Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thơ Nguyễn Khoa Điềm nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật
lượt xem 8
download
Đề tài nghiên cứu tập trung đi sâu vào các nội dung chính của tư duy nghệ thuật: Biểu tượng thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Khoa Điềm. Qua đó cho thấy những nét đặc sắc riêng biệt của thơ Nguyễn Khoa Điềm so với những nhà thơ khác. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thơ Nguyễn Khoa Điềm nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LẠI THỊ HƯƠNG THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TƯ DUY NGHỆ THUẬT LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Thành Hà Nội-5/2011
- MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 1 1.1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm.............................................................................. 1 1.2. Tƣ duy thơ ........................................................................................................ 1 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .................................................................... 2 2.1. Các góc độ tiếp cận thơ Nguyễn Khoa Điềm..................................................... 2 2.2. Nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm dƣới góc độ tƣ duy nghệ thuật ................. 4 3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU...................................................... 6 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu ....................................................................................... 6 3.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 6 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................ 6 4.1. Phƣơng pháp phân tích: .................................................................................... 6 4.2. Phƣơng pháp thống kê ...................................................................................... 7 4.3. Phƣơng pháp so sánh ........................................................................................ 7 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN .................................................................................... 7 B. NỘI DUNG CHÍNH .......................................................................................... 8 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ DUY THƠ VÀ ......................... 8 QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM ..................................... 8 1.1 Một số vấn đề lý luận về tƣ duy nghệ thuật ........................................................ 8 1.1.1 Khái niệm tƣ duy ......................................................................................... 8 1.1.2 Quan niệm về tƣ duy nghệ thuật, tƣ duy thơ .............................................. 10 1.1.2.1 Tƣ duy nghệ thuật ................................................................................. 10 1.1.2.2 Tƣ duy thơ ............................................................................................ 11 1.2 Quá trình sáng tác thơ của Nguyễn Khoa Điềm ............................................... 14 1.2.1 Các giai đoạn sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm ......................................... 14 1.2.2 Quan niệm thơ của Nguyễn Khoa Điềm .................................................... 16 1.2.3 Những nét đặc sắc về tƣ duy thơ Nguyễn Khoa Điềm ................................ 18 Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................. 21 Chƣơng 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ MỘT SỐ BIỂU TƢỢNG ĐẶC SẮC TRONG THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM .............................................................................. 22 1
- 2.1. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm ................................................. 22 2.1.1 Quan niệm về cái tôi, cái tôi trữ tình trong thơ ........................................... 22 2.1.2 Nội dung cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm ............................. 27 2.1.2.1 Cái tôi yêu say mê nhƣng tỉnh táo ........................................................ 27 2.1.2.2 Cái tôi công dân, cái tôi chiến sĩ............................................................ 36 2.1.2.3 Cái tôi nặng lòng với Huế ..................................................................... 46 2.2 Biểu tƣợng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm........................................................ 53 2.2.1 Biểu tƣợng trong tƣ duy thơ....................................................................... 53 2.2.2 Một số biểu tƣợng đặc sắc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm .......................... 55 2.2.2.1 Biểu tƣợng “mặt đƣờng khát vọng” ....................................................... 55 2.2.2.2 Các biểu tƣợng “máu”, “ lửa” và “màu đỏ” .......................................... 60 2.2.2.5 Biểu tƣợng “cõi lặng” ........................................................................... 63 Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................. 68 Chƣơng 3: NGÔN NGỮ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM....................................... 69 3.1. Ngôn ngữ trong tƣ duy thơ .............................................................................. 69 3.2 Sự sáng tạo ngôn ngữ trong các thể loại thơ ..................................................... 71 3.2.1 Sự sáng tạo ngôn ngữ trong trƣờng ca ....................................................... 72 3.2.2 Sự sáng tạo ngôn ngữ trong thơ trữ tình ..................................................... 81 3.2.3 Sự sáng tạo ngôn ngữ trong thơ lục bát ...................................................... 85 Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 87 III KẾT LUẬN .................................................................................................... 88 2
- A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm không xa lạ với bạn đọc yêu thơ. Ông là một trong số những nhà thơ có nhiều đóng góp tích cực cho thi ca Việt Nam. Những vần thơ của ông chan chứa tình đồng bào đồng chí và thấm sâu những suy tƣ của một ngƣời con yêu nƣớc. Dù đƣơng chức hay khi rời xa chốn quan trƣờng thì thơ của ông cũng đều có những đặc sắc riêng. Thơ với Nguyễn Khoa Điềm nhƣ một ngƣời bạn tri âm tri kỷ, ông luôn dành tình cảm sâu sắc và chân thành tự đáy lòng cho thơ. Ông viết khá đều tay và đạt đƣợc nhiều thành công. Nguyễn Khoa Điềm đạt giải thƣởng của Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986). Ông đã làm Trƣởng ban Tƣ tƣởng Văn hóa Trung ƣơng, Bộ trƣởng bộ Văn hóa thông tin... Có thể nói thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm thành công trên con đƣờng chính trị và con đƣờng thơ ca, điều đó không phải nhà thơ nào cũng làm đƣợc. Thơ Nguyễn Khoa Điềm có nhiều đóng góp lớn lao không thể phủ nhận, và cũng có nhiều ngƣời nghiên cứu, nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu sâu về tƣ duy nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm. Chúng tôi muốn qua đề tài “Thơ Nguyễn Khoa Điềm nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật” để có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về thơ Nguyễn Khoa Điềm từ kháng chiến cho đến hôm nay. 1.2. Tư duy thơ Khi tiếp cận thi ca, ngƣời ta có nhiều cách nghiên cứu khác nhau để khai thác hết những chiều sâu ý nghĩa cũng nhƣ đặc sắc nghệ thuật của từng câu chữ. Thơ đặc sắc ở từng chữ, thậm chí từng dấu chấm dấu phẩy, đó là điểm khác biệt cơ bản giữa thơ và văn xuôi. Ngƣời ta có thể tiếp cận vẻ đẹp của thơ bằng phƣơng pháp thi pháp học, bằng phƣơng pháp xã hội học... và tất nhiên mỗi cách tiếp cận có những ƣu điểm và hạn chế khác nhau. Chúng tôi chọn cách tiếp cận thơ Nguyễn Khoa Điềm từ góc độ tƣ duy thơ nhƣ một cách tiếp cận tổng hợp các yếu tố nội dung và hình thức đảm bảo đi sâu vào thơ ông, khai thác những vẻ đẹp riêng của thơ ông. 1
- Nghiên cứu thơ từ góc độ tƣ duy nghệ thuật sẽ cho ta đi sâu vào các giá trị đặc sắc về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của những vần thơ mang trong mình sức sống mạnh mẽ qua thời gian. Chúng tôi cho rằng đây là một hƣớng tiếp cận thơ Nguyễn Khoa Điềm tƣơng đối toàn diện và sẽ có những đóng góp nhất định. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 2.1. Các góc độ tiếp cận thơ Nguyễn Khoa Điềm Nhiều nhà nghiên cứu, học giả cũng nhƣ những ngƣời yêu thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tìm hiểu vẻ đẹp thơ ông dƣới nhiều góc độ khác nhau: phong cách, nội dung phản ánh hiện thực, đề tài chiến tranh – ngƣời lính… Trong chuyên luận: “Đặc trưng trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo”, Mai Bá Ấn, Nxb hội nhà văn 2009, tác giả chủ yếu đi sâu nghiên cứu trƣờng ca của ba nhà thơ trên, qua đó tìm hiểu một phần phong cách của Nguyễn Khoa Điềm. Mai Bá Ấn tiếp cận trƣờng ca Nguyễn Khoa Điềm để khẳng định những đóng góp của ông cũng nhƣ của các nhà thơ Thu Bồn, Thanh Thảo cho nền thi ca Việt Nam dƣới góc độ thể loại. Trong từng chƣơng của công trình nghiên cứu, ông đều thể hiện những nhận định sắc sảo và tinh tế về các khía cạnh của trƣờng ca Nguyễn Khoa Điềm trong thế đối sánh với các trƣờng ca của Thu Bồn, Thanh Thảo. Qua đó, những nét đặc sắc trong thể loại trƣờng ca của từng nhà thơ đƣợc bộc lộ một cách rõ ràng, sắc nét. Chƣơng một, Mai Bá Ẩn tìm hiểu những quan niệm và khái niệm về trƣờng ca nói chung và quan niệm riêng về thơ và trƣờng ca của ba nhà thơ, đồng thời ông cũng không quên khẳng định lại một lần nữa những thành tựu đã đƣợc ghi nhận về trƣờng ca của ba nhà thơ trên. Ở chƣơng hai, Mai Bá Ẩn đi sâu nghiên cứu tính đa tầng trong khả năng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và con ngƣời, những khát vọng bình yên qua các biểu chƣng tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Thanh Thảo. Trong chƣơng 3, nhà nghiên cứu Mai Bá Ẩn nghiên cứu tính phức hợp trong cấu trúc nghệ thuật (thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu, cấu trúc tác phẩm). Đây là một công trình nghiên cứu rất có ý nghĩa bởi đã khẳng định thêm một lần nữa những đóng góp lớn lao và chắc chắn của ba nhà thơ trên cho nền thi ca Việt Nam trên nhiều phƣơng diện. Trong thế đối sánh giữa ba nhà thơ, ta thấy rõ rằng Nguyễn Khoa Điềm dù không viết nhiều trƣờng ca 2
- nhƣng ông vẫn để lại những đóng góp riêng, phong cách riêng không thể lẫn với bất cứ nhà thơ nào. Trƣờng ca Nguyễn Khoa Điềm hƣớng về không gian thành thị, về những ngƣời thanh niên từ thành thị đi vào kháng chiến. Nguyễn Khoa Điềm cũng hƣớng đến những triết lí sâu sắc về cuộc sống, về đất nƣớc. Mỗi nhà nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm đều có những phát hiện mới mẻ và quan trọng về đặc trƣng cũng nhƣ thành tựu thi ca của ông. Trong bài viết “Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm như tôi biết” của Phan Thị Thanh Nhàn, nhà thơ chủ yếu đi sâu khai thác khía cạnh tính cách của thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm qua những vần thơ và những kỉ niệm khó quên. Nữ thi sĩ khẳng định thơ Nguyễn Khoa Điềm khi xƣa là “những bài thơ sâu lắng, tinh tế, trong veo và đầy khát vọng”[42,11]. Đó là những lời nhận xét sắc sảo và khái quát về đặc điểm và đóng góp của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm một thời. Bài viết của Nguyễn Thị Thanh Nhàn gần gũi và sâu lắng nhƣ những lời tâm sự nhẹ nhàng tinh tế. Nhà thơ Trần Đăng trong bài viết rất tâm huyết: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: "Bây giờ gió gọi anh đi" cho chúng ta thêm một trải nghiệm nữa về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Đó là một thi sĩ “không chỉ biết làm thơ hay mà còn là ngƣời luôn phát hiện và ủng hộ cái mới trong văn học”[12]. Nguyễn Khoa Điềm từng giữ nhiều chức vụ quan trọng nhƣng rồi khi trở về cuộc sống thƣờng nhật cũng giản dị nhƣ tất cả những ngƣời xung quanh ông, điều đó đƣợc thể hiện qua những kỉ niệm quanh “chiếc xe đạp” và cả những vần thơ đƣợc viết gần đây, những vần thơ “đẩy con ngƣời đến chỗ tận cùng của sự trần trụi. Không sợ hãi và không che đậy”[12]. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định một cách chắc chắn về tập thơ gần đây của Nguyễn Khoa Điềm: “Bây giờ gió gọi anh đi” là thời kì bùng nổ thứ ba của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Bài viết đã thể hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn hành trình thơ của Nguyễn Khoa Điềm cùng những kỉ niệm bên lề trong khoảng thời gian về hƣu của ông. Có lẽ do khuôn khổ của một bài báo ngắn nên Trần Đăng chƣa đi sâu hơn nữa vào thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhƣ những công trình nghiên cứu khoa học khác. Trong bài nghiên cứu “Miễn là dám bước qua giới hạn của mình” của nhà thơ Thanh Thảo, ngƣời đọc cảm nhận đƣợc sự phân tích thấu đáo và thuyết phục về những vần thơ giầu tình yêu nƣớc của Nguyễn Khoa Điềm. “Những bài nhƣ Đất 3
- ngoại ô, Con chim thời gian, Con gà đất cây kèn và khẩu súng là những bài khá tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi tứ thơ chỉ là “gợi ý”, chỉ là “điểm nhìn” để từ đó bài thơ phát triển tự do theo cảm xúc, nhiều khi vƣợt ngoài những “bộ khung” của tứ thơ. Đó cũng là cách sáng tạo của nhiều nhà thơ thế hệ chống Mỹ, những ngƣời biết hoà trộn bản năng và nhận thức, giữa những gì có đƣợc từ đời sống sách vở với những gì có đƣợc từ đời sống chiến trƣờng”[62]. Thanh Thảo cũng cho rằng thơ của Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về triết lý, lý giải về nhân tình thế thái. Bài viết của nhà thơ Thanh Thảo đi sâu vào từng vần thơ xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm và phân tích một cách cặn kẽ cái hay cái đẹp của thơ ông rồi từ đó khái quát đặc điểm chung của thơ ông. Những sách báo cũng nhƣ bài viết trên báo mạng về thơ và trƣờng ca Nguyễn Khoa Điềm, hầu hết đều thống nhất khẳng định thơ Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm thơ Cách mạng thêm phong phú và có chiều sâu. Những tập thơ về sau của ông đầy tính chiêm nghiệm về nhân tình thế thái. Chính vì sự thống nhất trong đánh giá thành tựu thơ Nguyễn Khoa Điềm của những nhà nghiên cứu trƣớc nên việc tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm của thế hệ sau không mấy khó khăn. Bởi lẽ không bị rối và mất phƣơng hƣớng trong hàng loạt những công trình nghiên cứu mang nhiều ý kiến trái chiều nhƣ một số nhà văn nhà thơ khác. 2.2. Nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc độ tư duy nghệ thuật Cũng cần phải nhìn một cách công bằng rằng thực tế rất hiếm và hầu nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào tƣ duy nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nhƣ trên đã phân tích, công trình nghiên cứu rất công phu của Mai Bá Ẩn về trƣờng ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện rõ những phát hiện mới mẻ của ông về trƣờng ca của ba nhà thơ trên. Chúng ta không thể phủ nhận mức độ công phu và sự thành công của chuyên luận trên. Tuy nhiên cách tiếp cận đó không phải là cách tiếp cận duy nhất để khẳng định thành công của Nguyễn Khoa Điềm về mảng thi ca. Và cũng nhƣ đã phân tích ở trên, những bài báo nghiên cứu về con ngƣời và thi ca Nguyễn Khoa Điềm đƣợc đăng trên báo chí cũng chƣa khai thác hết những đặc sắc của thi ca Nguyễn Khoa Điềm. Mỗi hƣớng tiếp cận đều 4
- cho thấy những khám phá và đóng góp nhất định về thành công của thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhƣng có lẽ vẫn là chƣa đầy đủ nếu chúng ta chƣa tiếp cận thơ ca Nguyễn Khoa Điềm dƣới góc độ tƣ duy nghệ thuật. Trên thực tế việc nghiên cứu thơ của một tác giả dƣới góc độ tƣ duy nghệ thuật không phải là hiếm. Nguyễn Thị Thuỳ Dung nghiên cứu: “Thơ Lê Đạt dƣới góc nhìn tƣ duy nghệ thuật” (Luận văn thạc sĩ Văn học), Đại học khoa học xã hội và nhân văn 2010. Thuỳ Dung đã nghiên cứu tƣ duy thơ Lê Đạt một cách tƣơng đối toàn diện, dƣới nhiều góc nhìn: Quan niệm thơ, biểu tƣợng thơ, hình tƣợng thơ và ngôn ngữ thơ Lê Đạt. Bên cạnh đó cũng có luận văn của Nguyễn Thị Hải Yến, nghiên cứu thơ Thanh Thảo từ góc độ tƣ duy nghệ thuật, Đại học khoa học xã hội và nhân văn. Luận văn này cho chúng ta hiểu một cách toàn diện về thơ Thanh Thảo: cái tôi ngƣời lính, cái tôi trữ tình, mối quan hệ giữa biểu tƣợng và tƣ duy thơ, biểu tƣợng của lý tƣởng sống và biểu tƣợng của sự sáng tạo, ngôn ngữ thơ đậm chất đời thƣờng và nhiều khoảng trống, giọng điệu thơ bi hùng và giầu suy tƣởng triết lý trong các sáng tác của nhà thơ Thanh Thảo. Ngoài ra phải kể đến luận văn của Trần Thị Thuỳ Dung với tiêu đề “Thơ Bùi Giáng từ góc nhìn tƣ duy nghệ thuật” (Luận văn thạc sĩ Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội năm 2010). Luận văn này đã ra đời với mong muốn góp một cách nhìn toàn diện hơn và có bề sâu về thơ Nguyễn Khoa Điềm nói chung. Mỗi giai đoạn sáng tác của mình, Nguyễn Khoa Điềm đều khẳng định một bƣớc thành công mới, những thành tựu nhất định trong nền thi ca Việt Nam. Đó là điều không phải thi sĩ nào cũng làm đƣợc. Mỗi giai đoạn sáng tác, Nguyễn Khoa Điềm thể hiện cảm hứng chủ đạo và tƣ duy thơ khác nhau. Giai đoạn đầu, cảm hứng chủ đạo là về quê hƣơng đất nƣớc đau thƣơng và anh dũng; tƣ duy hƣớng ngoại là chủ yếu. Giai đoạn sau, cảm hứng chủ đạo của thơ ông hƣớng vào cuộc sống thƣờng nhật với những suy tƣ nhiều chiều về cuộc sống, nhân sinh, ông sử dụng tƣ duy thơ hƣớng nội, trở về với bản ngã của chính mình. 5
- 3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu là thơ, trƣờng ca và các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu những tập thơ đã làm nên tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm từ những thời kì mới sáng tác cho đến tập thơ gần đây nhất mà ông mang đến cho bạn đọc yêu thơ. Chúng tôi cũng tập trung nghiên cứu những vấn đề có ý nghĩa nhận thức luận, văn hoá… của Nguyễn Khoa Điềm. Những tập thơ khẳng định tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến: Cửa thép (1972), Đất ngoại ô (1973), Mặt đường khát vọng (1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi tập trung đi sâu vào các nội dung chính của tƣ duy nghệ thuật: biểu tƣợng thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Khoa Điềm. Qua đó cho thấy những nét đặc sắc riêng biệt của thơ Nguyễn Khoa Điềm so với những nhà thơ khác. Cùng viết về đề tài đất nƣớc và chiến tranh nhƣng thơ Nguyễn Khoa Điềm có cách nhìn giản dị và sâu lắng khác hẳn với những vần thơ ngùn ngụt ý chí chiến đấu của Tố Hữu hay những nhà thơ cùng thời khác. Tố Hữu thành công vang dội với phong cách riêng của ông và Nguyễn Khoa Điềm cũng ghi tên mình vào danh sách những nhà thơ xuất sắc viết về chiến tranh nhƣng lại bằng một giọng thơ sâu lắng, trữ tình, lay động bao trái tim ngƣời yêu thơ. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn này chủ yếu tiếp cận tác phẩm Nguyễn Khoa Điềm bằng phƣơng pháp phân tích, thống kê, so sánh. 4.1. Phƣơng pháp phân tích: Phƣơng pháp phân tích sẽ đi sâu phân tích các tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm và chủ yếu làm nổi bật các nội dung của tƣ duy thơ ông nhƣ đã giới hạn ở trên. 6
- 4.2. Phƣơng pháp thống kê Phƣơng pháp thống kê sẽ đƣợc vận dụng để liệt kê những hình ảnh, hình tƣợng lặp đi lặp lại và có ý nghĩa trong thơ ông. Từ đó đƣa ra những nhận định chính xác và hiệu quả về những đóng góp của thơ ông. Thủ pháp thống kê những hình ảnh sẽ góp phần khẳng định đƣợc giá trị của những hình ảnh nghệ thuật mà Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng. 4.3. Phƣơng pháp so sánh Ngƣời nghiên cứu cũng đồng thời tìm hiểu những tác phẩm thơ cũng nhƣ trƣờng ca của một số nhà thơ cùng thời kỳ trong thế so sánh với thơ Nguyễn Khoa Điềm. Qua đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn phong cách riêng của Nguyễn Khoa Điềm trong thể loại trƣờng ca, cũng nhƣ trong các thể thơ khác. Qua các phƣơng pháp nghiên cứu trên đây chúng tôi sẽ hiểu sâu sắc những nét đặc sắc của thơ và trƣờng ca Nguyễn Khoa Điềm trong bối cảnh chung của nền thi ca Việt Nam từng thời kỳ. Chúng tôi vừa đi sâu tìm hiểu và phân tích những đặc sắc nghệ thuật và cả những đặc sắc trong nội dung nhằm chỉ ra vẻ đẹp toàn diện và thống nhất của thơ Nguyễn Khoa Điềm. 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và kết luận thì phần nội dung chính của luận văn gồm ba chƣơng: Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ DUY THƠ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM Chƣơng 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ MỘT SỐ BIỂU TƢỢNG ĐẶC SẮC TRONG THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM Chƣơng 3: NGÔN NGỮ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM 7
- B. NỘI DUNG CHÍNH Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ DUY THƠ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM 1.1 Một số vấn đề lý luận về tư duy nghệ thuật 1.1.1 Khái niệm tư duy Để giải thích vấn đề tƣ duy là gì, nhiều nhà khoa học và nhiều ngành khoa học đã tốn không biết bao nhiêu thời gian và giấy mực để nghiên cứu, và cho đến nay vẫn chƣa có sự thống nhất. Triết học nghiên cứu tƣ duy dƣới góc độ lý luận nhận thức. Lôgíc học nghiên cứu tƣ duy ở các quy tắc tƣ duy đúng. Xã hội học nghiên cứu tƣ duy ở sự phát triển của quá trình nhận thức trong các chế độ xã hội khác nhau. Sinh lý học nghiên cứu cơ chế hoạt động thần kinh cao cấp với tƣ cách là nền tảng vật chất của các quá trình tƣ duy ở con ngƣời. Điều khiển học nghiên cứu tƣ duy để có thể tạo ra “Trí tuệ nhân tạo”. Tâm lý học nghiên cứu diễn biến của quá trình tƣ duy, mối quan hệ qua lại cụ thể của tƣ duy với các khía cạnh khác của nhận thức. Tƣ duy không chỉ là đối tƣợng nghiên cứu của các ngành khoa học cơ bản, mà còn là đối tƣợng nghiên cứu của lĩnh vực nghệ thuật. Tƣ duy là toàn bộ những hoạt 8
- động tâm lý của con ngƣời, chỉ con ngƣời mới có. Tƣ duy nảy sinh từ sự sống và gắn liền với hoạt động của các tế bào não. “Tƣ duy là quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính, bản chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật, hiện tƣợng mà trƣớc đó ta chƣa biết. Tƣ duy của con ngƣời có bản chất xã hội, chịu sự chế ƣớc bởi các nhu cầu xã hội và sử dụng ngôn ngữ, là cái chỉ tồn tại trong xã hội loài ngƣời. Đặc trƣng của tƣ duy là phản ánh các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ, đó là toàn bộ chức năng nhận thức của tƣ duy”[58,18]. Theo V.I. Lê nin, tƣ duy là sự phản ánh thế giới tự nhiên sâu sắc hơn, trung thành hơn, đầy đủ hơn, đi sâu một cách vô hạn, tiến gần đến chân lý khách quan hơn. “Tƣ duy của ngƣời ta - đi sâu một cách vô hạn, từ giả tƣởng tới bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nhƣ vậy, đến bản chất cấp hai... đến vô hạn”[67,30]. Tƣ duy là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cánh gián tiếp, là sự phản ánh những thuộc tính chung và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tƣợng mà ta chƣa từng biết. Tƣ duy khác với ý thức, bởi lẽ ý thức là sự phản ánh hiện thực của hoạt động tâm lý. Tƣ duy cũng khác với lý trí vì nói đến lý trí là nói đến cái logic có tính nguyên tắc của nhận thức. Tƣ tƣởng thì vừa là kết quả vừa là xuất phát điểm của tƣ duy. Tƣ duy là một hình thức hoạt động của hệ thần kinh thể hiện qua việc tạo ra các liên kết giữa các phần tử đã ghi nhớ đƣợc chọn lọc và kích thích chúng hoạt động để thực hiện sự nhận thức về thế giới xung quanh, định hƣớng cho hành vi phù hợp với môi trƣờng sống. Tƣ duy là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cánh gián tiếp, là sự phản ánh những thuộc tính chung và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tƣợng mà ta chƣa từng biết. Tƣ duy định hƣớng đến sự thành thục, khi sự thành thục đã có thì tƣ duy kết thúc. Điều này giống với sự nhận thức, khi sự nhận thức chƣa có thì cần phải tƣ duy, khi nhận thức đã có thì tƣ duy kết thúc. Phƣơng tiện để diễn đạt tƣ duy chính là ngôn ngữ, ngôn ngữ là công cụ của tƣ duy. “Không có ngôn ngữ thì tƣ duy chỉ là những dự báo mơ hồ, những phản ứng có tính bản năng trƣớc hiện thực. Không có tƣ duy thì ngôn ngữ chỉ là tiếng kêu bập bẹ 9
- của trẻ sơ sinh mà thôi. Tƣ duy làm cho ngôn ngữ phát triển phong phú, tinh xảo. Ngôn ngữ tạo điều kiện cho tƣ duy đi sâu vào bản chất của sự vật”[58,19]. Và nhƣ vậy, ngôn ngữ thơ chính là một phƣơng tiện biểu hiện tƣ duy thơ, tƣ duy thơ thế nào thì ngôn ngữ thơ nhƣ vậy. 1.1.2 Quan niệm về tư duy nghệ thuật, tư duy thơ 1.1.2.1 Tƣ duy nghệ thuật Tƣ duy nghệ thuật là tƣ duy sáng tạo của con ngƣời trong lĩnh vực nghệ thuật. Mỗi nghệ sĩ có một hƣớng tƣ duy nghệ thuật khác nhau, làm nên cá tính và phong cách riêng của họ. Không phải nhà thơ nào cũng có phong cách nhƣng bất cứ nhà thơ nào muốn để lại tên tuổi của mình trên văn đàn, phải khẳng định đƣợc cái riêng của mình. Cái khắc nghiệt của văn chƣơng nghệ thuật là ở chỗ đó, hoàn toàn khác với các loại hình khoa học khác. Khoa học tự nhiên hƣớng đến những định lí chung nhất, khái quát nhất và đƣợc nhân loại thừa nhận. Còn văn chƣơng nghệ thuật lại hƣớng đến cái tôi, cái duy nhất. Và chỉ khi nào ngƣời nghệ sĩ thực sự say mê với công việc, thì sự sáng tạo mới toả sáng, cái độc đáo của ngƣời nghệ sĩ mới đƣợc bộc lộ và đƣợc công nhận. Bất cứ một sự sao chép và khiên cƣỡng nào đều nằm ngoài địa hạt của nghệ thuật chân chính. “Tƣ duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con ngƣời hƣớng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Bản chất của nó do phƣơng thức thực tiễn tinh thần của hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng hình tƣợng quy định. Tƣ duy nghệ thuật là một phƣơng thức hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hoá hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mỹ. Phƣơng tiện của nó là các biểu tƣợng, tƣợng trƣng có thể trực quan đƣợc. Cơ sở của nó là tình cảm. Dấu hiệu bản chất của tƣ duy nghệ thuật là: ngoài tính giả định ƣớc lệ, nó hƣớng tới sự nắm bắt những sự thật đời sống cụ thể, cảm tính, mang nội dung khả nhiên, có thể cảm thấy, theo xác suất khả năng và tất yếu”[26,281]. Nhƣ vậy điều quan trọng nhất của tƣ duy nghệ thuật đó là sự sáng tạo, và phƣơng tiện biểu hiện nằm trong những biểu tƣợng nghệ thuật. Mỗi nhà 10
- văn, nhà thơ đều có sự lựa chọn biểu tƣợng khác nhau để chuyển tải cách tƣ duy của mình, cách nhìn thế giới của mình. Tƣ duy thơ là một cách tƣ duy hình tƣợng, thơ cho phép thi sĩ có khả năng liên tƣởng phong phú đa dạng. Tƣ duy thơ có khả năng hƣớng nội và hƣớng ngoại. Tuỳ từng thời điểm và tuỳ thuộc phong cách riêng của mỗi nhà thơ mà họ chọn cách tƣ duy phù hợp. Tƣ duy hƣớng nội thƣờng phổ biến trong thơ trung đại và thơ lãng mạn, nơi cái tôi thi sĩ lên ngôi. Tƣ duy hƣớng ngoại phổ biến ở giai đoạn văn học cách mạng, các thi sĩ say mê thể hiện cái ta, hoà cái tôi vào cái ta chung của thời đại. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành đã bàn nhiều về vấn đề tƣ duy nghệ thuật nói chung và tƣ duy thơ nói riêng trong rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. Ông cho rằng: “Tƣ duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tƣợng trực quan, là sự hình tƣợng hoá hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan. Tƣ duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân sinh quan của ngƣời sáng tạo”[58,54]. Chính trên cơ sở vai trò của cái chủ thể trong hình tƣợng nghệ thuật mà Claud Bernard đã ghi chú: “Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta…” Tƣ duy nghệ thuật khác với tƣ duy khoa học ở chỗ tƣ tƣởng và tình cảm không chỉ là năng lƣợng của tƣ duy mà còn là đối tƣợng nhận thức của tƣ duy. “Hình tƣợng nghệ thuật đƣợc coi là hình tƣợng của cảm xúc, nghĩa là năng lƣợng tình cảm còn lại trong hình tƣợng nhƣ là một yếu tố nội dung, một bộ phận hợp thành”[58,19]. 1.1.2.2 Tƣ duy thơ Thơ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Thơ là một thể loại văn học hết sức quen thuộc và gần gũi với con ngƣời ở mọi thời đại, ở phƣơng Đông cũng nhƣ ở phƣơng Tây…. Khác với loại tác phẩm truyện, kí, kịch, thơ trực tiếp gắn với tâm hồn con ngƣời, mà tâm hồn con ngƣời là một thế giới phức tạp, mờ ảo nên thơ có thể dễ dàng cảm nhận bằng trực giác nhƣng rất khó đúc kết, khái quát thành một định nghĩa thật sự hoàn chỉnh. “Ở tác phẩm tự sự, tác giả xây dựng bức tranh về cuộc sống, trong đó các nhân vật có đƣờng đi và số phận của chúng. Bằng những đối thoại và độc thoại, tác giả kịch thể hiện tính cách và hành động con ngƣời qua những mâu thuẫn xung đột. Ở tác phẩm trữ tình có khác; thế giới quan của con 11
- ngƣời, cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ đƣợc trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu” [37, 357]. Để viết nên bài thơ, đầu tiên nhà thơ phải tìm cho mình đƣợc tứ thơ. Tứ thơ rất quan trọng. Tứ thơ, hay ý tứ của bài thơ, là tình cảm, hình ảnh chủ đạo mà bài thơ muốn truyền đạt. Một nhà thơ phải biết cách hòa ý tƣởng vào cảm xúc và hình ảnh, sáng tạo một tứ độc đáo làm bài thơ linh động hẳn lên, trở nên có hồn. Hành động đó gọi là cấu tứ. Lao động thơ trƣớc hết là kiếm tứ… Ngôn từ, lời chữ vẫn rất quan trọng bởi vì thơ là nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên đó là cái quan trọng thứ hai mà cái quan trọng thứ nhất làm rƣờng cột cho tất cả là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài thơ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Trƣớc hết cần phân biệt ý và tứ. Nói đến ý ta nghĩ đến những điều nảy ra trong trí óc khi suy nghĩ. Còn tứ phải là những ý không ở dạng quan niệm nữa, đã thể hiện trong hình tƣợng. Có tứ tất có ý, còn có ý chƣa hẳn là có tứ. Nói tứ thơ – là hình tƣợng thơ là đúng nhƣng chƣa rõ. Một hình tƣợng thơ là sự thể hiện các hiện tƣợng, tình cảnh, chi tiết cuộc sống… sao cho ngƣời đọc có thể hình dung ra hình thể, dáng dấp, màu sắc, âm thanh của nó… biến nó thành những điều có thể tiếp nhận đƣợc qua cảm quan”[41]. Ông cũng nói thêm: “Khi ngƣời đọc thừa nhận một đoạn thơ có tứ, một bài thơ có tứ là đã thừa nhận một phần phẩm chất nghệ thuật của nó. Một tứ thơ phải là hình tƣợng có tìm tòi sáng tạo, thể hiện ý trọn vẹn, gợi lên những điều tốt đẹp, xúc động lòng ngƣời, tạo ra những mối liên tƣởng rộng rãi, nghĩa là có giá trị thẩm mỹ cao. Đó mới là thực chất của tứ thơ thƣờng đƣợc nói đến khi bàn luận về thơ. Những câu thơ đƣợc truyền tụng trích dẫn phần lớn là những tứ thơ”[41]. Tứ thơ không phải là tất cả của bài thơ, bài thơ hay còn căn cứ trên nhiều yếu tố khác nhau. Nhƣng tứ thơ là cái hết sức quan trọng: “Có đƣợc cái tứ là điều kiện cần yếu của tính nghệ thuật của thơ. Vì tứ là đặc sản của tâm hồn thơ, chứng tỏ tác giả có cái nhìn thẩm mỹ – tức cái nhìn thế giới độc đáo, phát hiện ra những khía cạnh tinh vi, thiết yếu, những khía cạnh các nhà sử học không ghi hết đƣợc, nhƣng lại là bộ phận sống động; cụ thể nhất của lịch sử, hình tƣợng của những trạng thái tâm hồn con ngƣời một thời đại”[41]. Tứ thơ vừa thể hiện tầm vóc của tác giả, vừa 12
- thể hiện sức sống của bài thơ. Với những bài thơ dài thì tứ thơ càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, vì tứ thơ gắn kết các đoạn thơ lại với nhau, tạo thành một chỉnh thể bài thơ thống nhất. Thơ là sự bộc lộ trực tiếp tâm tƣ, là tiếng nói tha thiết của tâm hồn, tiếng gọi nồng nhiệt của trái tim. Yếu tố cảm xúc trong thơ là vô cùng quan trọng. Lời thơ, do vậy không lấy chức năng thông báo làm chính mà chủ yếu là hƣớng đến chức năng biểu hiện. Đó có thể là những nỗi niềm riêng tƣ về hạnh phúc lứa đôi, về tình yêu tan vỡ; niềm vui gặp gỡ, nỗi buồn chia li… Đó cũng có thể là những cảm xúc, những suy tƣ về nhân tình thế thái, về số phận con ngƣời, thăng trầm của xã hội, những cảm xúc về Tổ quốc, đất nƣớc, dân tộc, nhân loại…. Trải qua năm tháng, thơ vẫn đóng góp một tiếng nói riêng không thể thiếu và không thể thay thế vào nền văn học dân tộc. Thơ sẽ còn tồn tại cho đến khi nào con ngƣời có nhu cầu bộc lộ cảm xúc buồn vui của mình. Mỗi một nhà thơ muốn ghi dấu tên mình trong nền thi ca dân tộc, cần có một phong cách riêng, một tƣ duy nghệ thuật riêng. Tƣ duy thơ là một phƣơng thức biểu hiện của tƣ duy nghệ thuật. Tƣ duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tƣợng trực quan, là sự hình tƣợng hóa hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan. Đó là điểm phân biệt đầu tiên của tƣ duy nghệ thuật với tƣ duy khoa học. Tƣ duy thơ là một phƣơng thức hiểu hiện của tƣ duy nghệ thuật, nhƣng nó mang trong mình một khả năng biểu hiện phong phú nhờ kho biểu tƣợng của thơ phong phú và đa dạng. Kho biểu tƣợng của thơ đƣợc thể hiện ở những biểu tƣợng gần gũi, cũng có khi trừu tƣợng và vời vợi cách xa. Tùy theo cảm xúc của thi sĩ, dụng ý của thi sĩ mà những biểu tƣợng của cuộc sống hay của trí tƣởng tƣợng đƣợc vận dụng và đƣa vào thi ca. Mặt khác phƣơng tiện ngôn ngữ của tƣ duy thơ là một phƣơng tiện giao tiếp có tính xã hội hóa cao độ. Cho nên thơ có thể biểu hiện đƣợc nhiều tâm trạng, nhiều dạng cảm xúc, nhiều nội dung cụ thể và trực tiếp. Biểu tƣợng thi ca vừa mang tính chất biểu tƣợng thính giác, vừa mang tính chất biểu tƣợng thị giác, nghĩa là trong thơ vừa có nhạc, vừa có họa. Có lẽ vì thế, nhiều bài thơ đã đƣợc phổ nhạc và đi vào lòng ngƣời yêu nhạc, yêu thơ bao thế hệ. Ở Việt Nam thời hiện đại, có lẽ không ai không biết đến bài hát “Phượng hồng” đƣợc nhạc sĩ Vũ Hoàng 13
- phổ nhạc từ bài thơ “Chút tình đầu” của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm đã làm say lòng bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm cũng có những bài thơ đƣợc phổ nhạc và gây đƣợc tiếng vang. Trong số đó phải kể đến bài thơ “Có một ngày” đƣợc nhà thơ Phú Quang phổ nhạc thành bài hát cùng tên. Lời thơ là sự day dứt đến đau đớn của ngƣời con trai khi ngƣời tình đã “dứt áo” ra đi tìm niềm vui khác. Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm đƣợc phổ nhạc thành bài hát “Lời ru trên nương”. Nhƣng nói nhƣ vậy không có nghĩa là chỉ những bài thơ đƣợc phổ nhạc mới có tính nhạc. Tính nhạc xuất hiện trong từng nhịp điệu câu thơ, lời thơ. Tính nhạc ấy còn ngân nga trong trái tim độc giả dù lời thơ đã dứt. 1.2 Quá trình sáng tác thơ của Nguyễn Khoa Điềm 1.2.1 Các giai đoạn sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại làng Ƣu Điềm, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, con của nhà cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (Nguyễn Khoa Hải Triều), dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dƣơng (Hải Dƣơng cũ). Sinh ra trong gia đình khoa bảng, chất văn chƣơng nghệ thuật đã thấm đẫm vào dòng máu của Nguyễn Khoa Điềm từ khi còn rất nhỏ. Điều đó giải thích vì sao dù sau này khi đã “làm quan” ông vẫn không ngừng sáng tác thơ và đóng góp cho đời những vần thơ xuất sắc không thể trộn lẫn với bất kì ai. Miền quê mà Nguyễn Khoa Điềm cất tiếng khóc chào đời cũng là nơi để lại trong ông những ấn tƣợng sâu sắc. Vùng quê ấy nuôi dƣỡng tài năng thi ca Nguyễn Khoa Điềm. Cũng không có gì khó hiểu khi từ bỏ mũ áo cân đai, Nguyễn Khoa Điềm lại chọn con đƣờng trở về quê hƣơng, trở về Huế, trở lại với chính bản thân mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Huế luôn luôn là một miền quê mộng mơ đi sâu vào thơ ca của ông trong suốt hành trình sáng tác thơ từ những ngày đầu cho đến tận bây giờ. Quê hƣơng đã làm bùng cháy xúc cảm nghệ thuật sâu sắc trong trái tim ngƣời nghệ sĩ Nguyễn Khoa Điềm. Hầu nhƣ các thi sĩ đều dành cho quê hƣơng những vần thơ hết sức xúc động và Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đi sâu vào trái tim độc giả bao thế hệ, với những bài thơ xuất sắc đƣợc chọn giảng trong chƣơng trình văn học phổ thông và với hàng 14
- loạt những bài thơ xúc động lòng ngƣời. Đó là một trong những bằng chứng chân thực khẳng định tài năng thơ của thi sĩ. Bên cạnh đó, ông cũng đƣợc giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, đó là một giải thƣởng cao quý mà bất cứ nhà thơ nhà văn nào cũng muốn đạt đƣợc. Giai đoạn đầu, Nguyễn Khoa Điềm sáng tác Cửa thép (1972), Đất ngoại ô (1973). Ông viết Đất ngoại ô trong suốt một năm trời (từ tháng 4-1968 đến tháng 4- 1969). Giọng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ở Đất ngoại ô khá mới mẻ. Các câu thơ đƣợc kéo dài một cách tự do phóng khoáng, không quá câu nệ vào vần điệu. Lời thơ tự nhiên, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Những câu thơ, những đoạn thơ trong Đất ngoại ô chứa đầy suy tƣ. Từ quá khứ, anh đối chiếu với hiện tại: Vườn thơ xưa không có gã áo trắng đi về / Ngơ ngẩn đọc thơ buồn trong tiếng guốc cạo râu / Chỉ còn người phu xe cũ / Nghiêng cốc rượu chiều nhòe những mái tôn... Nhà thơ nhìn thấy trong cái nắng tháng năm "run rẩy những oan hồn". Trƣớc đây, ông từng lấy bút danh Mặc Hữu, Hƣớng Dƣơng ký dƣới những bài báo, nhƣng lần này ông dùng tên thật của mình khi quyết định gửi Đất ngoại ô ra Hà Nội. Bài thơ đƣợc đăng trang trọng trên báo Văn nghệ. Bạn đọc yêu thơ bắt đầu biết đến cái tên Nguyễn Khoa Điềm từ đó. Đất ngoại ô chiếm một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp thi ca của ông. Nó mở cho ông một hƣớng đi riêng, một cách nói năng, một giọng điệu riêng trong dòng thơ chống Mỹ. Bƣớc sang trƣờng ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiếp tục mạch suy tƣ về nhân dân, đất nƣớc bằng lối thể hiện tự nhiên, bình dị, phóng khoáng, hiện đại vốn có của mình. Không ai nói về đất nƣớc dễ hiểu nhƣ ông: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm. Anh giải thích đất nƣớc đến tận cội nguồn: Đất là nơi chim về / Nước là nơi Rồng ở… Bản trƣờng ca này anh viết trong những tháng ngày địch bắn phá vùng chiến khu Trị Thiên vô cùng ác liệt. Nhà văn Nguyễn Đắc Xuân kể rằng bản thảo đầu tiên của trƣờng ca này bị bom thả bay tung hết. Nguyễn Khoa Điềm tiếc nuối. Ông phải ngồi viết lại từng chƣơng một, hoàn thành vào năm 1971 và mãi đến 1974 mới ra mắt bạn đọc. Thanh niên trí thức yêu nƣớc ở các đô thị miền Nam lúc bấy giờ rất tâm đắc với bản trƣờng ca này vì họ tìm đƣợc ở đó những tâm tƣ sâu kín của mình. 15
- Khi nƣớc nhà thống nhất, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lần lƣợt đƣợc giao nhiều trọng trách: Thứ trƣởng rồi Bộ trƣởng Bộ Văn hóa - Thông tin; Tổng Thƣ ký BCH Hội Nhà văn khóa V... nên không có nhiều thời gian làm thơ. Tuy vậy, vào năm 1986, ông vẫn cho ra đời tập Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nghỉ hƣu, ông đã hoàn thành tập thơ Cõi lặng. Trong Ngôi nhà có ngọn lửa ấm và Cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về chiêm nghiệm đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Bên cạnh những cái hay, cái đẹp ông còn nhận thấy những cái chƣa hay, chƣa đẹp trong cuộc sống hiện tại. Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm là một trong rất hiếm những thi sĩ vừa sáng tác thơ rất đều tay, vừa giữ những chức vụ quan trọng trên chính trƣờng. Bởi lẽ thơ là địa hạt của trái tim, của trí tƣởng tƣợng, còn chính trƣờng là nơi dành cho những tƣ duy sắc bén, logic. Dung hoà đƣợc hai địa hạt đó thực sự là điều không dễ dàng, nhƣng Nguyễn Khoa Điềm đã làm đƣợc. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng kinh qua nhiều chức vụ quan trọng nhƣ Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt nam, Trƣởng ban Tƣ tƣởng Văn hoá TƢ, Bộ Trƣởng Bộ Văn hoá Thông tin. Ông đã để lại cho chúng ta những tài sản tinh thần vô giá, đó là những tập thơ nồng nàn tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, Cửa thép (1972), Đất ngoại ô (1973), Mặt đường khát vọng (1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007). 1.2.2 Quan niệm thơ của Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm hầu nhƣ chƣa công bố một công trình lý luận văn học nào thể hiện quan niệm của mình về thơ, bởi đơn giản ông không là một nhà lý luận văn học, ông là một nhà thơ. Ông sáng tác thơ theo cảm hứng, thể hiện hết những ƣu tƣ trong tận sâu thẳm trái tim mình. Đây đó, ở một vài nơi, Nguyễn Khoa Điềm có thể hiện quan niệm của mình về thơ, nhƣng cũng không rõ ràng nhƣ rất nhiều nhà thơ khác, hay nhà lý luận văn học khác. Nguyễn Khoa Điềm luôn xác định văn học là phục vụ cuộc sống, phục vụ kháng chiến, những vần thơ của ông là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Đã có lần ông phát biểu quan niệm của ông về thơ khi trả lời phỏng vấn: “Tôi cũng vậy, tôi luôn thƣờng trực ý nghĩ mình viết cái gì, mỗi một từ ngữ hình ảnh giản dị bình 16
- thƣờng nhất thì cũng phải có lợi cho cuộc chiến đấu”[13,267]. Đó là quan điểm chung của những thi sĩ cùng thời với ông. Thơ từng một thời là vũ khí chiến đấu sắc bén chống lại quân thù, “Dùng bút làm đòn chuyển chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”- Sóng Hồng. Nhƣng nhƣ vậy không có nghĩa là văn chƣơng thuần tuý chỉ là công cụ cách mạng, nhà thơ làm theo mệnh lệnh của tổ quốc mà quên đi cảm xúc cá nhân của mình. Thơ bao giờ cũng xuất phát từ những rung cảm tận đáy lòng thi sĩ. Khi không có cảm xúc, thi sĩ khó viết thành thơ, văn chƣơng nghệ thuật là thế. Nguyễn Khoa Điềm cũng từng tâm sự rất chân thành về cảm xúc trong thơ: “Lúc bấy giờ cảm xúc về chủ nghĩa anh hùng, về sự vƣơn lên trong chiến đấu, hi sinh là những cảm xúc có thật đối với mỗi ngƣời, đặc biệt là những ngƣời làm văn học. Nếu không có cảm xúc thì làm một ngƣời bình thƣờng cũng khó, chƣa nói đến sáng tác”[44,122]. Không cần đao to búa lớn khi phát biểu về những vấn đề thuộc phạm trù lý luận văn học, Nguyễn Khoa Điềm phát biểu những quan điểm của mình về thơ hết sức giản dị, nhƣ những lời tâm tình, chia sẻ chân thành. Nguyễn Khoa Điềm là thế, ngƣời tiếp xúc với ông luôn luôn cảm thấy gần gũi bởi sự giản dị của ông. Chính vì thế mà ngƣời ta còn kể cho nhau nhiều giai thoại về sự giản dị ấy khi ông không còn giữ chức vụ quan trọng trên chính trƣờng nữa. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm luôn cho rằng thơ nhƣ người bạn tâm giao, và đó là lý do vì sao sự nghiệp thơ văn của ông không hề bị gián đoạn ngay cả khi ông rất bận việc chính trị. Ông cho rằng: “Thơ nhƣ ngƣời bạn tâm giao, mỗi lần gặp lại nhau đều nhƣ chuyện kì ngộ”[13]. Đến với thơ, thi sĩ đƣợc trở lại với chính lòng mình, đƣợc trải lòng với ngƣời bạn tri âm tri kỉ. Thơ giúp thi sĩ cân bằng đƣợc cảm xúc, cân bằng đƣợc đời sống tình cảm của mình. Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm về thơ rất gần gũi với quan niệm của các bậc tiền bối về thơ: “Thơ khởi phát từ trong lòng ngƣời ta” (Ngô Thì Nhậm) và cũng gần với quan niệm về thơ của các nhà thơ nổi tiếng trên thế giới, Duy Belay quan niệm: “Thơ là ngƣời thƣ ký trung thành của trái tim”. Không nhiều lần Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ quan điểm của mình về thơ, nhƣng mỗi lần thể hiện quan niệm về thơ, ông đều phát biểu hết sức chân thành và súc tích. Hầu nhƣ những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm đều là những minh chứng 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 257 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 301 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 213 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 149 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 150 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 143 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 170 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 143 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 122 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 157 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 146 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 121 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 81 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 61 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn