intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

149
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới bao gồm những nội dung về Lê Lựu và nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại; sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông; những nỗ lực hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH ------------------------------ NGUYỄN THỊ HIỀN TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam Mã số: : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS: TRẦN HỮU TÁ Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
  2. LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, tôi đã nhận được sự hỗ trợ tích cực và những điều kiện thuận lợi từ Phòng Đào Tạo Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh. Vì vậy, đầu tiên, cho phép tôi được nói lời cảm ơn chân thành nhất gửi đến quý thầy cô giáo, các cán bộ của Phòng Đào Tạo Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến PGS. TS Trần Hữu Tá. Thầy đã không quản thời gian, công sức để tân tâm, tận tình, ân cần chỉ bảo, dẫn dắt cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài luận án của mình. Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những bạn bè đồng nghiệp. Họ là những người luôn động viên khích lệ tôi vững bước trên con đường mà mình đã lựa chọn. Cuối cùng, tôi xin nói lời cảm ơn Cha - Mẹ, người đã sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn. Người đã hướng dẫn, chỉ cho tôi con đường đi đến thành công. MỤC LỤC
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con người sống vì lý tưởng mà những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần con người càng thêm rạng rỡ. Khi chiến tranh qua đi, con người mới kịp bình tâm nhìn lại hiện thực khắc nghiệt mình đã trải qua với bao nhiêu nỗi niềm. Chiến tranh đã đi qua nhưng vết thương về chiến tranh vẫn còn mãi. Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới. Đất nước mở cửa giao lưu với bạn bè thế giới và xây dựng cuộc sống hòa bình. Lúc này với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học vốn đã chuyển mình nay nhanh chóng đổi thay diện mạo. Cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc đạt những thành tựu vĩ đại. Đất nước hoàn toàn được giải phóng. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập đã hoàn thành. Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên hàng đầu. Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp. Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay thế bởi cảm hứng đời tư thế sự. Các vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi ……đã trở thành chủ đề nổi bật khiến cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại con người, thay đổi cách miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới. Tất cả những điều này chúng ta bắt gặp trên từng trang viết của các nhà văn. Họ trăn trở tìm hướng đi mới cho con thuyền văn chương của mình. Có người lặng lẽ đối chứng lại với những quan niệm sơ lược hoặc phiến diện một thời về thế sự, để từ đó nhằm đấu tranh cho sự hoàn thiện của mỗi con người trong thời đại mới như Nguyễn Minh Châu. Có người suy ngẫm về quá khứ để nắm bắt nhịp thở của hiện tại như Dương Thu Hương...Có người tìm đề tài trong những cái bề bộn phức tạp của hiện thực cuộc sống, đối thoại cùng người đọc để tìm ra biện pháp tháo gỡ như Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn...Có người lại nhìn nhận thực tại và đối chứng với quá khứ đau thương của một thời đạn bom khói lửa như Bảo Ninh...Và cùng chung dòng chảy đó chúng ta bắt gặp Lê Lựu – một trong những cây bút đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Trước thực tế đầy biến động của lịch sử, những tiểu thuyết Thời xa vắng (1984), Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995) lần lượt ra đời như những bức tranh sinh
  4. động, khắc hoạ chân thực chủ yếu những tháng ngày đầu đất nước trong thời kỳ đổi mới. Tìm hiểu những tiểu thuyết kể trên, ta sẽ hiểu thêm về thể loại tiểu thuyết của một thời kỳ văn học sôi động. Đồng thời qua đó, người viết muốn tìm hiểu những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này. Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những đặc điểm tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới để nhằm hiểu một cách thấu đáo hơn phương thức xây dựng tác phẩm, những đặc sắc trong việc miêu tả, nội dung hiện thực được phản ánh và những nét riêng biệt của nhà văn so với các tiểu thuyết gia cùng thời. Từ đó, nhằm khẳng định sự đóng góp của ông cho sự phát triển nền văn xuôi Việt Nam trong những năm đổi mới. 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu về Lê Lựu đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà phê bình văn học. Họ tìm đến với những tác phẩm và nhận thấy ở đấy những chiều kích khác nhau của cuộc sống. Qua những tác phẩm ấy, người đọc không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ mà còn cảm nhận một cách sâu sắc những biến chuyển tinh tế nhất của đời sống tư tưởng con người thời đại. Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không rơi vào khoảng không im lặng mà có thể nhận thấy, cùng với các cây bút văn xuôi lúc bấy giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh... Lê Lựu đã làm cho đời sống văn học nước ta thêm phần sôi động. Lịch sử văn học cho thấy, những nhà văn nào càng được giới phê bình nghiên cứu quan tâm, càng được bạn đọc chú ý. Và dù khen hay chê cũng đều khiến tác phẩm nổi tiếng hơn, mọi người tìm đọc nó nhiều hơn mà thôi. Lê Lựu là một trường hợp như vậy. Từ một cây bút truyện ngắn, ông tìm cho mình một lối đi riêng. Với tác phẩm Mở rừng, Lê Lựu bước sang địa hạt tiểu thuyết nhưng thành công của ông không phải ở đấy. Lê Lựu khẳng định vị trí, tạo cho mình một thế đứng vững vàng trên văn đàn nền tiểu thuyết hiện đại chính là nhờ những tác phẩm về sau. Đặc biệt, người ta biết đến ông như một tiểu thuyết gia văn xuôi hiện đại Việt Nam chính bởi Thời xa vắng và sau nữa là Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông. Đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm Lê Lựu như: "Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn" của Phong Vũ, "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" hay "Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm" trong báo Văn nghệ tháng 12- 1986, " Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Chuyện phiếm với anh Sài" của Hồng Vân, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại
  5. thực tại qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Đọc " Thời xa vắng" của Lê Lựu" của Hoàng Ngọc Hiến, "Suy tư từ một "Thời xa vắng" của Nguyễn Hoà, "Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay" của Vương Trí Nhàn, "Lê Lựu và Ranh giới" của Lê Tất Cứ, "Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - Những tìm tòi và thể nghiệm" của Nguyễn Ngọc Thiện, "Một giờ với nhà văn Lê Lựu" của Nguyễn Hữu Sơn, "Văn chương cũng như vợ con - nhiều lúc chán lắm nhưng không bỏ được" của Bùi Việt Sĩ, "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn Thu Hằng, "Lê Lựu - Thời xa vắng " của Đinh Quang Tốn, "Lê Lựu - Chân dung văn học" của Trần Đăng Khoa...Và tất cả những bài viết này được chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình. Thông qua những bài viết dành cho Lê Lựu, ta thấy các nhà nghiên cứu rất trân trọng những thành công và phát hiện những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đổi mới nền văn học đương đại. Bên cạnh đó, họ cũng thẳng thắn đưa ra những nhận xét về nghệ thuật viết văn của tác giả. Dư luận khen cũng nhiều nhưng chê cũng có. Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn từng cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi hiện đại, chọn lấy ba mươi tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng” [104, tr. 663]. Hay những nhận xét khá sắc sảo của Trần Đăng Khoa dành cho tác phẩm Thời xa vắng chẳng hạn. Tác giả vừa khẳng định những thành tựu về nội dung, nghệ thuật đồng thời chỉ ra những hạn chế. Ông cho rằng “Với ba trăm trang sách, tiểu thuyết "Thời xa vắng" đã ôm chứa một dung lượng lớn. Đấy là một chặng đường lịch sử oai hùng. Chặng đường ba mươi năm, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng xong toàn bộ đất nước” [104, tr. 674]. Hay : “Thời xa vắng" ra đời có tiếng vang lớn, vượt quá sức hình dung của người đẻ ra nó. Xét về mặt nghệ thuật, cuốn sách không có gì cách tân, tìm tòi, lối viết rất cũ, tốc độ truyện chậm, hơi văn ở phần một và phần hai hình như lạc nhau, không liền mạch. Có cảm giác như đấy là hai cuốn tiểu thuyết cùng một nội dung gộp lại.” [104, tr. 678]. Bên cạnh những ý kiến ấy, trên báo Văn nghệ tháng 12.1986 trong bài "Vài cảm nghĩ sau khi đọc Thời xa vắng", có nhà nghiên cứu đã mạnh dạn khẳng định: "Thời xa vắng với độ dày hơn ba trăm trang chia làm ba phần. Bố cục của cuốn sách tương đối hợp lý, đặc biệt là phần một và phần hai viết khá thành công. Điều đáng bàn và cần bàn là ở phần kết của tác phẩm" [104, tr. 541]. Dù khen hay chê thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều phải công nhận "Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh
  6. giá lại hiện thực...Sự phản ánh chân thực, sinh động cái hoàn cảnh nhào nặn nên con người đó, sự nín chịu nhẫn nhục và vùng vẫy cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lý và hành động của anh ta đã được Lê Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh người đọc, gợi ra những liên tưởng có ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi người đang rất quan tâm...Thời xa vắng phản ánh khá sâu sắc một giai đoạn của tâm lý nông dân, giai đoạn vùng lên, hoà theo, nhập thân hoàn toàn vào đời sống của một xã hội mới" [104, tr. 588- 589]. Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự cuốn hút đặc biệt. Những nhân vật trong truyện vừa đáng thương vừa đáng giận. Những con người ấy hiện lên trên trang viết đầy bi kịch. Những bi kịch do xã hội mang lại và những bi kịch do chính họ tạo ra. Chúng ta vừa thương vừa giận Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi trong Sóng ở đáy sông và ngay cả sự tha hoá trong con người của Lưu Minh Hiếu trong Chuyện làng Cuội. Mỗi người đọc tuỳ thuộc vào những tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng mà có cách tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích khác nhau. Tác phẩm Lê Lựu ra đời lúc bấy giờ thực sự đã góp phần làm cho đời sống văn học Việt Nam thêm sôi động. Điều này được Lê Hồng Lâm nhận định: “Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó. Có cuốn nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm tư tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi … tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông.” [104, tr. 708]. Nhìn chung, qua các bài viết trên các báo và tạp chí, có thể nhận thấy tiểu thuyết Lê Lựu cả về nội dung và hình thức nghệ thuật thời kỳ đổi mới đã được giới nghiên cứu quan tâm, xem xét khá sâu sắc. Họ đã chỉ ra những cái hay, cái đẹp cũng như những sai sót, hạn chế của nhà văn thể hiện trên trang viết. Tuy nhiên các bài nghiên cứu hầu như tập trung xoay quanh tác phẩm Thời xa vắng hoặc là viết về từng tác phẩm cụ thể chứ chưa có một bài nào hay một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu một cách toàn diện về tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông. Với bài "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" (Văn nghệ tháng 12- 1986), người viết đã chỉ ra những bi kịch mà Sài phải gánh lấy không những do hoàn cảnh mang lại mà "mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về chính nhân cách của mình, cuộc đời mình".
  7. Qua một số bài nghiên cứu như: "Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Suy tư từ một " Thời xa vắng" của Nguyễn Hoà..., các tác giả lại chỉ ra một cách sâu sắc về sự mới mẻ của Lê Lựu. Đó chính là đặt ra vấn đề nhận thức lại một "thời xa vắng" - một thời "sống hộ", "yêu hộ". Đồng thời họ đều cùng không đồng tình với cách kết thúc truyện của nhà văn. Thiếu Mai cho rằng "Cuối cùng là phần kết. Đọc đến đây tôi cảm thấy tác giả mệt rồi, hụt hơi rồi. Thế nhưng dường như anh quá thương cảm cho số phận nhân vật của mình nên không nỡ để cho nó lơ lửng, mà phải tìm cho nó một hướng đi ổn định. Nhưng chính cái hướng đi này, theo sự suy nghĩ của đa số người đọc thì lại không ổn, không phù hợp với nhân vật Sài của anh" [104, tr. 584]. Trong bài "Đọc "Thời xa vắng" của Lê Lựu", Hoàng Ngọc Hiến lại nhìn thấy đề tài "người nhà quê và đô thị", thấy được "người nhà quê vĩ đại" qua anh cu Sài. Cùng chung cách đánh giá này có bài viết "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn Thu Hằng. Ở bài "Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay", Vương Trí Nhàn đã chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế về mặt nội dung và nghệ thuật của nhà văn. Qua "Lê Lựu - Thời xa vắng", Đinh Quang Tốn lại đi khá sâu về sự nghiệp và hoàn cảnh sáng tác. Còn trong bài "Lê Lựu - Chân dung văn học", Trần Đăng Khoa đi sâu hơn về nghệ thuật của Thời xa vắng. Bài viết "Tiểu Thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới" của Đỗ Hải Ninh cũng đã nêu ra được những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới, tuy nhiên tác giả lại không đi vào phân tích cụ thể. Chính vì vậy, qua công trình nghiên cứu "Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới", cụ thể là bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông, chúng tôi mong sẽ có một cái nhìn khái quát, toàn diện hơn để từ đó không chỉ làm rõ những đặc điểm về tiểu thuyết Lê Lựu mà đồng thời còn chỉ ra những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. 3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, từ việc lấy những đặc điểm tiểu thuyết làm cơ sở, chúng tôi tiến đến tìm hiểu những đặc điểm nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Và từ đó, chúng tôi hướng đến tìm hiểu những đặc điểm tiểu thuyết của Lê Lựu ở giai đoạn này. Dựa vào đặc
  8. điểm thể loại, dựa vào tác phẩm chúng tôi cố gắng chỉ ra những đặc điểm, những ưu thế riêng biệt, những chuyển biến về quan niệm con người, những trăn trở tìm tòi…trên những trang viết của tác giả. Do đó, luận văn sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm của ông mà chỉ dừng lại ở bộ ba tác phẩm thời kỳ đổi mới, đó là: Thời xa vắng (1984) Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995). 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1. Phương pháp lịch sử – xã hội Văn học là bức tranh sinh động nhất về đời sống hiện thực. Văn học nói chung và tiểu thuyết của Lê Lựu nói riêng mang hơi thở chung của thời đại. Chính vì vậy, không xem xét đến yếu tố hiện thực, đặc biệt đấy lại là nhiệm vụ do đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra thì không thể nào thấy được sự tất yếu phải thay đổi, phải chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn này. Sử dụng phương pháp lịch sử xã hội sẽ giúp cho việc lý giải những cơ sở thực tiễn và nguyên nhân sự chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm của Lê Lựu. 4.2. Phương pháp so sánh Văn học chịu sự chi phối trực tiếp và hết sức mạnh mẽ của hoàn cảnh xã hội. Sự chuyển biến đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra trên toàn xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) giúp chúng tôi có điều kiện so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật của Lê Lựu trong thời kỳ đổi mới cũng như những điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu thuyết của các tác giả cùng thời. 4.3. Phương pháp phân tích Muốn làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nội dung - nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không tìm hiểu, đào sâu tác phẩm. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân vật cũng như những tìm tòi trăn trở của nhà văn trên từng trang viết. 5. Những đóng góp của luận văn Qua những bài viết về Lê Lựu, chúng tôi thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được những đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp cũng như một vài điểm yếu trên từng trang viết của ông. Tuy nhiên chưa có một công trình nào mang tính tổng hợp về những đóng góp của Lê Lựu cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Do vậy, với công trình nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng nhìn nhận, xem xét, để khái quát những đặc điểm nghệ
  9. thuật tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông để từ đó khẳng định vị trí, vai trò của nhà văn trong sự vận động của nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 6. Cấu trúc luận văn MỞ ĐẦU: 1. Lý do chọn đề tài. 2. Lịch sử vấn đề. 3. Phạm vi nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu. 5. Những đóng góp của luận văn. 6. Cấu trúc luận văn. Chương 1: Lê Lựu và nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới. 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 1.2.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật. 1.2.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 1.3. Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu. 1.3.1. Quan điểm nghệ thuật. 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác. Chương 2: Sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông 2.1. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca. 2.1.1. Khái niệm cảm hứng - Cảm hứng bi kịch. 2.1.2. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới. 2.1.3. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca - những biểu hiện cụ thể trong bộ ba tiểu thuyết Thời xa vắng - Chuyện làng Cuội - Sóng ở đáy sông. 2.1.3.1. Bi kịch do hoàn cảnh. 2.1.3.2. Bi kịch trong bản thân mỗi cá nhân. 2.2. Sự nhận thức lại hiện thực trong "Thời xa vắng; Chuyện làng Cuội; Sóng ở đáy sông". 2.2.1. Nhận thức quan niệm duy ý chí.
  10. 2.2.2. Nhận thức chân thực những khía cạnh khác nhau của hiện thực trong xã hội lúc bấy giờ. 2.2.2.1. Nhận thức chân thực những hạn chế của đường lối chính sách. 2.2.2.2. Nhận thức thực trạng của sự bao che, cho qua. 2.2.2.3. Nhận thức chân thực về lối sống thực dụng, ích kỷ, sự biến chất tha hóa của con người trong xã hội hiện đại. 2.2.2.4. Nhận thức hiện thực ở nông thôn. Chương 3: Những nỗ lực hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu 3.1. Kết cấu truyện. 3.1.1. Thủ pháp đồng hiện. 3.1.2. Hiện tượng phân rã cốt truyện. 3.1.3. Tình huống truyện. 3.1.4. Kết thúc truyện. 3.2. Giọng điệu trần thuật. 3.2.1. Giọng điệu hài hước, trào tiếu. 3.2.2. Giọng triết lý, ngậm ngùi xót thương. 3.2.3. Giọng phê phán, lên án tố cáo. KẾT LUẬN. TÀI LIỆU THAM KHẢO. PHỤ LỤC. 1. Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng 2. Tóm tắt tiểu thuyết Sóng ở đáy sông 3. Tóm tắt tiểu thuyết Chuyện làng Cuội.
  11. Chương 1: LÊ LỰU VÀ NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới Dân tộc ta có truyền thống thơ ca, thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam trước đây chính là thơ ca. Đầu thế kỷ XX, nhất là giai đoạn 1930 –1945 với sáng tác của nhóm “Tự lực văn đoàn” và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nền tiểu thuyết mới thực sự hình thành và phát triển theo hướng hiện đại. Sau cách mạng tháng Tám 1945, phải đến những năm 50 tiểu thuyết mới tiếp tục phát triển. Chúng ta nhận thấy, nền văn học sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng được viết với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn theo yêu cầu của lịch sử. Cùng với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết giai đoạn này mang tính cổ vũ, động viên, tuyên truyền hướng tới mục tiêu cao cả nhất: tất cả cho chiến thắng. Và nó đã theo kịp bước tiến của cuộc kháng chiến, phản ánh được những tình cảm lớn của thời đại, những cái đẹp, cái mới, cái anh hùng cao cả. Do vậy, khám phá và khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng là một trong những yêu cầu của nền văn học Việt Nam. Cho nên, hình tượng nổi bật là hình tượng cả dân tộc ra trận. Bên cạnh đó, những bức tranh rộng lớn của cuộc kháng chiến được tái hiện hào hùng. Những nhân vật tích cực tiêu biểu cho cái đẹp, cao cả, anh hùng.....được trình bày với cảm hứng lãng mạn của thời đại được đặc tả hầu hết trên các trang viết. Hình ảnh con người được thể hiện chủ yếu là con người trong ý thức trách nhiệm với công dân, cộng đồng, lịch sử. Có thể thấy những thành tựu của nền văn học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết nói riêng rất đáng để cho chúng ta tự hào. Nền văn học ấy sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh nhưng lại không kém phần rực rỡ. Nó là sự kết tinh và phát huy cao độ của lòng yêu nước, của ý chí dũng cảm và tâm huyết. Tất cả những đặc điểm ấy chúng ta bắt gặp trên những trang tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Cửa biển của Nguyên Hồng, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu....
  12. Nhìn vào nền văn học lúc bấy giờ, chúng ta thấy: "Về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một nền văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa..."[17]. Mặc dù vậy, bên cạnh những thành công, tiểu thuyết giai đoạn này vẫn còn những hạn chế. Tuy nhiên, nhược điểm đồng thời là đặc điểm ấy được quy định bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội. Bởi vì văn học dù ở giai đoạn nào cũng phải phản ánh hiện thực cuộc sống, mà hiện thực xã hội chủ yếu lúc bấy giờ chính là chiến tranh. Do yêu cầu của thời đại cách mạng, văn học phải phản ánh kịp thời, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng toàn dân, hướng tới miêu tả cái đẹp, cái cao cả...Lúc bấy giờ, cả nước lên đường đánh giặc, cả nước làm văn nghệ theo đường lối "kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến" .Với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, văn học giai đoạn ấy đã xây dựng những hình tượng sáng ngời chưa từng có trong lịch sử dân tộc "chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau" như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Gạt ra ngoài những gì thuộc về riêng tư không có lợi cho cộng đồng, tiểu thuyết giai đoạn này qủa đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của "một nền văn học chống đế quốc". Những sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, Anh Đức, Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu... đã tạo nên những hình tượng đẹp, có chiều sâu về: bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, phụ lão... Văn học phản ánh đủ mọi tầng lớp nhân dân và miêu tả phẩm chất cơ bản của con người lúc bấy giờ là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Phong cách phản ánh hiện thực ấy đã ghi nhận những nét đẹp rực rỡ của đất nước và con người Việt Nam trong khói lửa. Theo Trần Đình Sử trong "Mấy vấn đề quan niệm của văn học Việt Nam thế kỷ XX" thì "Đấy không phải là vẻ đẹp cổ xưa hay ước lệ của thơ văn cổ, không phải cái đẹp đìu hiu, vắng vẻ lạnh lùng cô đơn như Thơ mới, hay dáng vẻ khổ sở, tủi nhục trong văn học hiện thực phê phán trước năm 1945, mà là vẻ đẹp hào sảng, khoẻ khoắn, thô ráp của con người "rũ bùn đứng dậy sáng loà". Do đó, sự hy sinh và cái chết càng làm cho họ hoá thân vào cộng đồng bất tử, khiến nỗi đau vút lên hoá thành sự hy sinh cao cả. Như vậy, cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết thời kỳ này là cảm hứng lãng mạn cách mạng. Gạt ra ngoài những vướng bận đời thường, những nỗi buồn cá nhân, vượt lên trên những hy sinh mất mát, văn xuôi giai đoạn này phản ánh khí thế hào hùng, niềm hân hoan sảng khoái, những chiến công hiển hách vang dội...hướng con người về phía ánh sáng và tương lai. Có thể nhận thấy, do hoàn cảnh chiến tranh chi phối nên hiện thực và con người phản ánh trong tác phẩm chưa được đặt trong mối quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều. Con
  13. người chưa được đặt trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội mà chỉ được thể hiện trong ý thức trách nhiệm công dân, cộng đồng, lịch sử. Đó không phải là con người đời thường cá nhân. Bởi tình cảm riêng tư của họ đã hoà vào tình cảm chung. Ngay cả ý thức cá nhân của chủ thể sáng tạo cũng thường "bị tan biến vào ý thức cộng đồng". Đồng thời, với nhu cầu tuyên truyền cổ động chính trị, văn học không thể đề cập đến những tổn thất mất mát, những tiêu cực của xã hội và con người. Bức tranh đời sống tinh thần của con người do vậy có phần phiến diện. Hơn thế nữa, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn hoàn toàn chi phối về mặt đề tài và chủ đề của tác phẩm nên hạn chế sự sáng tạo của người cầm bút. Hạn chế về tính nhân văn là điều không thể tránh khỏi. Đó là những cái "chưa được làm" mà văn học giai đoạn sau sẽ bổ khuyết. 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới 1.2.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thống nhất, độc lập, tự do. Thắng lợi to lớn nhưng thách thức cũng hết sức nặng nề. Sức người, sức của phải dồn vào việc khôi phục cuộc sống sau chiến tranh. Cả đất nước đứng trước một yêu cầu sống còn: phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường. Trước thực tế ấy, Đảng đã khởi xướng đổi mới từ năm 1985 và xác định công cuộc đổi mới một cách toàn diện trong đại hội lần thứ VI (1986). Về văn học nghệ thuật, nghị quyết 05 của Bộ chính trị nhấn mạnh: “…Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các nền văn hoá ngày càng mở rộng……..văn nghệ nước ta cũng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ cách làm” . "Phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật phát triển lên một bước mới" [19]. Như vậy, đổi mới trở thành một quy luật tất yếu. Từ việc đổi mới kinh tế sẽ kéo theo đổi mới cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực. Đổi mới toàn diện trước hết là đổi mới tư duy, trong đó văn học nghệ thuật là một hoạt động tư duy sắc bén nhất. Vì vậy, văn học đã được đặt lên hàng đầu ở công cuộc đổi mới này. Từ yêu cầu thực tiễn, Đảng xác định sứ mệnh của văn học nghệ thuật giờ đây không phải là cổ vũ, động viên, ca ngợi mà xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống con người. Cho nên "Tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính" [123, tr.88] được thể hiện đậm nét trên nhiều trang viết. Đảng yêu cầu tác phẩm văn học phải:
  14. "Phản ánh các nhân tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ "[150, tr.112]. Với chủ trương mới ấy, văn học nghệ thuật đã được trả lại bản chất vốn có trong việc khám phá và thể hiện cuộc sống. Để có sự đổi mới thực sự, Đảng hết sức khuyến khích giới văn nghệ sỹ hãy tìm tòi sáng tạo và có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện. Bởi vì tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sỹ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự đổi mới diện mạo văn học giai đoạn này. Hơn nữa, tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hoá, nghệ thuật. Như vậy, các nghị quyết và chỉ thị trong Đại hội lần thứ VI (1986) đã chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của Đảng dành cho đời sống tinh thần của con người, mà cụ thể ở đây là văn học nghệ thuật. 1.2.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới Nền văn học 30 năm chiến tranh đáp ứng yêu cầu "phản ánh chân thực và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới" hay "phản ánh hiện thực trong xu thế phát triển cách mạng của nó". Thực tiễn cuộc sống mới đòi hỏi văn học nghệ thuật phải thay đổi. Giờ đây văn học nghệ thuật không còn được hiểu đơn giản là công cụ chính trị hay vũ khí công tác tư tưởng, hoặc phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng mà là "một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng văn hoá". Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị dành riêng cho văn nghệ trong giai đoạn ấy đã mở ra một hướng đi mới cho văn học. Nhà văn hiểu rõ đặc trưng của văn chương và sứ mệnh của mình đối với cuộc sống. Những sáng tác của họ không nhằm minh hoạ các khẩu hiệu hay cổ vũ cho các phong trào, giúp thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước mà "tập trung miêu tả số phận con người, mang đến cho con người cái đẹp, tình yêu cuộc sống cũng như sự từng trải, làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân, đồng thời phải nghiên cứu những vấn đề của xã hội đang diễn ra hay đi lùi vào quá khứ, từ đó rút ra bài học, những tư tưởng mang tính khái quát, không chỉ quan trọng về triết học, đạo đức, nhân sinh mà còn có thể mang ý nghĩa chính trị lớn lao" [150, tr.18]. Nhìn nhận về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực lúc bấy giờ, các nhà nghiên cứu đã đánh giá sâu sắc "yêu cầu văn học trong điều kiện lịch sử mới phải giúp vào sự hoàn thiện bức tranh hiện thực còn trong dạng phác thảo của một thời đã qua, sao cho chân thực
  15. hơn, được soi tỏ dưới nhiều góc cạnh hơn [96, tr.106]. Giờ đây, với yêu cầu mới khiến cho nhiệm vụ của văn học thay đổi, nó không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn thể hiện thế giới chủ quan. Nhận định về văn xuôi trong khoảng mười năm, Hoàng Ngọc Hiến trong bài "Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo" cho rằng "Trong sáng tác văn học, cái nhìn mâu thuẫn trong hiện thực đời sống hết sức quan trọng. Những biến đổi sâu sắc trong văn xuôi của ta khoảng mười lăm năm nay bắt nguồn từ sự thay đổi trong cách nhìn những mâu thuẫn trong đời sống xã hội"[96, tr.239]. Vấn đề bản chất văn học cũng được Lê Ngọc Trà đặt ra trong một loạt bài nghiên cứu của mình. Ông nhận định: "Tác phẩm văn học là tiếng nói của những ấn tượng, những suy nghĩ vừa như xác định vừa như chưa xác định, vừa như trọn vẹn lại vừa như chưa trọn vẹn, vừa như có ý giới hạn lại vừa như miên man, vô bờ bến. Đó là những cảm giác mang tính hình tượng..... Văn học chính là nỗi buồn về cái đẹp, về lý tưởng, là nỗi đau giằng xé về số phận con người, là sự cắn rứt lương tri không yên, là cuộc đấu tranh nội tâm..." [154]. Nhận thức hiện thực trong trạng thái đời thường, cảm nhận và phản ánh sự thật về hiện thực, đó là biểu hiện của đổi mới văn học. Trong "Văn học trên con đường đổi mới" Nguyễn Văn Hạnh đã khẳng định "Tư tưởng quan trọng bậc nhất mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã trang bị cho nhận thức xã hội trong thời kỳ đổi mới, cũng là tư tưởng đã tạo nên bước ngoặt thật sự trong tư duy nghệ thuật mấy năm qua, chính là tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật tiến bộ" [59]. Có thể nói, tất cả những điều này được nhìn nhận khá chính xác và chúng tôi tâm đắc với ý kiến "Những nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, thiết tha với công cuộc đổi mới do Đảng đề ra đã nhìn thấy phải bắt đầu quá trình đổi mới văn học đúng ngay từ chỗ phải bắt đầu nói sự thật. Mà người đọc từng trải, thông minh chân tình của chúng ta cũng hiểu như vậy. Họ chú ý đến tác phẩm mới, hoan nghênh nhà văn trước hết ở sự trung thực, ở lời nói thật. Cái nhìn mới mẻ, trước hết bắt nguồn từ thái độ trung thực và tinh thần trách nhiệm đối với cuộc sống, từ niềm tin vào chính nghĩa và sức mạnh của cách mạng, do đó mà có đủ ý thức và dũng cảm để nói lên sự thật, dù đó là một sự thật không đơn giản, thậm chí phũ phàng” [153, tr.88-89]. Nhận định về tiểu thuyết trong thời đại mới, Cao Tiến Lê đã khái quát "Tiểu thuyết của ta mấy năm gần đây đã khởi sắc, nhất là những năm 1988, 1989, 1990, có đổi mới, tự do hơn, nêu được nhiều vấn đề...Văn học đã đi vào đời thường. Mỗi một con người đều bình
  16. đẳng trước cái nhìn của nhà văn. Tất cả mọi người trước nhà văn đều là nhân vật, nhà văn coi trọng ở chỗ số phận của họ đóng góp được gì cho văn học."[98]. Cùng chung mối quan tâm về văn học, năm 1989 trong bài Vấn đề định hướng của văn học trong tình hình hiện nay, Trần Hữu Tá tinh tế khi chỉ ra những hạn chế, những sai lầm, non yếu trong sáng tác nhưng cũng rất khách quan. Tác giả khảng định " ít thấy lúc nào tiểu thuyết phát triển mạnh như mấy năm gần đây" (cuối những năm 80, đầu những năm 90), "sự lao động nghệ thuật nghiêm túc theo phương hướng đổi mới sáng tạo ở một số cây bút là không thể phủ nhận". Tác giả đã khẳng định những nét đổi mới của tiểu thuyết trong việc bám sát cuộc sống hôm nay, nhất là quan tâm đến những vấn đề tâm lý xã hội của đời thường (quyền sống và số phận con người, những mối quan hệ nghĩa tình nhân bản, bi kịch cá nhân, sự suy thoái của đạo đức truyền thống...). Hơn thế nữa, tác giả còn nhận xét về cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết thời kỳ này "cảm hứng phê phán trong những tác phẩm này rào rạt, mạnh mẽ hơn giai đoạn trước, tạo được những tác động mạnh đến tâm trạng xã hội"[137]. Như vậy, với công cuộc đổi mới trên toàn xã hội, văn xuôi đang chuyển mình một cách mạnh mẽ. Giờ đây nó "không xuôi chiều kiểu êm dầm mát mái nữa" mà mạnh dạn "phanh phui các mặt trái của xã hội, các uẩn khúc hoặc tráo trở của lòng người". Đến với những tác phẩm giai đoạn này, người đọc tìm thấy mọi cung bậc của tình cảm: từ buồn bã, cô đơn cho đến công phẫn, xót xa. Văn học giai đoạn này đã làm một cuộc "cách mạng" thực sự. Nó giàu chất thực hơn, miêu tả cuộc sống trần trụi và mạnh dạn phơi bày sự băng hoại đạo đức nếu thấy cần thiết. Giờ đây, yêu cầu tái hiện lịch sử phải đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, phải đặt lại mọi vấn đề, suy nghĩ lại mọi niềm tin và có thể vượt qua mọi cấm đoán kiêng kỵ. Điều này được Phan Cư Đệ ghi nhận định trong công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sữ và lý luận (2005): "Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình, như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã qua...Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện" [44, tr 152- 153]. Cho nên tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, quả đã ghi nhận những diễn biến tinh vi nhất về cuộc sống mới đa dạng và phức tạp. Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng nhận thức trở lại chính bản thân nó. Nhận thức về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Nhận thức mối quan hệ giữa văn học với chính trị. Yêu cầu mới đòi hỏi văn học phải trả
  17. lời được những câu hỏi như: Mối quan hệ giữa Văn học và cuộc sống. Nghệ sỹ anh là ai? Bản chất của văn học là gì? Văn học nghệ thuật trong thời đại mới trở về với thiên chức vốn có của mình là "món ăn tinh thần" đặc sắc nhất mà không một ngành nghệ thuật nào có thể thay thế được. Văn học mang sứ mệnh to lớn như vậy nên người nghệ sỹ cũng xác định nhiệm vụ của mình trong nghệ thuật phải sáng tạo, phải thể nghiệm mình. Điều này từng được Nam Cao khẳng định qua lời nhân vật Hộ, "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Điều này một lần nữa được Thạch Lam khẳng định trong tác phẩm của mình:"...là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực...làm cho lòng người trong sạch và phong phú". Sau chiến tranh, khi tư duy nghệ thuật thay đổi, văn học không chỉ nhìn lại quá khứ bằng việc miêu tả hiện thực đời sống chiến tranh hay trở lại những vấn đề lịch sử dưới một cái nhìn mới mà quan trọng hơn là đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê. Cuộc sống được phản ánh vào tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con người thời hậu chiến. Đấy là cuộc sống đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa bận rộn nhưng cũng không kém phần sôi động quyết liệt. Đặc biệt “con người” trở thành một đối tượng thực sự trong văn học, một thế giới đầy bí ẩn và là đối tượng khám phá không cùng của văn học. Con người với đầy đủ các “phẩm chất” và “thuộc tính”, “bản năng” và “ý thức”, “thấp hèn” và “cao thượng”, “phần con” và “phần người”…… Từ con người tập thể sang con người đời thường với tất cả tính chất mâu thuẫn phức tạp, con người anh hùng và con người bi kịch.…Một quan niệm mới về con người được hình thành, đấy là con người cá nhân, con người chịu trách nhiệm trước mọi quyết định của chính bản thân mình. Con người ấy không còn "nguyên phiến sử thi" - chữ dùng của Trần Đình Sử - mà hiện lên với nhiều mâu thuẫn. Những mặt trái của đời sống được phơi bày cụ thể. Sự tha hoá về nhân cách, những số phận bi kịch, những tâm trạng lo âu, khắc khoải đựơc đặc tả. Giọng điệu mỉa mai, phê phán tự vấn thay thế giọng điệu ngợi ca, ru vỗ ngọt ngào êm ái. Con người được hình dung nhiều mặt. Không chỉ có ý chí, tư tưởng, tình cảm mà còn được khắc hoạ ở các phương diện bản năng vô thức, tâm linh nghịch lý. Anh sáng lý tưởng với những hào quang giờ đây nhạt dần. Những ngươi chiến sĩ, những anh hùng không còn vị trí trung tâm mà được thay thế bởi những con người đời thường, có khi la tầm thường nữa. Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
  18. phải nhường chỗ cho cảm hứng thế sự đời tư với những trăn trở tìm tòi. Nhiệt tình ca ngợi, khẳng định được thay thế bằng sự phê phán. Điều này thể hiện hầu như trong các tác phẩm có giá trị lúc bấy giờ:Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường... Có thể nhận thấy trên các trang tiểu thuyết của văn học giai đoạn này, những mặt trái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống mà trước đây bị lờ đi, bị gác lại thì nay đã được các ngòi bút văn xuôi với thế mạnh riêng, lật xới lại hầu hết mọi vấn đề. Những nhân vật xấu trước đây chỉ được miêu tả như những thiếu sót, những khuyết điểm có thể sửa chữa được, còn về cơ bản vẫn là người tốt thì nay hoàn toàn khác. Những kẻ xấu là những kẻ mang bộ mặt đạo đức giả. Chúng lợi dụng danh nghĩa Đảng - cách mạng để trục lợi, để thoả mãn ham muốn quyền lực cá nhân. Chúng trù dập người khác nhằm nâng cao uy tín của bản thân, của gia đình và dòng họ mình. Phong Lê qủa là sắc sảo khi cho rằng :"Tiểu thuyết thời kỳ này không ngần ngại "vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ" nhưng đem lại hiệu qủa "thanh lọc, tẩy rửa" [97, tr.130]. Tìm hiểu những trang tiểu thuyết hôm nay, người đọc bắt gặp những số phận riêng với những bi kịch rất đời thường của con người trong xã hội mới. Thực ra, đây không phải là điều mới mẻ gì, không phải là lần đầu tiên xuất hiện, bởi xu thế này đã có trên những trang văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945. Tuy nhiên, với thời gian không phải là quá ngắn của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm buộc văn học phải quan tâm đến cái chung còn những vấn đề cá nhân đời thường, số phận riêng mỗi con người phải tạm gác sang một bên. Giờ đây, khi chiến tranh kết thúc, cảm hứng đời tư thế sự với những trăn trở tìm tòi được thể hiện đậm nét trên những trang tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Sao đổi ngôi của Chu Văn, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân...Và không chỉ tiểu thuyết mà trong những truyện ngắn, cảm hứng thế sự cũng được khai thác mạnh mẽ. Cỏ lau, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... cũng như của các nhà văn nhà thơ khác đều là những khám phá mới mẻ về cuộc đời con người. Dưới ngòi bút chính luận Nguyễn Khải, con người hiện lên sắc sảo với cách ứng xử thấu đáo và những suy nghĩ sâu sắc. Trong thế giới nghệ thuật Ma Văn Kháng, con người được soi chiếu cả ở phần thể chất lẫn tâm hồn nên vừa nồng nàn trong niềm khát khao được giao cảm lại vừa bận rộn với những tính toán trong cuộc mưu sinh. Ngòi bút nhà văn dường như luồn thật sâu vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn con người để lần tìm những rung động dù rất nhỏ. Cuộc sống thường nhật
  19. cũng như đời sống tâm hồn được miêu tả chân thực hơn. Ở đấy không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có đau đớn, tủi nhục, bất hạnh. Cuộc sống con người hiện lên trên trang viết hôm nay thật phong phú đa dạng. Các nhà văn đã tiếp cận con người từ nhiều chiều và thể hiện những cảm nhận về con người bằng nhiều cách khác nhau. Chiến tranh đã kết thúc nhưng những dư âm của cuộc chiến vẫn còn. Giờ đây, chiến tranh được tái hiện trên nhiều bình diện nhưng đằm lại và sâu lắng hơn. Hình tượng người chiến sỹ gần hơn với cuộc sống đời thường. Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật, văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng giai đoạn này đã thực sự mở rộng đường biên trong việc phản ánh vì nó được viết dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn. Văn học đã thực sự được cởi trói, cho nên chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò ép, không bị giới hạn. Văn học đã tìm về với "con người đời thường", "con người cá nhân" nhưng vẫn "mới", vẫn không dẫm chân lên lối cũ "mà đầy sáng tạo" trong sự vận động không ngừng của cuộc sống mới. Văn học được trả lại “thiên chức” của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh trong mỗi tác phẩm, trong từng tác giả. 1.3. Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu 1.3.1. Quan điểm nghệ thuật Tác phẩm chính là nơi nhà văn thể hiện quan điểm sáng tác của mình. Và Lê Lựu cũng không phải là một ngoại lệ. Trên những trang viết, ông đã thể hiện khéo léo quan điểm nghệ thuật ấy. Không phải thông qua bất cứ nhân vật nào trong tác phẩm mà nó được gói gọn trong lời phát biểu của chính tác giả: “Tôi là người ít học, ít đọc vì lười nghĩ ngợi. Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là sự thật. Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người kể chuyện, có gì viết nấy”[104, tr.501]. Trong một lần “Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm”, ông tiếp tục khẳng định với bạn đọc: “Tôi nghĩ, văn chương phải đối thoại được với cuộc sống, viết thật lòng không nói dối – nhờ cái thật mà đối thoại được với cuộc đời và người đang sống”[104, tr. 547]. Như vậy chúng ta nên hiểu "sự thật" đó như thế nào? Cái thật trong văn học, theo quan niệm của Lê Lựu, nó bắt nguồn từ cái thật trong cuộc sống mà cuộc sống thời bấy giờ có nhiều sự đổi thay to lớn. Người đọc thích nhìn thẳng vào sự thật, nói thật và làm thật. Qua văn chương, người đọc muốn hiểu thời đại lúc bấy giờ ra sao, muốn nhận thức
  20. đúng thực chất các mối quan hệ xã hội của con người trong một xã hội đầy biến động. Ông ý thức rằng, văn học không thể tách rời hiện thực mà phải bám sát hiện thực. Vậy là đã rõ, “sự thật” chính là nguyên tắc của Lê Lựu trong việc xây dựng tác phẩm, “Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật”. Đấy là lời thổ lộ chân thành nhất của người cầm bút. Và điều này không phải là lời nói suông mà hầu hết trên tất cả những trang viết, sự thật hiện lên như nó vốn có. Không một chút màu mè! Không một chút tô vẽ! Trên hành trình kiếm tìm sự thật ấy, nhà văn đã mạnh dạn phơi bày tất cả những gì đang diễn ra, những gì trước nay bị che dấu, bị lờ đi. Vì vậy, sự thật về đời sống, về con người hiện lên rõ nét hơn trong tác phẩm của ông. Là một người nông dân mặc áo lính, Lê Lựu luôn luôn nghĩ về quê hương, ông chú ý đến tất cả mọi điều liên quan đến người nông dân. Nông thôn và người nông dân là mảng đề tài bất tận mà ông khai phá. Cho nên, viết về đề tài gì đi chăng nữa thì hình ảnh làng quê với những nhân vật "người nhà quê" vẫn hiển hiện trên từng trang viết. Theo nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn “Đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có nhiều người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn cả”[104, tr.663]. Hơn thế nữa, Lê Lựu đi nhiều, biết nhiều, vốn sống của ông căng tràn. Bản thân là một người lính nên ông rất dễ hoà đồng với họ. Ông hiểu tâm tư tình cảm của họ một cách tự nhiên. Họ chính là ông mà ông cũng chính là họ. Ông đã viết những gì mình biết, mình hiểu một cách sâu sắc và tất cả những điều ấy đều xuất phát từ quan niệm nghệ thuật "tôn trọng sự thật". Do vậy, khi nghiên cứu tác phẩm, chúng ta không thể không đề cập đến quan điểm nghệ thuật của nhà văn. 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác Lê Lựu sinh vào ngày 12/12/1942 tại một làng ngoài đê sông Hồng, thôn Mẫn Hoà, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên trong một gia đình nông dân bình thường như bao gia đình nông dân tại vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Làng quê mà ông sinh ra và lớn lên là một vùng quê nghèo đói, một vùng chiêm trũng ngập lụt. Ông lớn lên giữa lúc miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Người nông dân bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới, người cày có ruộng. Ông rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ đầu những năm sáu mươi. Chính sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước cộng với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ đã thôi thúc nhà văn cầm bút ghi lại tất cả những chuyển biến đó. Lúc đầu, ông làm báo ở
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2