Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách thơ Yến Lan
lượt xem 4
download
Luận văn đã khái quát về phong cách, phong cách thơ và quá trình định hình phong cách thơ Yến Lan. Phân tích phong cách thơ Yến Lan nhìn từ phương diện nội dung trên các khía cạnh: Cảm hứng thơ hướng tới cuộc sống bằng một tình yêu tha thiết; cảm hứng đời tư, thế sự với những trăn trở suy tư; sự hòa trộn giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại trong thơ Yến Lan.... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách thơ Yến Lan
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC ***0O0*** PHAN THỊ NGA PHONG CÁCH THƠ YẾN lAN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2009
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn tài .......................................................................................... 4 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 9 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 9 3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 9 4. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 9 5.Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 9 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: PHONG CÁCH, PHONG CÁCH THƠ VÀ QUÁ TRÌNH ĐỊNH HÌNH PHONG CÁCH THƠ YẾN LAN......................................... 11 1.1. Khái niệm phong cách ......................................................................... 11 1.2. Phong cách thơ. ................................................................................... 15 1.3. Quá trình sáng tác và hình thành phong cách thơ Yến Lan……........... 22 Chƣơng 2: PHONG CÁCH THƠ YẾN LAN NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ................................................................................................ 28 2.1. Cảm hứng thơ hƣớng tới cuộc sống bằng một tình yêu tha thiết……28 2.1.1. Tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc trong thơ Yến Lan ………………..28 2.1.1.1. Tình yêu đất nước trong thơ Yến Lan ……………………………...28 2.1.1.2. Yến Lan- nhà thơ nặng tình với quê hương………………………..36 2.1.2. Cảm hứng về cuộc chiến tranh và ngƣời lính .................................. .45 2.1.2.1. Cảm nhận về cuộc chiến tranh…………………………………….…45 2.1.2.2. Hình ảnh người lính………………………………… ……………….50 2.2. Cảm hứng đời tư, thế sự với những trăn trở suy tư ……………….53 -1-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga 2.2.1. Thơ viết về ngƣời thân, bạn bè……………………………53 2.2.1.1. Hình ảnh người mẹ và người chị trong thơ Yến Lan..53 2.2.1.2. Thơ về tình yêu và tình bạn…...………………………58 2.2.2. Những suy tƣ, trải nghiệm cá nhân…………………………62 2.3. Sự hoà trộn hai yếu tố cổ điển và hiện đại trong thơ Yến Lan 65 2.3.1. Cảm hứng lãng mạn tài tử ………………………………….65 2.3.2. Cảm hứng lãng mạn cách mạng……………………………71 Chƣơng 3: PHONG CÁCH THƠ YẾN LAN NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN HÌNH THỨC THỂ LOẠI ................................................................………73 3.1. Ngôn ngữ thơ ………………………………………………………….73 3.1.1. Ngôn ngữ thơ giàu chất trữ tình, triết lí…………………................73 3.1.2. Ngôn ngữ thơ chứa đựng yếu tố của thơ ca dân gian……………….77 3.2. Thể thơ…………………………………………………………………78 3.2.1.Thơ tứ tuyệt………………………………………………………….79 3.2.2. Thơ lục bát…………………………………………………………..82 3.3. Giọng điệu thơ………………………………………………………. 84 3.3.1.Giọng trầm lắng, suy tƣ………………………………………………85 3.3.2.Giọng chắc khoẻ, hồn hậu chứa đựng yếu tố dân gian…..…………87 PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO -2-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Yến Lan (1916- 1998), là một nhà thơ sáng tác ở cả hai thời kỳ trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám, và có cống hiến không nhỏ đối với nền thơ ca dân tộc. Ông cùng với các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn làm nên nhóm thơ Bình Định nổi danh một thời - nhóm thơ Tứ linh. Trong nhóm thơ này Hàn Mặc Tử là long, Quách Tấn là quy, Chế Lan Viên là phụng, Yến Lan là lân. Tuy vậy, ông không nổi danh nhƣ những ngƣời bạn của mình, tên tuổi Yến Lan không đƣợc nhiều ngƣời biết đến, đặc biệt là các thế hệ sau này. Có lẽ lí do nhƣ Chế Lan Viên đã nhận xét trong lời tựa tập Thơ Yến Lan: “Có nhiều lý do. Nhƣng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng, nếu không ai nhắc đến, chỉ ra, gọi tên tán dƣơng thì nó bị vùi lấp đi. Đầu là trong im lặng mà sau là trong lãng quên”. Yến Lan chƣa đến mức bị lãng quên, nhƣng sự nghiệp thơ ca của ông chƣa đƣợc tìm hiểu một cách thoả đáng. Do vậy, khi lựa chọn Phong cách thơ YếnLan làm đối tƣợng nghiên cứu cho luận văn này, chúng tôi xuất phát từ lòng yêu thích thơ Yến Lan, và muốn góp một tiếng nói vào việc khẳng định thêm vẻ đẹp thơ ông nhằm rút ngắn bớt khoảng cách giữa nhà thơ với công chúng. Yến Lan là một nhà thơ có sức sáng tạo dẻo dai và bền bỉ- một ngƣời sáng tạo cho đến hơi thở cuối cùng. Ông đã để lại một số lƣợng tác phẩm không nhỏ cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, ông đạt đƣợc những thành tựu đáng kể ở thể thơ tứ tuyệt với những tìm tòi và sáng tạo mới. Khi nhắc đến nhà thơ Yến Lan đa phần độc giả yêu thơ chỉ biết đến thi phẩm Bến My Lăng. Đây là một bài thơ đã đƣợc đánh giá cao và đƣợc nhiều ngƣời yêu thích. Có thể nói nó ảnh hƣởng khá lớn đến sự nghiệp thơ Yến Lan. Nếu cả cuộc đời Yến Lan ví nhƣ một con thuyền thơ phiêu bạt trên các nẻo dòng sông, thì Bến My Lăng là bến khởi đầu và cũng là dấu ấn đậm nét trong hành -3-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga trình thơ Yến Lan. Trong đời thơ của mình, Yến Lan sáng tác khá nhiều và đã xuất bản đƣợc gần chục tập thơ. Thời gian sau này Yến Lan lại hay đƣợc nhắc đến với những vần thơ tứ tuyệt đặc sắc. Ông đƣợc mệnh danh là “Bố già” trong làng thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại. Tuy vậy, những đóng góp của nhà thơ vẫn chƣa đƣợc nhìn nhận một cách xứng đáng. Với những lí do đó, sự ra đời của luận văn này nhằm mục đích góp một tiếng nói vào việc nhìn nhận và đánh giá những tác phẩm thơ Yến Lan một cách toàn diện hơn. Mặt khác, chúng tôi cũng muốn khẳng định vị trí của nhà thơ trong làng thơ Việt Nam hiện đại. 2. Lịch sử vấn đề Chặng đƣờng thơ Yến Lan kéo dài từ những năm trƣớc Cách mạng tháng Tám cho đến thời kỳ đất nƣớc đổi mới và chỉ dừng lại khi ông qua đời năm 1998. Có thể nói đây là một quãng đƣờng khá dài, trải qua nhiều mốc thăng trầm của lịch sử dân tộc. Trong suốt quãng đƣờng dài đó Yến Lan đã sáng tác không ngừng nghỉ cả thơ và truyện ngắn.Theo thời gian thơ Yến Lan có những chuyển biến về mặt nội dung và hình thức. Cuối đời Yến Lan dồn hết bút lực của mình vào thơ tứ tuyệt. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chƣa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về thơ Yến Lan, về phong cách thơ ông thì lại càng không có (theo khảo sát của ngƣời viết luận văn này). Ông chỉ đƣợc nhắc đến trong một số sách nghiên cứu và các trang báo, tạp chí. Có lẽ ấn phẩm Yến Lan nhớ mãi về anh đƣợc công bố sau khi ông qua đời là công trình nghiên cứu về ông tập trung nhất. Qua đó ta thấy đƣợc khá rõ chân dung, diện mạo, cốt cách và vẻ đẹp của con ngƣời và thơ ông. Hoài Thanh, Hoài Chân là hai nhà phê bình đầu tiên có những thẩm định đánh giá về thơ Yến Lan. Khi trích dẫn thơ Yến Lan trong cuốn Thi nhân Việt Nam hai ông đã nhận xét: Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù, khi đầu thì cũng hay hay nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ -4-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga mờ những con đường chảy, êm như dòng sông và nhất là cái vầng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định. Hai nhà phê bình này khi trích dẫn bài thơ Bến My Lăng của Yến Lan đã đặt nhà thơ vào vị thế của những nhà Thơ mới lãng mạn nhƣ Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,… Chế Lan Viên - ngƣời bạn thơ rất thân với ông và cùng trong trƣờng thơ Bình Định lúc bấy giờ đã nhận xét: Khi đọc thơ Yến Lan người ta thấy sự giản dị của những câu ca dao, vẻ hiền hoà của bao câu hát cổ. Tác giả Anh Chi trong Tuần báo tiểu thuyết thứ năm và những văn phẩm một thời- Nxb Văn học, 2002 đó nhận xét về thơ Yến Lan: Nhà thơ Yến Lan là một nhà thơ tiền chiến đặc sắc, ngay từ khi mới vào làng thơ đã sáng tác với một bút pháp dồi dào… Ngay từ thời kỳ đầu ông đã có một hơi thở mạnh và sâu lạ lùng [11; tr26]. Bên cạnh đó tác giả còn có công sƣu tập, gần hai mƣơi bài thơ của Yến Lan trƣớc cách mạng tháng 8/1945. Qua những bài thơ đó phần nào, ta thấy đƣợc diện mạo và phong cách thơ ông trong thời kỳ đầu mới bƣớc vào làng thơ. Trong cuốn Văn học Việt Nam 1945-1975 do Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên tác giả cũng đã nhắc đến tên tuổi Yến Lan với thi phẩm Khúc ruột miền Trung. Tác giả đã nhận xét về thi phẩm này nhƣ “một trƣờng ca về một miền của Tổ quốc” [27 ;tr143]. Tuy với số lƣợng câu từ khiêm tốn nhƣng việc tác giả xếp nhà thơ của chúng ta cùng với tên tuổi của Chế Lan Viên, Nguyễn Duy, Lê Anh Xuân…, cũng đủ cho thấy vị thế nhất định của Yến Lan trong thơ kháng chiến chống Mỹ. Tác giả Vũ Tuấn Anh trong cuốn sách Nhà thơ Việt Nam hiện đại cũng đã viêt về Yến Lan với quan điểm rất khách quan, khen có, chê có. Nhƣng có vẻ nhƣ tác giả thiên về phê cái đặc tính siêu hình trong thơ Yến Lan. Mặc dù Cách mạng tháng Tám thành công tạo ra bƣớc ngoặt lớn cho lịch sử dân tộc: Những chấn động ấy đã vang vào thơ Yến Lan nhưng chưa phải đã làm thay -5-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga đổi đến tận thâm căn hồn thơ của nhà thi sĩ lãng mạn vẫn còn chưa thật cởi mở với cảnh và người…vẫn còn nuối tíêc cái cũ. Những cái cũ mà tác giả Vũ Tuấn Anh nói đó là đặc điểm chung của thơ lãng mạn: có cái u buồn hoài niệm, có bâng khuâng tình ái, có những thần tượng siêu hình…riêng thơ Yến Lan thì có: trầm tư, u ẩn, với nhiều dụng công chạm khắc ngôn ngữ. Theo tác giả Vũ Tuấn Anh nhận định thì thơ Yến Lan chỉ có tình bạn, tình ngƣời xao xuyến khi nhà nhà thơ nhìn cuộc sống một cách chân tình. Tác giả còn đƣa ra đƣợc đóng góp của Yến Lan đối với đề tài thơ hợp tác hoá nông nghiệp qua bài thơ Bài ca hợp tác thôn tôi. Trong hồi ký về nhà thơ Yến Lan do bà Nguyễn Thị Lan - vợ nhà thơ sƣu tầm và biên soạn có khá nhiều những nhận định của các nhà thơ, nhà văn nhƣng cũng chỉ mang tính khái quát, chƣa có sự nghiên cứu cụ thể. Chúng tôi chƣa tìm thấy một công trình nghiên cứu nào có tính tổng thể và toàn diện về thơ Yến Lan từ năm 1961 trở lại đây. Chúng tôi xin trích dẫn một số ý kiến nhận định và đánh giá về con ngƣời và thơ Yến Lan để chúng ta có thể hiểu hơn về nhà thơ này. Nhà thơ Trúc Thông khi nghiên cứu thơ Tứ tuyệt Yến Lan đã dành cho ông những lời thán phục: Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ Tứ tuyệt Việt Nam hiện đại thơ Yến Lan được xếp vào hạng “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm. Không chỉ có vậy, Trúc Thông còn thể hiện sự thông hiểu sâu sắc về cốt cách của Yến Lan và rất trân trọng, sẻ chia: Trong tứ tuyệt Yến Lan thường nén lại một nông nỗi thở dài có khá nhiều cám cảnh. Nhưng cốt cách nghệ sỹ, cốt cách tứ tuyệt đó gây cho người đọc một sự kính trọng. Tác giả Trần Ninh Hồ khi viết những lời tƣởng nhớ về cố nhà thơ đã cho ta thấy đƣợc cá tính của một con ngƣời sống thuỷ chung, son sắt. Với con người ấy, với cốt cách trầm tư đầy bản lĩnh ấy, Yến Lan đó đi qua những thập -6-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga kỷ chằng chịt những biến động, những giao lưu của thế kỷ vậy mà xem ra trong thơ ông lúc nào cũng thuỷ chung với tính cách ông, con người ông Nhạc sĩ Văn Cao khi viết lời giới thiệu cho tập thơ Những ngọn đèn đã viết: Yến Lan yêu những người thật bình dị sống bên một khung xa thôn Phù ly hay trong cái tỉnh Bình Định đơn sơ và lặng lẽ. Nếu có những lần anh kể tới những người cán bộ, những người kháng chiến thì cũng chỉ là những người bình thường ấy…Sự khác nhau trong thơ Yến Lan là những nét mặt người cũ và người mới: người cũ thì chậm đi và người mới thì sôi nổi… Trong bài nghiên cứu Bến My Lăng- từ điểm nhìn địa văn hoá, GS.TS. Mã Giang Lân đã khẳng định: Bến My Lăng hiện lên con người nhà thơ, khuynh hướng nghệ thuật của nhà thơ. Tác giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa yếu tố địa lí, thiên nhiên và văn hoá vùng với thơ ca. Giáo sƣ đã viết: Yến Lan, Chế Lan Viên, Quách Tấn, Hàn Mặc Tử đã kỳ ảo hoá trăng, trăng như một sinh thể, có sức sống riêng. Vừng trăng ám ảnh các nhà thơ Bình Định, có thể: 1 – Tính trội của một vùng thiên nhiên Bình Định 2 – Thái độ đối với cuộc đời: con đường đến với trong lành, thanh sạch 3 - Cảm hứng thẩm mĩ: hướng về cái đẹp nhưng xa vời, vô vọng ”. Bài nghiên cứu đã cho ta thấy đƣợc những đặc điểm riêng của văn hoá vùng in dấu trong thơ. Điều này có ý nghĩa trong việc tìm hiểu phong cách của một nhà thơ. Tác giả Từ Quốc Oai đã đƣa ra một nhận định có tính tổng quát về thơ Tứ tuyệt Yến Lan: Bao cảnh đời, tình đời được ông trân trọng, tinh lọc thể hiện ra với vẻ đẹp của thứ ngôn ngữ cô đọng, trau chuốt giống như bức phù điêu được chạm khắc bởi bàn tay của nghệ sĩ bậc thầy. Thơ Tứ tuyệt của ông mang đậm phong vị Đường thi song vẫn phảng phất cái không khí mơ hồ, bảng lảng những bài kệ của các bậc thiền sư. -7-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga Nhà thơ Vân Long khi nghiên cứu thơ Yến Lan đã tìm ra một bộ tứ bình về nghệ thuật cổ: Chùm thơ về nghệ thuật cổ của nhà thơ Yến Lan như một bức tứ bình treo Tết…. Theo nhƣ nhận định của Vân Long, “Yến Lan thời trẻ đã đƣợc tiếng là một nhà thơ, nhà biên tập kỹ lƣỡng về chữ nghĩa. Cấu trúc của thơ ông bao giờ cũng chặt chẽ, giàu tính sáng tạo. Cao tuổi, ông lui về thể thơ tứ tuyệt, thể thơ cần nhiều đến tâm trạng và nghĩa chữ hơn là cảnh và sự. Chiếc lá cuối mùa, cơn gió đầu thu đều là cớ để ông nói về sự chiêm nghiệm cả đời của mình. Càng những ngƣời cao tay nghề càng dễ sử dụng thể loại này, nhƣng hễ non tay là nhƣợc điểm lộ ra liền”. Có thể thấy những công trình nghiên cứu, tìm hiểu về thơ Yến Lan chƣa nhiều và chƣa toàn diện nhƣng cũng cho ta có một cái nhìn bao quát về cuộc đời và thơ Yến Lan. Đồng thời nó cũng là cơ sở để chúng tôi làm tƣ liệu cho việc thực hiện luận văn này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu. - Toàn bộ thơ của Yến Lan. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tìm hiểu phong cách thơ Yến Lan trong suốt chặng đƣờng từ trƣớc và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát thơ của một số nhà thơ khác trong sự so sánh, đối chiếu để làm nổi rõ hơn những đặc điểm trong phong cách thơ Yến Lan. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phƣơng pháp thống kê. 4.2. Phƣơng pháp hệ thống. 4.3. Phƣơng pháp đối chiếu lịch sử 4.4. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu 5. Cấu trúc luận văn -8-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn đƣợc triển khai trong ba chƣơng: Chương 1: Phong cách, phong cách thơ và quá trình định hình phong cách thơ Yến Lan Chương 2: Phong cách thơ Yến Lan nhìn từ phương diện nội dung Chương 3: Phong cách thơ Yến Lan nhìn từ phương diện hình thức thể loại -9-
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga NỘI DUNG Chương 1: PHONG CÁCH, PHONG CÁCH THƠ VÀ SỰ ĐỊNH HÌNH PHONG CÁCH THƠ YẾN LAN 1.1. Khái niệm phong cách Bàn về phong cách là một vấn đề không đơn giản, đây là một vấn đề nhiều tranh cãi, bởi ví chúng ta không thể áp đặt cho nhà văn, nhà thơ này một phong cách khi chƣa xem sáng tác của họ, chƣa tìm hiểu về con ngƣời họ. Chúng ta đã biết đên câu nói: Văn như kỳ nhân, tính cá thể ở đó là vô cùng rõ nét. Đọc một bài thơ, một đoạn văn ta nhận ra đây là bài thơ của Tố Hữu, kia là văn của Nguyễn Tuân, đây là ký của Tô Hoài và kia là thơ Yến Lan…. Với những nhà văn, nhà thơ lớn, tác phẩm của họ bao giờ cũng toát lên một giọng điệu riêng, một cách tiếp cận và bình giá đời sống riêng… mà ngƣời đọc không thể nhầm lẫn với bất kì một nhà văn nào khác. Điều đó dẫn đến khái niệm phong cách cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Thuật ngữ phong cách, theo viện sĩ Timophiep, có thể bắt nguồn từ mẫu tự La Tinh. Trƣớc đây, ngƣời Hi Lạp dùng chữ “Stylos” để chỉ một cái que có một đầu nhọn, một đầu tù. Ngƣời La Mã thì gọi là “stylus” cũng để chỉ cái que đó, nhƣng đầu nhọn dùng để viết lên một tấm bảng nhỏ có xoa sáp. Về sau, ngƣời Pháp dùng chữ “style” với nghĩa ban đầu là nét chữ, và sau đƣợc hiểu là bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ và văn thể. Trải qua quá trình phát triển lâu dài của văn học và ngôn ngữ, khái niệm “phong cách” mới đƣợc sử dụng nhƣ cách hiểu của chúng ta hiện nay. Mĩ học phƣơng Tây theo chủ nghĩa hình thức thì một mặt đƣa ra khái niệm quá rộng về phong cách khi đồng nhất nó với phƣơng pháp nghệ thuật, nhƣng mặt khác lại thu hẹp nó trong thủ pháp sáng tác của nghệ sĩ. Khchrapchencô trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học khi đứng trƣớc một số lƣợng lớn những định nghĩa, quan niệm khác - 10 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga nhau về phong cách đã so sánh thú vị rằng: Những định nghĩa này xoè ra như một cánh quạt. Ar.Grigorian trong “Vấn đề phong cách nghệ thuật” khẳng định: Phong cách không thể vô can với phương pháp, với cá nhân nhà nghệ sĩ về thời đại, với vẻ đặc thù trong sáng tác của anh ta. Phong cách là sự thống nhất cao nhất của tất cả những phạm trù đó” [17, tr 9]. V.Turbin trong bài viết “Thế nào là phong cách của tác phẩm nghệ thuật?”, đăng trên tạp chí “Những vấn đề văn học” số 10.1959, viết: Phong cách - đó là ngôn từ được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng, đó còn là tác động qua lại thường xuyên giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ đặt vào một văn cảnh nghệ thuật [17, tr 11]. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: phong cách là sự tổng hợp, là hệ thống các phƣơng tiện miêu tả và biểu đạt hay nói một cách khác, phong cách đƣợc coi là hình thức toàn vẹn có tính chất nội dung. V.Đneprov nhận xét: “Phong cách là mối liên hệ của những hình thức, mối liên hệ đó bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật”. Ngoài những quan điểm về phong cách đã nêu ở trên, còn có những ngƣời đề xuất nghiên cứu phong cách từ góc độ cấu trúc, tiêu biểu là W.Kayer và R.Jakobson. Ở Việt Nam, vấn đề phong cách nghệ thuật cũng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Theo GS.Phan Ngọc, phong cách là: một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiểu biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả [34]. Nhà thơ Hoàng Trung Thông cho rằng: Phong cách và cá tính nhà văn không phải là cái gì khó hiểu. Đó là biểu hiện của mỗi nhà văn trong khi xây dựng chủ đề, nhân vật, trong khi vận dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ - 11 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga văn học. Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho mình một phong cách riêng, một điệu cảm xúc riêng [17, tr 14]. Khi nghiên cứu về phong cách Đỗ Lai Thuý cho rằng: Phong cách là cá tính của chủ thể sáng tạo, và sự tự do lựa chọn các ngôn ngữ để thể hiện nó trong tác phẩm. Cá tính, cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy, là tất cả,…phong cách cũng là chỗ đặc dị, nơi chứa đựng mật số của tác phẩm văn chương… Có thể thấy, những định nghĩa về phong cách thật đa dạng, phong phú, khó có thể đƣa ra một định nghĩa mà tất cả mọi ngƣời đều nhất trí. Tuy nhiên, phong cách có những điểm chung mà nhiều ngƣời đề cập tới nhƣ: phong cách biểu hiện những đặc điểm thể hiện cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, là nhận thức của ngƣời nghệ sĩ về cuộc sống, là sự tổng hợp các đặc điểm nghệ thuật trong sự thống nhất với nội dung. Tìm hiểu phong cách của một nhà văn, nhà thơ chúng ta không nên nghiên cứu riêng các vấn đề nhƣ thể loại, ngôn ngữ, các môtíp nghệ thuật,… mà nên xem xét chúng trong sự thống nhất toàn vẹn của thế giới nghệ thuật, bởi các yếu tố lặp đi lặp lại nhƣ một qui luật này không tồn tại một cách độc lập, tách bạch nhau để tạo nên một hình thức nghệ thuật hoàn chỉnh. Phong cách một mặt do tài năng bẩm sinh của ngƣời nghệ sĩ, mặt khác, quan trọng hơn là kết quả của quá trình đào luyện lâu dài trong đời sống nghệ thuật, là chất tổng hợp của tâm hồn, trí tuệ, kiến thức học hỏi và làm việc ở mỗi cá nhân ngƣời nghệ sĩ. Chính vì thế, mọi quan điểm đóng cửa để xác lập cá tính, tự nghĩ ra một phong cách trƣớc khi cầm bút sáng tác, đặt cá tính lên trên tất cả chẳng qua chỉ là sự lừa dối và đƣa đến một sự trống rỗng giả tạo về phong cách hoặc là sự tự huyễn hoặc của những bản lĩnh nghệ sĩ non yếu. Thực tiễn phát triển của văn học nghệ thuật ở Việt Nam và trên thế giới đã chứng minh rằng, không phải ngƣời nghệ sĩ nào cũng tạo cho mình một phong cách riêng. Cần phải xem xét phong cách là phẩm chất sáng tạo cao - 12 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga nhất của ngƣời nghệ sĩ trong quá trình đồng hoá hiện thực bằng thẩm mỹ. Nhà văn Macxim Gorki đã khuyên những ngƣời viết văn trẻ rằng: Các bạn trẻ! Các bạn hãy học và đọc cách viết của tất cả những nhà văn có văn phong điêu luyện nhưng phải tìm ra nốt nhạc và lời ca cho riêng mình… Bạn hãy giữ lấy cái gì là của riêng mình. Là một người không có cái gì của riêng mình thì phải thấy rằng người đó chẳng có cái gì hết. Nhà văn Nam Cao - cây bút hiện thực phê phán xuất sắc cũng khẳng định thêm: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có. Chúng ta không thể chấp nhận quan điểm cho rằng phong cách chỉ bao hàm những yếu tố về kĩ xảo, kĩ thuật nhƣ các nhà hình thức chủ nghĩa, cũng không thể nhầm lẫn phong cách với bút pháp. Đúng nhƣ Tô Hoài đã nhận xét: Phong cách tuyệt nhiên không phải là kĩ xảo, không phải là chiếc áo khoác. Nếu ví nghệ thuật là một con người thì phong cách là da trên cơ thể con người. Cho nên theo quan điểm của chúng tôi, phong cách đƣợc coi nhƣ là sự thống nhất hữu cơ giữa nội dung và hình thức, giữa cái phản ánh và cái đƣợc phản ánh. Phong cách thể hiện trong suốt quá trình sáng tạo của nhà thơ, nhà văn. Yếu tố lặp đi lặp lại đƣợc coi nhƣ một cá tính, sở thích, nhu cầu và cao hơn là nguyên tắc tổ chức hình thức tác phẩm. Phong cách toát lên từ hệ thống nghệ thuật toàn vẹn. Do đó việc tìm hiểu phong cách chỉ có thể đạt đƣợc kết quả khả quan khi chúng ta đặt các yếu tố cấu thành phong cách trong mối tƣơng tác để tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Tƣ tƣởng, chủ đề, ngôn ngữ, thể loại, môtíp… và cuối cùng là cá tính nhà văn có tác dụng quyết định đến sự hình thành phong cách. Nói nhƣ Nguyễn Đình Thi: mỗi nhà thơ có tâm trạng riêng cũng như mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn - 13 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga xung trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von. Có nhà thơ là dòng suối thầm thì, có nhà thơ là dòng thác dữ xô đẩy. Tóm lại, theo chúng tôi, phong cách là những dấu ấn cá nhân của ngƣời nghệ sỹ in đậm lên tác phẩm và mọi yếu tố cấu thành nên tác phẩm: từ cách thức tổ chức tác phẩm, xử lý đề tài đến giọng điệu, ngôn ngữ, thời gian, không gian… Phong cách chính là sự độc đáo về tƣ tƣởng cũng nhƣ nghệ thuật. Nó tạo ra dấu ấn riêng cho một tác phẩm, một tác giả, một thời đại và một dân tộc. 1.2. Phong cách thơ Nhƣ đã nêu ở trên, phong cách là cá tính riêng, dấu ấn riêng của một tác giả. Cụ thể, khi nói đến phong cách là ta nghĩ ngay đến dấu ấn cá nhân ở trong đó. Khi nói đến phong cách thơ thì đó là những biểu hiện của tài năng thi ca đích thực. Khi nghiên cứu về Phong cách thơ Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thuý đã chỉ ra tầm quan trọng của yếu tố ngôn ngữ thơ. Ông cho rằng, ngày nay ngƣời ta đi tìm phong cách thơ trong chính tác phẩm thơ, hay chính xác hơn trong chính ngôn ngữ thơ. Các thông số khác nhƣ tiểu sử tác giả, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện lịch sử…chỉ để tham chiếu, soi sáng, lí giải. Ngôn ngữ trƣớc đây bị coi nhƣ một thứ bao bì, một công cụ của ý tƣởng nên việc tìm hiểu phong cách thơ của một tác giả qua và bằng ngôn ngữ là điều không thể [54, tr 55]. Theo chúng tôi thì ta không nên bỏ qua bất kỳ một yếu tố nào khi tìm hiều phong cách thơ của một tác giả, cũng không cần thiết đánh giá bên nào nặng, bên nào nhẹ. Điều cốt yếu và quan trọng là làm sáng tỏ đƣợc yếu tố đã góp phần làm nên phong cách của nhà thơ. Mặt khác, phong cách vốn không phải là cái nhất thành bất biến, mà phong cách của một nhà thơ có thể thay đổi khi trong đời sống có những biến động lớn. Nhƣng sự thay đổi này không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn những cái trƣớc kia, thông thƣờng chỉ thay đổi những gì đi ngƣợc lại với thế giới quan hiện tại và vẫn - 14 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga tiếp tục giữ lại những gì phù hợp. Mặc dù nhà thơ có cố thay đổi nhƣ một cuộc lột xác đi chăng nữa thì dấu ấn cá nhân cũng khó có thể phủ nhận đƣợc. Trong lịch sử văn học Việt Nam chúng ta cũng chứng kiến bao cuộc thay đổi nhƣ vậy. Đặc biệt là sau sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đội ngũ nhà văn, nhà thơ của chúng ta đã quyết làm một cuộc đổi đời, họ cƣơng quyết vứt bỏ con ngƣời cũ để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, của Cách mạng. Mặc dù vậy, khi đọc thơ, văn của họ ta vẫn nhận ra đƣợc phong cách cá nhân riêng biệt. Chẳng hạn nhƣ Xuân Diệu và Huy Cận vốn tự nhận mình nhƣ Rimbaud và Verlain: Hai chàng thi sĩ choáng hơi men; Say thơ lạ mê tình bạn; Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quen ở thời kỳ trƣớc Cách mạng. Nhƣng sau Cách mạng cả hai nhà thơ này đều có những chuyển biến nhiều về phong cách sáng tác. Nếu Xuân Diệu trƣớc kia là một ngƣời luôn đề cao cái Tôi cá nhân đến tột cùng, thì sau Cách mạng trong thơ ông ngƣời ta lại thấy những hình ảnh của Tổ quốc, nhân dân và cuộc chiến tranh. Về Huy Cân, cuộc lột xác có vẻ rõ rệt hơn nhƣng cái vẻ hoài nghi, ảo não của ông không phải đã chấm dứt hẳn sau Cách mạng, mà ta vẫn thấy điều đó trong bài Các vị La Hán chùa Tây Phương của ông sau này. Đó là một bài thơ mang dáng dấp và hơi thở của hồn thơ Huy Cận giai đoạn trƣớc. Điều này một lần nữa khẳng định phong cách không phải là một giá trị nhất thành bất biến. Trong quá trình vận động nó có sự thay đổi ở một mặt nào đó, sự thay đổi đó không có tính đoạn tuyệt mà vẫn kế thừa và phát huy những yếu tố còn phù hợp với thực tại. Bởi vì, phong cách là phạm trù có liên quan đến cá tính riêng của mỗi ngƣời, nhƣ Hàn Mặc Tử đã khẳng định: Người thơ phong vận như thơ ấy. Từ đó có thể thấy rằng, xét phong cách một tác giả chúng ta không chỉ dựa vào bản thân dấu hiệu ngôn ngữ đƣợc, mà cần xem xét nhiều yếu tố khác nhau góp phần làm nên phong cách của một nhà thơ nhƣ: lịch sử, thời đại, đặc điểm địa - văn hoá… - 15 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga Riêng thơ rất cần đến năng khiếu thẩm mĩ, tài nghệ và cần đến cá tính, phong cách. Đặc biệt phong cách thơ “còn là biểu hiện đậm đặc cái tôi trữ tình trong thơ” [22, tr 313]. Với đặc trƣng riêng biệt của thơ, đó là khả năng bộc lộ trực tiếp cái tôi trữ tình, thế giới nội tâm nên không thể có sự giống nhau đến “sáo mòn” về nội tâm, suy nghĩ đƣợc. Tình cảm trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo, nhƣng nó không phải là một yếu tố đơn độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực chất đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ do sự tác động của cuộc sống hiện thực. Có thể nói, không có cuộc sống thì không có thơ ca. Nói văn chƣơng một chút, nhà thơ chính là những con ong hút nhuỵ từ bông hoa cuộc đời để làm nên mật ngọt phục vụ chính cuộc đời đó. Chính vì tình cảm trong thơ ca bắt nguồn từ tình cảm trong cuộc đời thực của nhà thơ, nên khi hoàn cảnh khách quan thay đổi thì tình cảm của nhà thơ cũng có những biến đổi, điều đó làm cho thơ ca có những trào lƣu, khuynh hƣớng và giai đoạn khác nhau, với những phong cách sáng tác khác nhau. Điều này ta có thể nhận thấy khá rõ trong từng giai đoạn văn học cụ thể. Do đặc thù Kiến thi như kiến nhân văn chƣơng yêu cầu cao về tính độc đáo của sản phẩm sáng tạo. Lê Thánh Tông đã từng yêu cầu “văn nhân” khi làm thơ phải: Cách điệu thanh cao ý tứ tân. Vậy nên, thói “mô phong”, “bắt chƣớc” là điều tuyệt đối cấm kỵ trong sáng tạo thơ văn. Ở ta một thời gian dài, do ảnh hƣởng của lối văn chƣơng cử tử nên hiện tƣợng bắt chƣớc, rập khuôn đã thành căn bệnh khó chữa. Chính điều này, làm cho văn học nƣớc ta dù phát triển rất sớm từ thế kỷ thứ X với những áng thơ hay bất hủ, nhƣng cái tôi thì vẫn còn mờ nhạt. Đến nhƣ Nguyễn Trãi nổi tiếng về tài thơ là thế mà vẫn khiến ta có lúc xem thơ ông “Côn Sơn ca”: Côn Sơn suối chảy rì rầm; Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…Tìm nơi bóng mát ta ngâm thơ nhàn ta lại có thể nhầm tƣởng là thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “Nhàn”: Một mai một cuôc một - 16 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga cần câu; Thơ thần dầu ai vui thú nào; Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ; Người khôn người đến chốn lao xao…hơn một trăm năm trƣớc. Phải đến cuối thế kỷ XVIII- đầu XIX mới thực sự có phong cách thơ Nguyễn Du và Hồ Xuân Hƣơng. Đây là hai nhà thơ sống ở thời trung đại nhƣng với cá tính và tài năng vƣợt trội đã khẳng định đƣợc dấu ấn cá nhân trong các sáng tác của mình. Chính vì vậy, mới có cái gọi là Phong cách Nguyễn Du và Phong cách Hồ Xuân Hương. Trong tiến trình văn học Việt Nam Phong cách thơ thực sự nở rộ vào giai đoạn (1930-1945). Đến lúc này cái Tôi cá nhân phát triển đến cực điểm, các nhà thơ đã khẳng định đƣợc phong cách riêng của mình. Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một cái Tôi cá thể hoá trong cách cảm thụ thế giới và thiên nhiên. Và cũng lần đầu tiên, chỉ trong 13 năm trời xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo đến nhƣ vậy cả trong thơ lẫn văn xuôi. Sự giải phóng cái Tôi của chủ thể sáng tạo đã làm nở rộ một thời kỳ văn học với những bông hoa giàu hƣơng sắc: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chƣa bao giờ có một thời đại phong phú nhƣ thời đại này. Chƣa bao giờ ngƣời ta thấy xuất hiện cùng một lần, một hồn thơ rộng mở nhƣ Thế Lữ, mơ màng nhƣ Lƣu Trọng Lƣ, hùng tráng nhƣ Huy Thông, trong sáng nhƣ Nguyễn Nhƣợc Pháp, ảo não nhƣ Huy Cận, quê mùa nhƣ Nguyễn Bính, kỳ dị nhƣ Chế Lan Viên, và tha thiết, rạo rực, băn khoăn nhƣ Xuân Diệu.” [39, tr525]. Hay trong một bài viết khác về Phong cách học phê bình văn học tác giả Đỗ Lai Thuý đã đƣa ra những nhận định tinh tế về sự đa dạng trong phong cách của các nhà Thơ mới lãng mạn. Sự đa dạng đó là do cái Tôi phát triển đến tột cùng. Chính thế mà cùng một thời ta thấy một Chế Lan Viên dành cả đời mình để đi tìm những phƣơng thức biểu đạt khác nhau cho một ý tƣởng. Trần Dần đập vỡ chữ để tìm nghĩa. Lê Đạt sắp xếp những con chữ xa lạ với nhau để chúng soi bóng vào nhau tìm một nghĩa mới phát sinh. Cũng nhƣ Bích Khuê thuở trƣớc, phong cách của các nhà thơ này đều gắn bó với kỹ - 17 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga thuật, hoặc ít nhiều đều lấy kỹ thuật làm điểm xuất phát. Mỗi nhà Thơ mới đã tạo cho mình một phong cách riêng, độc đáo. Điều đó làm nên một giai đoạn phát triển rực rỡ của thi ca. Thế Lữ nghiêng về khẳng định con ngƣời cá nhân đô thị hiện đại kết tinh ở ngƣời nghệ sĩ. Thơ ông xoay quanh cái định nghĩa: Tôi là cây đàn muôn điệu, ngƣời lữ hành, khách tình si, khách chinh phu,…Xuân Diệu bị ám ảnh bởi thời gian. Thời gian đối với ông là phôi pha, là tàn úa bởi vậy ông luôn muốn chế ngự và chiến thắng thời gian. Chính vì thế vội vàng là phong cách của Xuân Diệu. Trái lại, Huy Cận lúc nào cũng chậm rãi, đi mà nhƣ đứng, chân đang bƣớc bỗng e dè, bởi thi nhân nhìn mọi sự bằng con mắt không gian. Còn thơ Nguyễn Bính thực sự là ngƣời lái đò giữa nông thôn và thành thị, giữa quá khứ và hiện tại, giữa không gian và thời gian. Vũ Hoàng Chƣơng đi tìm Đào nguyên lại lạc vào những thiên đường nhân tạo…Nhƣ vậy, có thể thấy rằng yếu tố thời đại tác động khá lớn đến việc hình thành những phong cách thi ca. Mặt khác, đối tƣợng của thi ca là muôn màu, muôn vẻ, ta không thể dùng một cách thức, một kiểu dạng để viết về cái đa sắc đó. Muôn vật, muôn loài mùa nào thức ấy, mỗi loài có một dáng vẻ riêng, ta không thể nắm bắt mà hạn định nó, xuyên tạc nó. Qua thơ ta có thể thấy đƣợc vẻ đẹp của mai xuân, sen hạ, cúc thu…mỗi mùa một vẻ, một màu. Nhà thơ phải bằng tài năng đích thực của mình để tôn lên đƣợc vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nƣớc, con ngƣời. Ngoài yếu tố vốn có của tự nhiên mà nhà thơ thể hiện, qua thơ ta còn thấy đƣợc đặc trƣng văn hoá vùng miền. Tầm hiểu biết, vốn sống của nhà thơ nhƣ thế nào thì sẽ đƣợc bộc lộ rất rõ trong thơ. Qua thơ, chúng ta có thể nhận biết đƣợc tầm cỡ của nhà thơ và không gian văn hoá nơi nhà thơ đã sống hoặc đang sống. Chẳng hạn, đối với nhà thơ Nguyễn Bính, khi đọc thơ ông ta thấy rõ một nét quê rất tƣơi tắn, hồn hậu nhƣ chính con ngƣời ông vậy: - 18 -
- Luận văn Thạc sĩ Phan Thị Nga Hôm qua em đi tỉnh về Đợi em ở mãi con đê đầu làng Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi … (Chân quê - Nguyễn Bính) Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta lại thấy hiện lên không gian sống của một vùng chiêm trũng nơi quê ông với những ao, chuôm, làng cảnh. Ngƣời xƣa cũng đã nhận ra rằng, hào kiệt gắn liền với núi sông. Địa linh có vai trò đặc biệt trong việc sản sinh ra thiên tài. Nói nhƣ vậy để thấy rằng khi nghiên cứu phong cách của một nhà thơ chúng ta không thể bỏ qua yếu tố địa - văn hoá. Nhà nghiên cứu Mã Giang Lân khi viết về vấn đề :Bến My Lăng từ điểm nhìn địa văn hoá đã chỉ ra mối liên hệ giữa hình ảnh vầng trăng ám ảnh các nhà thơ Bình Định với “tính trội của một vùng thiên nhiên Bình Định”. Chính những đặc điểm nổi trội về thiên nhiên, văn hoá của một vùng nơi nhà thơ sống sẽ ăn sâu vào trong tiềm thức và suy nghĩ của nhà thơ. Những cái đó dù sớm hay muộn nó cũng sẽ đƣợc bộc lộ ra dƣới ngọn bút của thi nhân. Bởi vì mỗi con ngƣời sinh ra đều có một gốc gác nguồn cội, mỗi cá nhân có những hoàn cảnh riêng và điều đó có tác động đến việc hình thành phong cách sống cũng nhƣ phong cách sáng tác sau này. Chúng ta cũng biết, dấu ấn tuổi thơ có vai trò rất lớn trong cảm quan nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ nói chung và nhà thơ nói riêng. Dƣờng nhƣ mỗi thiên tài đều có một nỗi ám ảnh lớn trong tiềm thức. Chính cái tiềm thức đó đã chi phối hoạt động sáng tác của nghệ sĩ ở một phƣơng diện nào đó. Trong văn học ta đã từng thấy một M. Gorki với Thời thơ ấu cùng những kỷ niệm tuổi thơ không thể nào quên của cuộc đời ông. Văn học Việt Nam cũng có Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng viết về một tuổi thơ buồn tủi của chính ông. Ngoài ra, đối với thơ yếu tố địa - văn hoá góp phần hình thành nên tƣ tƣởng, quan điểm và chi phối hệ thống hình tƣợng trong thơ. Chẳng hạn, những nhà thơ Bình Đinh với đặc điểm sống của vùng - 19 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 307 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 158 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 101 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 82 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn