Tác giả nhận thấy: “trong truyện Hồ Anh Thái luôn tạo đƣợc những tình huống “chẳng giống ai”, những tình huống truyện mang chức năng của những nút nhấn để từ đó các panorama hiện ra với tất cả đƣờng nét và dáng vẻ xiêu xó tức cƣời. Nhà văn phát hiện rất nhanh nhạy cái lố bịch trong đời sống, khai thác đến cùng phƣơng diện gây cƣời của nó để đƣa vào tuyến vận động của cốt truyện một cách thật nhuần nhuyễn. Tƣơng hợp tối đa với sự phát hiện này là một kiểu văn phong bất chấp chuẩn mực ngữ pháp tiếng Việt, câu cú xô lệch thụt thò, khi dài lê thê, khi cụt lủn cộc lốc.” Tác giả bài viết cũng nhận ra; “nhân vật trong những tác phẩm này chỉ là những con rối trong bàn tay điều khiển của nhà văn. Chúng xuất hiện và hành động chỉ để thể hiện cho cái cảm quan của anh về một trần thế ngả nghiêng đầy rẫy sự tức cƣời.” Nhận xét về cấu trúc truyện của Hồ Anh Thái, nhiều tác giả cho rằng Hồ Anh Thái nhiều khi không chú trọng xây dựng cốt truyện theo diễn biến trình tự mà thƣờng phát hiện và kết nối các chi tiết trào phúng. Tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên trong bài Chợt gặp trong nhà cười nhận xét: “Cái hài đƣợc nảy sinh từ những biểu hiện mâu thuẫn giữa tính nội tại và biểu hiện, bên trong và bên ngoài và sự va đập của chi tiết (Chợ, Cả một dây theo nhau đi). Hầu hết các truyện trong tập này là cấu trúc phản ứng dây chuyền của trùng trùng chi tiết xô bồ và bừa bộn bất chấp thứ tự lớp lang. Nó sẽ bị gọi là lan man với ngƣời đọc quen tìm cốt truyện. Nhƣng thú vị với những ai đọc để tìm sự liên tƣởng và mạch ngầm trong “rừng” chi tiết, cấu trúc ấy”[36]. Nhiều ngƣời khác lại nhận thấy nét độc đáo trong giọng điệu và ngôn ngữ Hồ Anh Thái. Trong bài Người luôn làm mới mình, tác giả Tôn Phƣơng Lan nhận xét, “trong các truyện ngắn viết gần đây ít khi ta gặp lại một Hồ Anh Thái trong kiểu kết cấu truyền thống. Anh tạo cho mình một kiểu cấu trúc riêng, một thứ ngôn từ riêng. Phải nói rằng ngôn từ của thị dân là một đặc 11
  12. trƣng rất riêng trong văn Hồ Anh Thái. Đó là một nét lạ và không thể nói là không hấp dẫn. Thứ ngôn từ đó rất phù hợp với giọng giễu nhại có trong nhiều sáng tác của anh. Anh giễu nhại một lớp cán bộ khoa học làm công ăn lƣơng, một số họa sĩ, đạo diễn, diễn viên bất tài, giễu nhại các thứ thi cử, phong danh...” [28]. Tác giả Tôn Phƣơng Lan cũng nhận thấy nét đặc sắc trong cách xây dựng đối thoại giữa các nhân vật, “ít khi ta gặp trong truyện ngắn của anh các cuộc đối thoại của nhân vật. Thƣờng anh chuyển từ lời nói trực tiếp thành lời nói gián tiếp và sử dụng từ đồng âm khá thành thục. Đọc Hồ Anh Thái, ta cảm giác nhƣ đang tiếp xúc với các mảnh vỡ khác nhau của hiện thực: đa dạng về kiểu dáng và phong phú về sắc màu. Nhiều trang viết của anh tƣơi nguyên hơi thở của đời sống gấp gáp đầy bon chen và vất vả” [28]. Còn Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Mười lẻ một đêm cái nhìn hắt sáng từ phía sau chỉ ra sự sáng tạo mới lạ trong giọng kể của Hồ Anh Thái, một giọng kể mang tính thông tấn, để tìm đƣợc một thi pháp mới cho riêng cuốn tiểu thuyết này. Tác giả bài viết gọi đó là thi pháp giễu nhại - thông tấn. Cùng nhận xét về giọng điệu của Hồ Anh Thái còn có bài viết Bước vào đó...mà cười của tác giả Xuân Hạo: “Trong Bốn lối vào nhà cười, ở lối nào (Sinh - Lão - Bệnh - Tử) cũng có tiếng cƣời, nó biến giọng văn của Hồ Anh Thái thành cái giọng khác: giọng châm chọc, giọng hoạt kê, đả kích, hơi giống cái giọng của Vũ Trọng Phụng ở đầu thế kỷ trƣớc” [20]. Các tác giả nhƣ Nguyễn Đăng Điệp, Hoài Nam, Nhị Hà đều khẳng định rằng nhà văn có giọng điệu phong phú, đa dạng, song nổi bật lên là giọng điệu giễu nhại, châm biếm, tạo nên tiếng cƣời trào phúng lúc nhẹ nhàng, lúc sâu cay. Thời gian qua, các sáng tác Hồ Anh Thái cũng trở thành đề tài nghiên cứu khoa học hoặc luận văn tốt nghiệp nhƣ: Khoá luận tốt nghiệp Tiếng cười trong truyện ngắn Hồ Anh Thái của sinh viên Nguyễn Thị Tƣơi, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội; Luận văn thạc sĩ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Hồ 12
  13. Anh Thái của Nguyễn Thị Hải Huyền, trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội... Luận văn thạc sĩ Cảm hứng trào lộng trong sáng tác Hồ Anh Thái của Thiều Đức Dũng, trƣờng Đại học Vinh... Luận văn thạc sĩ Nghệ thuật truyện ngắn của Hồ Anh Thái của Nguyễn Thị Vân, trƣờng Đại học Sự phạm Hà Nội... Nhƣ vậy, nhìn một cách khái quát về tình hình nghiên cứu nghệ thuật trào phúng trong sáng tác Hồ Anh Thái qua các bài phê bình, phỏng vấn, những công trình nghiên cứu đã tập hợp đƣợc, chúng tôi nhận thấy: Nhìn chung, giới nghiên cứu phê bình đều nhất trí cho rằng, những sáng tác gần đây của Hồ Anh Thái mang đậm tiếng cƣời trào lộng. Điều đó cho thấy nhà văn đã có sự thay đổi trong tƣ duy nghệ thuật mà cụ thể là đang hƣớng đến bút pháp nghệ thuật trào phúng, để phản ánh thế giới và con ngƣời. Trong bối cảnh chung đó, chúng tôi nhận thấy, những nghiên cứu về nghệ thuật trào phúng ở Hồ Anh Thái mới chỉ dừng lại ở những nhận định khái quát, chƣa có công trình nghiên cứu hoàn chỉnh về vấn đề này. Song, những ý kiến đánh giá, phê bình mang tính khách quan đó thực sự là những gợi ý qúy báu giúp chúng tôi tiếp cận và triển khai đề tài. Với việc lựa chọn đề tài Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác Hồ Anh Thái, chúng tôi hy vọng sẽ đƣa tới một cái nhìn hệ thống và khái quát về những đóng góp của Hồ Anh Thái đối với nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn lựa chọn hai tập truyện ngắn và một tập tiểu thuyết của Hồ Anh Thái làm đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu cho đề tài: “Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái”: - Tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày, NXB Hội Nhà văn Hà Nội 2003 13
  14. - Tập truyện ngắn Bốn lối vào nhà cười, NXB Đà Nẵng 2004 - Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, NBX Đà Nẵng 2006 Đây là những tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu sự đổi mới trong phong cách nghệ thuật của nhà văn gắn với việc sử dụng bút pháp trào phúng để phản ánh hiện thực cuộc sống. 3.2. Nhiệm vụ đề tài Nhiệm vụ luận văn: Luận văn khái lƣợc về văn học trào phúng Việt Nam hiện đại, nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn bút pháp trào phúng của Hồ Anh Thái; hiện thực cuộc sống và con ngƣời trong các sáng tác trào phúng của Hồ Anh Thái. Luận văn sẽ tập trung phân tích, đánh giá những đặc sắc về nghệ thuật trào phúng của Hồ Anh Thái ở các phƣơng diện: xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện. Ngoài ra còn nghiên cứu nghệ thuật trần thuật độc đáo, phát huy khả năng tạo dựng tiếng cƣời ở phƣơng thức trần thuật, hệ thống giọng điệu và ngôn ngữ. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp phân tích Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại… để làm sáng tỏ các thủ pháp nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm 4.2. Phương pháp so sánh Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp so sánh trên phƣơng diện đồng đại và lịch đại để thấy đƣợc những nét độc đáo và sáng tạo của nhà văn Hồ Anh Thái trong nghệ thuật trào phúng. 4.3. Phương pháp lịch sử Nhìn nhận sang tác của Hồ Anh Thái trong tính lịch sử cụ thể của điều kiện hoàn cảnh ra đời tác phẩm, từ đó nhìn nhận, lí giải đúng về thành công 14
  15. của Hồ Anh Thái trong việc sử dụng bút pháp trào phúng để phản ánh hiện thực. 4.4. Phương pháp tổng hợp Trên cơ sở phân tích, so sánh, đối chiếu chúng tôi sử dụng phƣơng pháp tổng hợp để nhằm đƣa ra những kết luận, đánh giá khái quát về nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Hồ Anh Thái. 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thƣ mục tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng sau: Chương 1: Hồ Anh Thái và những sáng tác trào phúng Chương 2: Nhân vật, tình huống và cốt truyện trong sáng tác trào phúng của Hồ Anh Thái Chương 3: Phƣơng thức trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trong sáng tác trào phúng của Hồ Anh Thái 15
  16. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 HỒ ANH THÁI VÀ NHỮNG SÁNG TÁC TRÀO PHÚNG 1.1. VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI “Trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cƣời nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học và cái hài” [19, 363]. Ở đây cũng phải hiểu cái hài là “sự mâu thuẫn, sự không tƣơng xứng mà ngƣời ta có thể cảm nhận đƣợc về phƣơng diện xã hội – thẩm mỹ (chẳng hạn hình thức với nội dung, hành động với tình huống, mục đích và phƣơng tiện, bản chất và biểu hiện…). Luận văn quan niệm trào phúng với nghĩa khái quát nhất là gây cƣời (tiếng cƣời có ý nghĩa xã hội). Thủ pháp gây cƣời trong tác phẩm trào phúng rất phong phú, đa dạng. Mỗi nhà văn có tài nghệ riêng trong việc tạo ra tiếng cƣời bằng những thủ pháp nghệ thuật khác nhau. Những thủ pháp này liên quan đến đặc trƣng thể loại của các tác phẩm. Liên quan đến trào phúng còn có một khái niệm có nội hàm khá gần đó là trào lộng. Nếu trào phúng là tiếng cƣời để châm biếm, phê phán đả kích những hiện tƣợng đáng cƣời, đáng lên án thì trào lộng là một cấp độ biểu hiện nhẹ hơn, nó cũng hƣớng vào những đối tƣợng đáng cƣời nhƣng chỉ dừng lại ở mức độ chế giễu gây cƣời. Cảm hứng trào lộng là nguồn cảm hứng lớn trong văn học Việt Nam. Cảm hứng trào lộng khởi nguồn từ những cái lệch chuẩn gây cƣời, gắn liền với sự phát hiện cái xấu và nhu cầu phê phán cái xấu, cái đáng cƣời đáng bị xóa bỏ trong xã hội. Văn học trào phúng bao hàm lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ truyện cƣời, truyện tiếu lâm, truyện trạng trong văn học dân gian đến tiểu thuyết hoạt kê, từ các vở hài kịch đến các bài thơ hài hƣớc, châm 16
  17. biếm. Ở Việt Nam, bộ phận văn học trào phúng ra đời từ rất sớm và chiếm vị trí rất quan trọng trong nền văn học dân tộc. Các truyện cƣời, vè, truyện trạng trong văn học dân gian đã xuất hiện tiếng cƣời trào phúng. Trong văn học viết, văn học trào phúng phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XV- XVIII với những tên tuổi nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hƣơng, bằng những vần thơ chống phong kiến quyết liệt. Văn học trào phúng phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ XIX, với đỉnh cao là Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng, văn học trào phúng trở thành vũ khí sắc bén phê phán những mặt tiêu cực của xã hội, lên án bọn quan lại thối nát và giả dối, chế giễu những kẻ chạy theo đồng tiền, đả kích việc thi cử lúc bấy giờ bằng ngòi bút châm biếm sâu cay. Từ thế kỷ XX, bên cạnh thơ ca trào phúng còn xuất hiện văn xuôi trào phúng đặc biệt là truyện ngắn và tiểu thuyết trào phúng, hai thể loại mới xuất hiện nhƣng ngay lập tức đạt đƣợc những thành tựu lớn, với các tác giả nổi tiếng nhƣ Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, văn học trào phúng có bƣớc phát triển thăng trầm, dù chƣa có những đỉnh cao, nhƣng văn chƣơng trào phúng vẫn phát triển và góp phần làm phong phú diện mạo văn học nƣớc nhà. Nói đến nghệ thuật trào phúng là nói đến nguyên tắc cấu trúc trong việc tổ chức một phát ngôn nghệ thuật (chẳng hạn nhƣ cách thức sử dụng từ ngữ; câu; quy tắc thể loại; nguyên tắc xây dựng cốt truyện; nguyên tắc phong cách). Qua đó làm bật lên tiếng cƣời trƣớc một sự vật, hiện tƣợng nào đó. Nhìn chung, để tạo tiếng cƣời trào lộng, các tác giả thƣờng sáng tạo những mâu thuẫn, nghịch lý, sử dụng bút pháp phóng đại, xây dựng những chân dung châm biếm…Tùy vào từng thời kỳ khác nhau, các thể loại khác nhau mà nghệ thuật trào phúng có sự thay đổi và phát triển. Chẳng hạn trong văn học dân gian, văn học trung đại, yếu tố trào phúng thƣờng xuất hiện trong truyện cƣời; thơ ca. Do đặc trƣng thể loại, tác giả vận dụng triệt để các biện pháp tạo dựng 17
  18. tình huống mâu thuẫn, phóng đại, chơi chữ, nhân hóa, so sánh, ẩn dụ… Văn học hiện đại có thêm thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, đặc trƣng thể loại cho phép nhà văn mở rộng, vận dụng tổng hợp các thủ pháp nghệ thuật hiện đại, từ đó làm tăng sức mạnh và ý nghĩa xã hội cho tiếng cƣời trào phúng. Trong lịch sử văn học dân tộc, văn học trào phúng luôn giữ một vai trò quan trọng. Ở mỗi một thời kỳ khác nhau, tùy vào hoàn cảnh lịch sử xã hội mà tiếng cƣời trong văn học trào phúng hƣớng vào những đối tƣợng, hiện tƣợng khác nhau; tính chất, sắc thái của tiếng cƣời trào phúng cũng khác nhau. Văn học hiện đại Việt Nam đƣợc tính từ đầu thế kỷ XX trở đi. Trong giai đoạn 1930-1945, văn học Việt Nam có một bộ phận không nhỏ dùng tiếng cƣời để phản ánh và phê phán xã hội. Tiếng cƣời xuất hiện trƣớc hết trên báo chí (Duy Tân, Phong Hóa, Ngày Nay…), sau đó đi vào tác phẩm văn học ở hầu hết các thể loại. Trong lĩnh vực văn xuôi hiện thực phê phán, tiếng cƣời nở rộ trong tác phẩm của nhiều cây bút nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Đồ Phồn, Tam Lang, Bùi Hiển, Nam Cao…). Trong đó những nhà văn nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao là những cây bút xuất sắc đƣa văn học trào phúng phát triển lên một tầm cao mới. Đối tƣợng tiếng cƣời trào phúng giai đoạn này là bộ mặt xấu xa của chế độ thực dân phong kiến; lối sống Âu hóa lố lăng, kệch cỡm của một bộ phận tiểu tƣ sản thành thị, sự xuống cấp, suy đồi dạo đức của con ngƣời trong buổi giao thời… Rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Công Hoan nhìn thẳng vào hiện thực, lấy tiếng cƣời trào phúng để phơi bày mặt trái của xã hội đầy bất công thối nát, kẻ giàu sống phè phỡn, bất nhân, còn ngƣời nghèo thì bị ức hiếp, chà đạp, đói khổ cùng cực. Những tác phẩm nhƣ: Răng con chó của nhà tư bản, Thằng ăn cắp, Thế nó chừa…mang đậm chất trào phúng, làm nổi bật lên sự bất công có tính chất giai cấp của xã hội, sự xung đột giữa kẻ giàu ngƣời nghèo. Nguyễn Công Hoan cũng đặc biệt sắc sảo trong việc vạch trần bộ mặt 18
  19. tàn bạo xấu xa của giai cấp thống trị từ quan phụ mẫu, những cụ Chánh, ông Lý ở nông thôn đến các ông chủ, bà chủ ở thành thị. Từ đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp xã hội mới: tƣ sản, tiểu tƣ sản, công nhân, dân nghèo thành thị…Cùng với đó là làn sóng Âu hóa, vui vẻ, trẻ trung lan tràn khắp thành thị, kéo theo lối sống kệch cỡm lố lăng. Nhƣng nguy hiểm hơn cả là sự xuống cấp của đạo đức trong xã hội Tây- Tàu hỗn loạn. Tất cả những hiện tƣợng đó đều đƣợc phản ánh qua “tấm gƣơng” văn học, đặc biệt là phản ánh bằng tiếng cƣời trào phúng. Vũ Trọng Phụng là một trong số không nhiều nhà văn dùng tiếng cƣời trào phúng để tái hiện sâu sắc và toàn diện xã hội tƣ sản thành thị láo nháo buổi Âu hóa. Trong xã hội đó có đủ các hạng ngƣời: từ mụ mẹ Tây đĩ thõa đến gái tân thời hƣ hỏng, từ đốc tờ đến cảnh sát, từ sƣ hổ mang đến ma ta, ma Xiêm, toàn quyền, thống Sứ…tất cả chìm đắm trong phong trào Âu hóa, cổ động cho phong trào Âu hóa. Trong xã hội đang quay cuồng vì Âu hóa ấy, nhà văn phát hiện những cái bịp bợm, giả dối…Theo nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến, văn hài hƣớc của Vũ Trọng Phụng đặc biệt khởi sắc, đặc biệt dí dỏm và hóm hỉnh khi miêu tả cái rởm tự trình bày một cách hồn nhiên và ngang nhiên. Nếu nhƣ ở Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, cảm hứng trào lộng bắt nguồn từ hiện tƣợng xã hội rộng lớn, thì Nam Cao lại đi sâu khai thác ở kiếp “Sống mòn” của giới trí thức, tiểu tƣ sản lúc bấy giờ. Nam Cao không chuyên về trào phúng nhƣng những sáng tác về đề tài trí thức, tiểu tƣ sản của ông vẫn thấp thoáng tiếng cƣời. Đối tƣợng tiếng cƣời Nam Cao không phải là bản thân sự “Sống mòn” mà là sự không cƣỡng lại đƣợc tình trạng “Sống mòn” do thèm khát những dục vọng tầm thƣờng. Tiếng cƣời Nam Cao nhằm vào cái hèn kém tầm thƣờng nhƣng cố che đậy một cách giả dối. 19
  20. Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hƣởng của văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp. Luồng văn hóa mới thông qua tầng lớp trí thức Tây học (phần lớn là tiểu tƣ sản) ngày càng thấm sâu vào ý thức và tâm hồn ngƣời cầm bút. Ngoài ra, từ thế kỷ XX, chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực từ hành chính công vụ tới văn chƣơng nghệ thuật. Tất cả những yếu tố này tạo điệu kiện cho văn học Việt Nam đổi mới theo hƣớng hiện đại hóa, làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức văn học phƣơng Tây. Giai đoạn này, các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết phát triển mạnh. Nhờ tiếp thu kinh nghiệm của văn học phƣơng Tây, truyện ngắn và tiểu thuyết đƣợc viết theo kiểu mới, khác với cách viết trong văn học trung đại trong cách xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện và ngôn ngữ nghệ thuật. Bút pháp trào phúng trong giai đoạn này đã có những thay đổi đáng kể so với văn học dân gian, hay trong thơ Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng…Đến năm 1930- 1945, quá trình hiện đại hóa văn học cơ bản hoàn tất. Với ƣu thế của thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, các nhà văn hiện đại đã sáng tạo nhiều thủ pháp tạo tiếng cƣời trào phúng. Nguyễn Công Hoan thƣờng sáng tạo những tình huống gây cƣời, những mâu thuẫn hài hƣớc trong sự vật hiện tƣợng. Mỗi truyện ngắn của ông là một tình thế mâu thuẫn đầy tính chất hài hƣớc. Để làm nổi bật mâu thuẫn trào phúng, các nhà văn thƣờng các biện pháp phóng đại, qua đó tạo tiếng cƣời. Trong nhiều tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, bút pháp phóng đại đƣợc sử dụng triệt để, khắc họa nên một xã hội Âu hóa đầy những điều kệch cỡm và vô nghĩa lí. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết cũng cho phép các nhà văn trào phúng khắc họa đƣợc nhiều chân dung trào phúng, điển hình trong xã hội. Các nhà văn thƣờng chú trọng xây dựng nhân vật qua hành động, ngôn ngữ hài hƣớc. Ngoài ra, quá trình hiện đại hóa văn học giúp các nhà văn trào 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2