intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tiểu thuyết về chiến tranh việt nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học (Qua Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Thời xa vắng của Lê Lựu)

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

80
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung tìm hiểu những đổi mới của tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học. Qua đó thấy được những đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn này so với tiểu thuyết thời chiến trên một số phương diện như: nghệ thuật tổ chức cốt truyện, kết cấu, người kể chuyện, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu… Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Tiểu thuyết về chiến tranh việt nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học (Qua Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Thời xa vắng của Lê Lựu)

  1. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ VUI TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM SAU 1975 DƯỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC( QUA ĂN MÀY DĨ VẢNG CUA CHU LAI, NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH VÀ THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội – 2013 Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 1
  2. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ VUI TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM SAU 1975 DƯỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC( QUA ĂN MÀY DĨ VẢNG CUA CHU LAI, NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH VÀ THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU) Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Văn Đức Hà Nội – 2013 Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 2
  3. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… Mục Lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5 1. Lí do chọn đề tài: ............................................................................................... 5 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 16 3.1. Mục đích, nhiệm vụ...................................................................................... 16 3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 16 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 16 4.1. Phương pháp hệ thống ................................................................................ 16 4.2. Phương pháp phân tích ............................................................................... 17 4.3. Phương pháp thống kê................................................................................. 17 4.4. Phương pháp nghiên cứu so sánh .............................................................. 17 5. Kết cấu của luận văn....................................................................................... 17 Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ...................................................................................... 17 1.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 .... 19 1.1.1. Khái lược về người kể chuyện .................................................................... 19 1.1.2. Sự đa dạng về người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 21 1.2. Điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............... 32 1.2.1. Khái lược về điểm nhìn .............................................................................. 32 1.2.2. Sự dịch chuyển điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ...................................................................................................................... 34 Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975............................................................................ 40 2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 40 2.1.1. Khái lược về cốt truyện .............................................................................. 40 Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 3
  4. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… 2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 .................... 55 2.2.1. Khái lược về kết cấu ................................................................................... 55 2.2.2. Kết cấu truyền thống và sự phá vỡ kết cấu truyền thống trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ....................................................................... 60 2.2.2.1. Kiểu kết cấu dòng ý thức ......................................................................... 61 2.2.2.2. Kiểu kết cấu lồng ghép, phân mảnh ....................................................... 69 2.2.2.3. Kết cấu truyền thống ............................................................................... 74 Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 ...................................................................................... 76 3.1. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ................ 76 3.1.1. Khái lược về ngôn ngữ ............................................................................... 76 3.1.2. Tính phong phú đa dạng của ngôn ngữ tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................... 78 3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 197587 3.2.1. Khái lược về giọng điệu ............................................................................. 87 3.2.2. Giọng điệu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ............... 89 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 99 Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 4
  5. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Đối với một dân tộc ngay từ thuở hồng hoang dựng nước và giữ nước đã luôn phải đương đầu với các cuộc chinh phạt của ngoại bang thì việc văn học đặc biệt lưu tâm tới đề tài chiến tranh cũng là điều dễ hiểu. Hiện thực đấu tranh chống ngoại xâm đã trở thành đối tượng khám phá và phản ánh của văn học như một tất yếu. Cuộc kháng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ suốt 30 năm của cả dân tộc, đã trở thành mảng hiện thực phong phú, có sức hấp dẫn không ít người cầm bút. Họ viết về chiến tranh ngay khi cuộc chiến còn đang diễn ra, họ viết về chiến tranh cả khi tiếng súng đã lắng lại và vòng nguyệt quế đã được đặt trên đầu người chiến thắng. Có thể nói, trong sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam, mảng văn học về đề tài chiến tranh với nhiều thể loại: thơ ca, truyện ngắn, truyện vừa, kịch, kí, tiểu thuyết chiếm vị trí rất quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết dường như đã phát huy được lợi thế về dung lượng khi tiếp cận mảng hiện thực trải dàn trên một không gian rộng lớn kéo dài từ Bắc tới Nam, từ cao nguyên tới đồng bằng, gắn với khoảng thời gian 30 năm không hề ngắn ngủi. Trước 1975 phải kể đến Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Hòn đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai)… Sau 1975 các tiểu thuyết viết về chiến tranh vẫn tiếp tục ra mắt công chúng: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nắng đồng bằng, Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Chuyện làng Cuội, Thời xa vắng (Lê Lựu). Ở những tiểu thuyết này, chiến tranh dù được đề cập đến trực tiếp hay gián tiếp thì vẫn hướng tới mục đích tái hiện một Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 5
  6. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… thời kì lịch sử đầy sóng gió của dân tộc trong một cái nhìn mới từ cuộc sống hiện tại sau ngày giải phóng. Người viết luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết viết về chiến tranh trước hết bởi đề tài chiến tranh là một đề tài lớn, đầy sức hấp dẫn của văn học nước nhà và tiểu thuyết là một thể loại đạt khá nhiều thành công khi khai thác mảng đề tài này. Chọn đề tài "Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 – dưới góc nhìn tự sự học", người viết xuất phát từ một thực tế rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã có nhiều phương diện đổi mới so với tiểu thuyết trước 1975 mà trong đó sự thay đổi về nghệ thuật tự sự là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trước 1975, chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca, bởi vậy tiểu thuyết thời kì này mang hơi thở của những bản hùng ca hào sảng, tự tin, đầy khí thế. Điều này cũng dễ hiểu khi văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Vả chăng cái xôn xao, náo nức hào hùng đó cũng là là tâm lí chung của cả cộng đồng "những buổi vui sao cả nước lên đường" (Chính Hữu). Sau 1975, khi văn chương đã trút bỏ vai trò chính trị, trở lại với bản chất nghệ thuật đích thực của mình và nhà văn có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực thì hứng thú viết về chiến tranh có sự vận động, biến đổi. Trước đây, chúng ta nói nhiều đến chiến thắng, niềm vui, thì bây giờ, trong các trang viết sau ngày giải phóng, những mất mát đau thương vốn dĩ rất thường tình của chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó. Sự vận động của cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975 đã đem lại cho tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kì này nói chung một diện mạo mới. Khảo sát tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy phần lớn các sáng tác có sự gặp gỡ chung là hứng thú viết về nỗi buồn, về sự mất mát, éo le. Chiến tranh không còn được nhìn bằng cái nhìn ngợi ca Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 6
  7. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… lãng mạn mà thay vào đó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực bắt đầu được bày lên trang viết của các cây bút sau 1975. Tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh sau 1975 đã đứng trước nhu cầu đổi mới tư duy tiểu thuyết. Điều này chứng tỏ sự nghiêm khắc trong sáng tạo và tâm huyết với thể loại của các tiểu thuyết gia đương đại. Trên phương diện đề tài, tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng ngày, cái đời thường của đời sống cá nhân. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo bạo. Các đề tài truyền thống hay hiện đại đều được đưa vào trường nhìn mới, hướng tới những gấp khúc trong đường đời và thân phận con người, thấm đẫm cảm hứng nhân văn. Nhìn từ góc độ thể loại, trong những năm đổi mới, tiểu thuyết đã có những tìm tòi, cách tân thể hiện nhiều phương diện, trong đó có nghệ thuật trần thuật. Trong rất nhiều tác phẩm thì Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thời xa vắng của Lê Lựu có thể coi là những tác phẩm tiêu biểu. 2. Lịch sử vấn đề Văn học thời hậu chiến, đặc biệt là văn học viết về chiến tranh mang một hơi thở mới vừa lạ lẫm nhưng cũng rất đỗi quen thuộc. Quen bởi đó là những đứa con tinh thần của những con người đi ra từ chiến trường, bởi đó là chiến tranh, cái đã chi phối văn học suốt mấy chục năm trời. Còn lạ bởi vì, dù viết về chiến tranh nhưng văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng được nhìn nhận ở một khía cạnh hoàn toàn mới và cái khía cạnh mới ấy lại được biểu hiện ở những phương diện cũng mới. Chiến tranh được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là mặt trái của chiến tranh bên cạnh việc miêu tả và thể hiện tới số phận con người. Có lẽ vì những lẽ đó mà tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 nói riêng, tiểu thuyết sau 1975 nói chung là đối tượng Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 7
  8. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… của nhiều bài báo, công trình khoa học. Từ sau năm 1975, với những thay đổi trong tư duy văn học và việc tiếp nhận nhiều lý thuyết nghiên cứu hiện đại, tình hình nghiên cứu văn xuôi đã có nhiều thành tựu quan trọng. Trong số những thành tựu ấy phải kể đến những công trình tập thể và những sách chuyên luận như: Văn học Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn chủ biên, 2006, Nxb GD, Hà Nội); 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám do Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du và Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức (1996), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX của Viện Văn học (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Phan Cự Đệ chủ biên, 2005)..v.v. đã có những đánh giá tổng kết về bức tranh chung của Văn học Việt Nam sau 1975. Công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn đề lịch sử và lý luận (2005) của các nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học như Phan Cự Đệ, Mã Giang Lân, Trần Đình Sử .v.v. đã tổng kết Văn học Việt Nam thế kỉ XX dưới ánh sáng của loại hình học, thi pháp học và văn học so sánh. Bên cạnh những công trình nghiên cứu về văn học nói chung phải kể đến những công trình, các sách chuyên khảo, chuyên luận viết về tiểu thuyết Việt Nam nói riêng như: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của tác giả Phan Cự Đệ là công trình dày dặn chuyên biệt về vấn đề lý luận tiểu thuyết. Với công trình này, người viết đã có một sự tổng quát toàn diện về quá trình hình thành, phát triển của Văn học Việt Nam hiện đại trên cơ sở các khuynh hướng tiểu thuyết, vấn đề điển hình hóa, vấn đề thể loại, lao động của người cầm bút trong tiểu thuyết. Trên tinh thần thay đổi cách tư duy và phương pháp tiếp cận thể loại, Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002) gồm nhiều bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình đã đánh giá thực trạng, sự cấp thiết cần đổi mới của tiểu thuyết. Ngoài ra phải kể đến những công trình Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 8
  9. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… chuyên sâu nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 như luận án tiến sĩ Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 – khảo sát trên nét lớn của tác giả Nguyễn Thị Bình, luận án tiến sĩ Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn (1986 – 2006) của tác giả Mai Hải Oanh đề cập tới những biến đổi lớn trong tiến trình đổi mới của văn xuôi, tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Đặc biệt chúng tôi quan tâm tới những bài nghiên cứu về sự phát triển của tiểu thuyết từ 1975 đến nay của các tác giả: Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Nguyễn Thị Bình, Lại Nguyên Ân, Bích Thu, Vương Trí Nhàn, Phạm Xuân Nguyên, Phạm Xuân Thạch, Tôn Phương Lan, .v.v. Các tác giả đều thống nhất ở việc nhìn nhận tiểu thuyết là một thể loại năng động. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại ngày càng tăng cường yếu tố đa thanh, tính dân chủ và tính đối thoại. Cùng với việc tìm hiểu những công trình nghiên cứu, những bài viết về tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, chúng tôi tập trung khảo sát những bài viết, nhận định về ba tác phẩm Thời xa vắng, Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng. Nhận xét về nghệ thuật trần thuật trong Thời xa vắng của Lê Lựu, La Khắc Hòa quan tâm đến người trần thuật : “Người trần thuật kể lại câu chuyện về cuộc đời Giang Minh Sài không phải là để người đọc có dịp được suy ngẫm, mà là để nó được nói thật to những điều hình như nó đã ngẫm nghĩ xong xuôi. Cho nên chỗ nào nó cũng lắm lời, lời kể của nó đã lùa thùa, dài dòng mà cái luận đề thì lộ rất rõ. Đã thế tác phẩm lại cố gò để kết thúc có hậu {…}. Nguyên tắc trần thuật sử thi cũng để lại dấu ấn ở mối quan hệ giữa người kể chuyện và người đọc trong Thời xa vắng. Nhưng đặt bên cạnh những tác phẩm cùng thời, tiểu thuyết của Lê Lựu đúng là bước ngoặt của tiến trình đổi mới văn xuôi nghệ thuật” [67] . Ngô Thảo cũng thừa nhận sự tìm tòi sáng tạo lời văn trần thuật của Lê Lựu là một công việc cần được Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 9
  10. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… khích lệ: “Cũng sẽ buồn cười và lố bịch nữa khi khuyên Lê Lựu chọn cách viết chân mộc cổ điển. Chỉ có thể nghĩ là anh hiểu biết đầy đủ đối tượng khi điều anh muốn nói là tâm đắc, sáng tỏ thì anh sẽ có được cách thể hiện thích hợp, dù hoa mỹ bay bướm một chút hay mộc mạc thật thà cũng không quan trọng gì” [67] . Nhiều nhà nghiên cứu thống nhất ý kiến rằng Thời xa vắng là câu chuyện về cuộc đời Giang Minh Sài nhưng mở ra rất nhiều vấn đề, tạo nên tính nhiều tầng bậc cho câu chuyện. Người đọc có thể tìm thấy ở đó từ những vấn đề lớn lao đến những vấn đề vụn vặt trong đời sống. Nguyễn Bích Thu viết : “Có lẽ to chuyện quá chăng? Nhưng Thời xa vắng là những trang bi kịch về sự hôn phối đó, sự xen cài vào nhau đó: chiến tranh rồi hòa bình, nông thôn ra thành phố, “nhà quê” và “kẻ chợ”… Không phải người viết đưa hai mảng ngẫu nhiên bập vào nhau, cho tồn tại bên nhau, mà gắn nối cài xen với nhau như là sự tiếp tục và phát triển tự nhiên của lịch sử” [67]. Một đặc điểm nổi bật khác cũng được chú ý trong tiểu thuyết Lê Lựu là chất giọng giễu nhại. Các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận sự thành công của nhà văn khi sử dụng chất giọng trầm tĩnh và chất giọng giễu nhại để phản ánh hiện thực. Nhận xét về một trong những yếu tố đem đến thành công cho Lê Lựu trong Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng : “Cách nhìn thấu đáo của anh, tấm lòng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn, một giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan không thêm bớt tô vẻ, đặc biệt không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức thuyết phục hấp dẫn của tác phẩm” [67]. La Khắc Hòa thì cho rằng: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết giễu nhại độc đáo. Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như phóng đại hay vật hóa hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn giản thuật lại những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được một hình tượng giễu nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bông đùa, lúc lại xót xa, chì Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 10
  11. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nó” [67]. Cũng đề cập tới giọng trần thuật, Đỗ Tất Thắng nhận xét về thái độ của nhà văn trong Thời xa vắng: “Lê Lựu phê phán một thời đã qua, mổ xẻ nó nhưng không hề oán trách, không cay nghiệt, không nổi khùng. Anh phê phán những dư luận, hoàn cảnh làng xã những năm sáu mươi đã tạo nên tính cách Giang Minh Sài, đã làm khổ cuộc đời Sài mấy chục năm trời, nhưng anh không hề bôi bác, chê bai những người nông dân. Trong Thời xa vắng anh đã viết những trang nồng ấm tình người về người nông dân chân lắm tay bùn, một nắng hai sương. Ngòi bút Lê Lựu viết về nông thôn thật là nhân hậu” [67]. Thời xa vắng ra đời, đã gây xôn xao dư luận trong một khoảng thời gian dài. Chính vì vậy có rất nhiều bài viết bàn luận, lý giải cũng như nghiên cứu về tác phẩm mà luận văn chưa có điều kiện thống kê. Nỗi buồn chiến tranh (Thân phận của tình yêu) của Bảo Ninh có một số phận đặc biệt. Khi mới xuất hiện trên văn đàn, nó không được chào đón, thậm chí bị lên án, phê phán mạnh mẽ. Cùng với thời gian, người ta đã phải thay đổi cách nhìn về nó và lúc này tác phẩm lại tốn khá nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu. Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp hiện đại đã khẳng định: "Trong văn học mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thương nhất", tác giả nhấn mạnh: "nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài 35 năm", "những cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm" [27, 265]. Bên cạnh nỗi buồn chiến tranh được phản ánh trong tác phẩm là nỗi buồn về tình yêu, Đỗ Đức Hiểu nhận định: "Nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu [27, 98] thấm vào nhau. Kiên vẫn phải sống, sống một thời hậu chiến u buồn (nỗi buồn hậu chiến) vì một "thiên mệnh mù mịt xa vời, tối tăm và đau xót, được diễn đạt bằng đêm ("bóng đêm", "đêm hè", "đêm trường"... [27, 266], "Tình yêu, Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 11
  12. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… chiến tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức nhối. Mưa và đêm, chiến tranh và sáng tác; khủng khiếp và hồn hoang. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến động của tiểu thuyết (mưa và đêm) là một mối tình đau xót, kéo dài, vang vọng, âm ỉ và nổ bùng, hủy hoại tất cả" [27, 266]. Những nghiên cứu này của tác giả đã giúp chúng tôi trong việc khảo sát so sánh và phân tích tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Nghiên cứu về Nỗi buồn chiến tranh ở góc độ thi pháp, tác giả Trần Quốc Huấn trong Tạp chí Văn học số 3 (1991) đã quan tâm đến thiên truyện từ điểm nhìn chiến tranh. Tác giả viết: "Toàn bộ tác phẩm là cái nhìn ngoái lại, thờ thẫn, đăm đắm của một người lính khi đã tàn cuộc. Cái nhìn dằng dặc, đầy phân tán nhưng không hề lơ đãng. Điểm nhìn có góc độ rộng, song khá tập trung". Điều này đã gợi ý cho chúng tôi khi nghiên cứu về hai điểm nhìn chiến tranh quá khứ và hiện tại trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Bên cạnh đó Trần Quốc Huấn còn đưa ra nhận xét về nhà văn Bảo Ninh. Ông viết: "Bảo Ninh đã độc lập tác chiến trong quá trình rong ruổi ngược. Anh can đảm chấp nhận một lộ trình dốc đứng. Có lẽ anh trong số những người lính sống sót đã mất đi khả năng quên. Đây chính là sự hành xác vừa đau đớn vừa đáng sợ. Buồn đau đến thành mãn tính, ám ảnh, luôn mấp mé với bệnh hoạn". Nguyễn Thái Hòa trong công trình Những vấn đề thi pháp của truyện lại nhấn mạnh đến cách xử lý thời gian linh hoạt của Bảo Ninh. Theo nhà nghiên cứu, Bảo Ninh đã sử dụng thủ pháp đồng hiện trong cuốn tiểu thuyết này. Nguyễn Thái Hòa viết: "Phong phú và đầy đặn hơn là cách kể, cách xử lí thời gian của Bảo Ninh trong Thân phận của tình yêu. Cả quãng đời thơ ấu, đi học, trước chiến tranh, sau chiến tranh của nhân vật Kiên không phải liên tục, đều đặn mà lần giở theo hồi ức" [30, 143], "sự xê dịch trong Thân phận của tình yêu mới thật là một thách thức đối với người đọc. Nó không có dấu hiệu báo trước và cũng chẳng biết kết thúc lúc nào" [30, 131]. Trên tạp chí Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 12
  13. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… Văn học số 6 (1991), với bài viết Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người, Bùi Việt Thắng đã đưa ra nhận định hết sức xác đáng về quan niệm nhân cách con người trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu. Ông viết: "Cái phần được của Thân phận của tình yêu chính là ở chỗ Kiên dám nhìn thẳng, nhìn sâu vào quá khứ, mới dám đối diện với hiện tại, rất công bằng mà phán xét lịch sử. Cao hơn nữa là đối diện với chính mình, rồi xám hối, tranh đấu và vượt lên" [57, 17]. Đó là những định hướng quý báu cho chúng tôi khi nghiên cứu so sánh tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh viết về đề tài chiến tranh. Ngoài tập truyện ngắn và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, gần đây Bảo Ninh còn viết một số bài trên báo Văn nghệ trẻ bàn về sự đổi mới của văn học. Trong phần hai của bài viết Văn học đổi mới đến từ cuộc kháng chiến, Bảo Ninh đã chỉ trích một số quan niệm ấu trĩ khi xử lí Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư và lý giải về việc thưởng thức văn học của độc giả. Đồng thời, ông đã khen ngợi sự đổi mới đề tài chiến tranh của Thái Bá Lợi (truyện ngắn) và Lê Lựu (tiểu thuyết). Tác giả viết: "Tôi nghĩ rằng họ, chẳng hạn nhà văn Thái Bá Lợi của Hai người trở lại trung đoàn, nhà văn Lê Lựu của Thời xa vắng, có ý chí đổi mới sáng suốt và mãnh liệt đồng thời quả cảm và gan lỳ chẳng kém gì người nông dân gan dạ dám chọn con đường đúng đắn nhưng đầy cay đắng và cô đơn của bí thư Kim Ngọc. Tôi tự hỏi rằng nếu không có những người nông dân cựu chiến binh kháng chiến chống Mỹ ấy thì liệu nền kinh tế của đất nước và đời sống của mọi người ngày hôm nay sẽ như thế nào?". Bảo Ninh là một trong những nhà văn góp phần đổi mới văn học viết về đề tài chiến tranh, nên ở đây thể hiện một quan niệm về sự đổi mới cách nhìn nhận chiến tranh. Ông viết: "Nếu không có ý chí và tác phẩm sáng ngời tinh thần đổi mới ngay từ đầu những năm 1980 của các nhà văn mà hầu hết là cựu chiến binh thì ngày nay các nhà văn và cả độc giả nữa sẽ có kiểu tư duy văn học kiểu gì?". Cũng trên báo Văn nghệ trẻ ở bài viết Nói hay Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 13
  14. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… làm dở, Bảo Ninh đưa đến một quan niệm mới về việc viết văn của lớp nhà văn sau chiến tranh. Ông dẫn ra một loạt cuộc hội thảo bàn về nhu cầu đổi mới văn học: "Mỗi thầy mỗi khác, nhưng tựu trung đều kêu gọi và thôi thúc chúng tôi hãy khác đi, hãy mau mau đổi mới, hãy mạnh dạn cách tân, hãy từ bỏ lối mòn trong suy nghĩ và trong sáng tác". Gần đây cũng trên báo Văn nghệ trẻ, số 39 (2006) trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại phong phú về lượng, khi bàn về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả Nguyễn Trường Lịch cho rằng tiểu thuyết Việt Nam không nằm ngoài dòng chảy của tiểu thuyết thế giới, ông đưa ra một số tác phẩm tiêu biểu trong đó là tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh. Tác giả viết: "Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh với độ dài của thời gian, điểm nhìn mới mẻ về chiến tranh trong quá khứ giúp nhà văn mạnh dạn nhận rõ cuộc chiến tranh không chỉ mang âm điệu hào hùng thắng lợi mà con đượm nét đau thương bi tráng trong những ngôi nhà, nơi ngõ phố vắng vẻ hoặc làng quê núi đồi quạnh hiu qua từng nỗi bất hạnh cô đơn của bao người con gái nhỏ hậu phương đêm đêm không ánh đèn mỏi mắt chờ đợi". Nguyễn Trường Lịch còn phát hiện những mới mẻ ở cuốn tiểu thuyết này: "Và có lẽ điểm mới nhất trong kết cấu Thân phận của tình yêu là chỗ tác giả lấy trục thời gian chi phối mọi hành động xuyên suốt các tính cách nhân vật trải rộng trên các vùng không gian mênh mông của chiến trường từ Bắc chí Nam". Như vậy, chưa có một công trình nào thể hiện cái nhìn tổng quát toàn diện, có hệ thống, chuyên sâu trong việc nghiên cứu đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Bảo Ninh. Tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai cũng dành được nhiều sự quan tâm của người đọc và nhà nghiên cứu. Phần lớn các sáng tác của Chu Lai, dù ít hay nhiều, đều khai thác đề tài chiến tranh và người lính với cái nhìn sâu sắc, đau đớn và nhân bản. Các nhà phê bình văn học đều khẳng định thành công của Chu Lai ở mảng đề tài này. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Tiểu Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 14
  15. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chiến tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử”. Nguyễn Hoà lại từ một tác phẩm cụ thể của Chu Lai mà khẳng định những phát hiện mới của nhà văn: "Với khúc bi tráng mới cùng Chu Lai muốn thể hiện cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huống bi kịch để chiêm nghiệm xem con người đã làm thế nào để vượt thoát ra khỏi những tình huống bi kịch ấy ...”. Thành tựu ở đề tài số phận người tính thời hậu chiến: Có khá nhiều bài viết về vấn đề này và đều khẳng định lòng trung thực, sự dũng cảm và khả năng “đào sâu” tận cùng hiện thực của nhà văn phát hiện những "mảnh đời" còn khuất lấp, từ đó rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc. Theo nhà văn Ma Văn Kháng, tiểu thuyết của Chu Lai đã “đối mặt trực tiếp với những vấn đề bức bối của đời sống xã hội hôm nay”. Trong luận văn, thạc sĩ "Tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới", tác giả Nguyễn Văn Chung đã khẳng định Chu Lai "Từ cái nhìn sâu sắc về hiện thực chiến tranh" đã đi đến "cái nhìn đa diện về hiện thực thời bình”, từ "thân phận con người trong chiến tranh" đến "thân phận con người trong cuộc sống đời thường" v.v... Vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lai là vấn đề được các nhà nghiên cứu phê bình đề cập đến nhiều nhất. Đó là ý kiến của Gs. Phan Cự Đệ: Tiểu thuyết của Chu Lai "không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”, “nghệ thuật đồng hiện ...”.[LV.Th.s- Tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới]. Những công trình này đã nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chưa có công trình nào có cái nhìn khái quát về vấn đề tự sự học, đặc biệt là qua ba tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng, Thời xa vắng. Nên đây vừa là cơ sở, vừa là gợi ý để chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về tiểu thuyết thời hậu chiến từ góc độ tự sự học và chứng minh qua ba tác phẩm là Nỗi buồn chiến tranh của Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 15
  16. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai và Thời xa vắng của Lê Lựu với nhan đề: Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 – dưới góc nhìn tự sự học ( qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai và Thời xa vắng của Lê Lựu). 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích, nhiệm vụ Từ việc lựa chọn ba tác phẩm: Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Thời xa vắng của Lê Lựu, luận văn tập trung tìm hiểu những đổi mới của tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học. Qua đó thấy được những đổi mới của tiểu thuyết giai đoạn này so với tiểu thuyết thời chiến trên một số phương diện như: nghệ thuật tổ chức cốt truyện, kết cấu, người kể chuyện, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu… 3.2. Phạm vi nghiên cứu Văn học thời hậu chiến phát triển rực rỡ ở nhiều thể loại với sự ra đời của nhiều tác phẩm đặc sắc. Do sự hạn chế của đề tài, luận văn này chỉ tìm hiểu ở thể loại tiểu thuyết và qua ba tác phẩm: Ăn mày dĩ vãng, Nỗi buồn chiến tranh và Thời xa vắng. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp hệ thống Một trong những phương pháp bao trùm mà trần thuật học rất quan tâm là phương pháp hệ thống. Vì vậy trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu này. Khi áp dụng phương pháp này vào nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 qua ba tác phẩm yêu cầu phải đặt từng yếu tố của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của các tác phẩm vào hệ thống nghệ thuật trần thuật nói chung, trong tiến trình chung của văn học dân tộc; phân tích những mối quan hệ giữa các yếu tố với nhau đồng Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 16
  17. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… thời đặt nó vào trong giai đoạn đổi mới văn học và trên tiến tình phát triển của thể loại tự sự của văn học dân tộc. 4.2. Phương pháp phân tích Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi có sử dụng một số dẫn chứng để minh họa cho lập luận của mình. Do đó, phương pháp phân tích được vận dụng để trình bày cặn kẽ vấn đề hoặc bình giá các vấn đề cụ thể trong luận văn. 4.3. Phương pháp thống kê Trong chừng mực nhất định của quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê xem trong mỗi yếu tố nghệ thuật tầng số xuất hiện của những hiện tượng nào là cao, hiện tượng nào là thấp và nó có báo hiệu điều gì không. 4.4. Phương pháp nghiên cứu so sánh Thông qua phương pháp này, chúng tôi có cái nhìn so sánh giữa tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam trước và sau 1975; đồng thời so sánh giữa các tác phẩm để thấy bên cạnh những đặc điểm chung của thời kì, mỗi tác phẩm lại mang những đặc điểm khu biệt, đặc sắc riêng. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kết cấu trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau năm 1975 Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 17
  18. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật người lính trong tiểu thuyết hậu chiến là họ không xuất hiện trong những sự kiện đạn bom ác liệt mà chủ yếu trong trạng thái suy tư, chiêm nghiệm, “sống với thời gian hai chiều”. Người lính trong tiểu thuyết hậu chiến vừa là con người của thời hiện tại, của cuộc sống thường ngày vừa là con người của quá khứ trong nhu cầu nhận thức lại quá khứ ấy. Và thường là thế này: họ cô đơn, lạc lõng trong cuộc sống hiện tại, còn quá khứ tuy đã thành ký ức nhưng luôn là nỗi ám ảnh khôn nguôi, đeo đẳng suốt cuộc đời họ. Hệ quả của nhận thức mới về lịch sử, về hiện thực và con người đã khiến tiểu thuyết hậu chiến dần hướng vào việc khám phá người lính dưới góc độ cá nhân, đời tư. Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đã trở thành hạt nhân của những thành tựu mà tiểu thuyết hậu chiến đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại về đề tài chiến tranh. Khi được hiện lên với tất cả những tính chất đa diện của con người đời thường, hình tượng người lính chân thực, gần gũi và ám ảnh hơn trong chân dung của những nhân vật bi kịch. Tiểu thuyết hậu chiến đã tập trung chú ý đến khía cạnh này của người lính, đặc biệt là bi kịch tinh thần - bi kịch nhận thức của họ trước những phức tạp của cuộc sống mới. Với tiểu thuyết hậu chiến, lần đầu tiên trong văn học chiến tranh, người lính đã được nhìn nhận như một “cá thể người” chứ không phải là hình ảnh biểu trưng cho tập thể, cho cộng đồng: Giang Minh Sài đau khổ, cả đời hối hận vì luôn phải sống theo sự sắp đặt của người khác, phải sống là một người khác chứ không phải là chính con người mình (Thời xa vắng), Hai Hùng cảm thấy mình “bị bắn ra khỏi lề đường” (Ăn mày dĩ vãng), Kiên “bị mắc kẹt lại trên cõi đời này”, cô độc và hoàn toàn rơi vào trạng thái bấn loạn, rối bời, triền miên trong mộng mị, vô thức (Nỗi buồn chiến tranh), v..v. Sài, Hai Hùng, Kiên… và nhiều người lính khác nữa trong tiểu thuyết hậu chiến không có được cảm giác hạnh phúc của ngày trở về sau chiến tranh mà luôn sống trong những ám ảnh khôn nguôi. Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 18
  19. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… Thay đổi cảm hứng nghệ thuật, chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư thế sự, tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 mang một diện mạo mới trong cách thể hiện nội dung mới, đặc biệt là phương diện trần thuật, từ ngôn ngữ, giọng điệu đến điểm nhìn, nhân vật trần thuật rồi cả cốt truyện, kết cấu… Trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện được kể như thế nào bao giờ cũng quan trọng hơn là ai mới thật sự là người viết nên truyện kể ấy. Điểm nhìn trở thành cơ sở để phân biệt người kể chuyện và tác giả. Người kể chuyện có thể mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể và không có vai trò đáng kể trong việc tổ chức truyện. Điểm nhìn và người kể chuyện trở thành hai phương diện không thể tách rời. Truyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể chuyện nào đó. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [63]. 1.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 1.1.1. Khái lược về người kể chuyện Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật (Narrate) là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả…. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả. Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 19
  20. Tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam sau 1975 dưới góc nhìn tự sự học… Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm tự sự. Trong tiểu thuyết, trần thuật tập trung vào số phận một hoặc nhiều cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây được triển khai trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Với đặc điểm đó, trần thuật trong tiểu thuyết là một phương diện thi pháp đặc trưng của thể loại. Trần thuật tồn tại với nội dung trần thuật và hình thức trần thuật. Người trần thuật (Narrator) - một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết. Trần thuật bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người nào đó. Trong sử thi, cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết, trực tiếp hay gián tiếp đều có người trần thuật. Người trần thuật không những chỉ tổ chức ngôn ngữ mà còn đóng vai trò quan trọng về mặt kết cấu, chi phối ngôn ngữ của nhân vật. Trong trường hợp tác giả đóng vai trò người trần thuật, tác phẩm có nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất (first person), xưng “tôi”. Điều này dễ nhận thấy ở các tác phẩm tự truyện hoặc có dáng dấp tự truyện. Theo nhà nghiên cứu Lê Nguyên Cẩn, việc sử dụng ngôi thứ nhất trong tự truyện ở các tác phẩm văn học thế kỷ XVIII ở phương Tây không phải là sự sử dụng tùy hứng hay ngẫu nhiên mà nó mang tính lịch sử, gắn liền với nhu cầu khách quan của thời đại. Đó là yêu cầu các truyện phải là truyện kể về sự thật. Tiểu thuyết trở thành bản anh hùng ca đầy tính chủ quan, trong đó tác giả tự cho mình cái quyền được lý giải thế giới ấy theo cách của nó, cái chủ thể chủ quan nổi bật lên thu hút sự chú ý của mọi người. Đó chính là câu chuyện được viết bởi chính những người đã từng sống trong cuộc đời ấy. Đây là điều kiện để thể loại hồi ức phát triển mạnh, dẫn đến sự xuất hiện của thể loại tự truyện hay dấu ấn của tự truyện trong tiểu thuyết. Ngoài ra tác giả còn trần thuật ở ngôi thứ ba dưới hình thức người kể chuyện (do tác giả sáng tạo ra), lời trần thuật ở đây mang tính khách quan hoá Nguyễn Thị Vui – Văn học Việt Nam 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0