intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn nghiệp của Phan Kế Bính trong những chuyển động văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

20
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn sẽ tập trung giải quyết 2 vấn đề: Nhìn lại văn nghiệp của Phan Kế Bính theo các mảng báo chí, dịch thuật, biên khảo, sáng tác; lý giải, đánh giá lựa chọn của Phan Kế Bính trong những diễn biến tinh thần đầu thế kỷ XX, và đóng góp của ông đối với sự phát triển của văn hóa văn học dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn nghiệp của Phan Kế Bính trong những chuyển động văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ MINH DƯƠNG VĂN NGHIỆP CỦA PHAN KẾ BÍNH TRONG NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM THỊ MINH DƯƠNG VĂN NGHIỆP CỦA PHAN KẾ BÍNH TRONG NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 0121 Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hải Yến Hà Nội - 2012 2
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 4 Chương 1 ........................................................................................................................ 11 Môi trường văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX ................................................................. 11 1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX () .................................... 11 1.2. Báo chí Việt Nam trước ĐDTC............................................................................. 17 1.3. Sự ra đời và hoạt động của ĐDTC ........................................................................ 19 1.3.1. Sự ra đời và tôn chỉ của ĐDTC....................................................................... 19 1.3.2. Hệ thống chuyên mục của ĐDTC ................................................................... 24 * Tiểu kết......................................................................................................................... 30 Chương 2 ........................................................................................................................ 31 Sự nghiệp văn chương của Phan Kế Bính ........................................................................ 31 2.1. Nhà nho Phan Kế Bính và nghề báo ...................................................................... 31 2.1.1. Con đường đến với nghề báo .......................................................................... 31 2.1.2. Phan Kế Bính với chuyên mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo” trên ĐDTC ................................................................................................................................ 32 2.2. Các công trình biên khảo của Phan Kế Bính .......................................................... 37 2.3. Phan Kế Bính và công việc dịch thuật ................................................................... 53 2.4. “Tiểu thuyết gia” Phan Kế Bí nh ............................................................................ 65 * Tiểu kết......................................................................................................................... 73 Chương 3 ........................................................................................................................ 74 Nghề báo và di sản của Phan Kế Bính – .......................................................................... 74 nhìn từ thực tế thực dân hóa của Việt Nam ...................................................................... 74 3.1. Học vấn và những ngả đường “nhập thế” () của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX .. 74 3.2. Các giá trị văn hóa văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX: lựa chọn xã hội và lựa chọn của Phan Kế Bính ....................................................................................... 83 * Tiểu kết ....................................................................................................................... 98 KẾT LUẬN................................................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 102 3
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong khoảng chuyển giao cũ – mới đầu thế kỷ XX, Phan Kế Bính thuộc số trí thức cựu học Bắc Kỳ đầu tiên sử dụng chữ quốc ngữ trong lĩnh vực khoa học, báo chí và nghệ thuật mà đương thời “không ai theo kịp” [40, tr. 56] và có “những áng văn xuất sắc hơn hết” [40, tr. 52]. Tên tuổi ông gắn liền với các công trình biên khảo, dịch thuật, trước tác… Đồng thời sự nghiệp của Phan Kế Bính cũng đáng chú ý ở chỗ gắn liền với hoạt động của báo chí thời kỳ đó và đây cũng là công việc mà Phan Kế Bính đã dành gần như trọn vẹn quãng đời hoạt động chữ nghĩa của ông. Một loạt các tờ báo gắn với vai trò biên tập viên của ông như: Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, và Học báo, trong đó vai trò của ông đối với Đông Dương tạp chí là vô cùng quan trọng với tư cách là biên tập viên chính và lâu đời nhất của tờ báo. Đầu thế kỷ XX, tại Việt Nam, sự giao thoa Âu – Á, Đông – Tây diễn tiến trong một khung cảnh khá yên bì nh , công cuộc cai trị thực dân lan rộn g khắp ba kỳ , thể hiện trong nhiều hoạt động : thiết lập thể chế chí nh trị , xã hội, giáo dục văn hóa . Sự gặp gỡ , “va chạm giữa các nền văn minh” đương nhiên xảy ra, và chắc chắn có nhiều nét khác biệt với các giai đoạn k hác của thời kỳ thực dân Pháp ở Việt Nam . Trong khung cảnh ấy , nền văn chương học thuật truyền thống có vai trò ra sao , được vận dụng và tác động như thế nào trong chủ định , chủ trương “giao hòa” đó ? Thông qua nhân vật Phan Kế Bính , chúng tôi muốn tìm một cách trả lời cho vấn đề nêu trên , bởi: “Từ cách chấm câu đến diễn đạt ý kiến cùng tư tưởng của ông, người ta tưởng như ông là một nhà Tây học kiêm Hán học, chứ không mấy ai có thể biết ông chỉ là một nhà Hán học thuần túy, chưa hề chịu ảnh hưởng Tây học trực tiếp” [40, tr. 57]. 5
  5. Mặc dù công lao của Phan Kế Bính đối với văn hóa văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX không nhỏ nhưng những công trình, bài viết về ông lại khá ít ỏi. Đây đó mới bắt gặp một vài bài báo lẻ tẻ, một bài viết ngắn trong các sách in chung với tác giả khác và ít được nghiên cứu dưới góc độ như một tác giả độc lập, ngoại trừ công trình duy nhất Phan Kế Bính – Tác giả và Tác phẩm của Bùi Văn Vượng. Chưa kể việc người ta thường chú trọng đóng góp của ông cho sử học, văn hóa mà chưa mấy quan tâm đến vai trò của ông trong hoạt động văn học. Vì vậy, với đề tài Văn nghiệp của Phan Kế Bính trong những chuyển động văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX, người viết mong muốn tìm hiểu những đóng góp của tác giả này , trong so sá nh với những cây bút khác của Đông Dương tạp chí, cho nền văn học quốc ngữ Việt Nam . Đồng thời cũng tì m cách lý giải hoạt động đó của ông , như một cách ứng xử , đối diện với chí nh sách thực dân [trong văn hóa ] của lớp trí thức cựu học Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Như trên đã nói, cho đến nay những tìm hiểu về Phan Kế Bính còn ít ỏi. Một số công trình, bài viết, nghiên cứu về Phan Kế Bính thường chỉ tập trung vào văn hóa, sử học và ít quan tâm đến phương diện văn chương. Cũng đôi chỗ, xét về phương diện văn học, người ta thường nhìn nhận, đánh giá về ông như một thành tố của nền văn học giao thời và đặt chung trong nhóm Đông Dương tạp chí. Tiêu biểu là cuốn Nhà văn hiện đại (1942 - 1945) của Vũ Ngọc Phan. Ở đây, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan có những ghi nhận, đánh giá bước đầu một phần di sản báo chí của Phan Kế Bính trên tờ Đông Dương tạp chí qua hai mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo”. Theo đó, tác giả đã dành cho Phan Kế Bính những lời khen ngợi rất hùng hồn: “Giản dị và hùng tráng, đó là hai điều ít khi người ta thấy được trong văn chương của các nhà nho; vậy mà đọc văn của Bưu Văn, điều đặc biệt mà ta có thể thấy ngay lại 6
  6. chính là sự giản dị và sự hùng tráng” [40, tr. 57]. Bên cạnh đó, trong cuốn Văn học Việt Nam 1900 – 1945 (2003), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (2004), Phan Kế Bính cũng được đề cập đến ít nhiều với tư cách là nhà văn theo phái cựu học. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1961) đã xếp Phan Kế Bính trong nhóm tác giả làm biên khảo và phê bình, cụ thể là nhóm biên soạn Sử học và biên khảo Văn học. Ở cả hai bộ phận này, Phạm Thế Ngũ đều đi vào xem xét, đánh giá những đóng góp và giá trị từ các công trình biên khảo của Phan Kế Bính đem lại không chỉ cho nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX mà đến tận ngày nay, thể hiện qua việc dịch những áng văn chương cổ của Trung Hoa ra chữ quốc ngữ đăng trên mục “Hán văn” của Đông Dương tạp chí, hoặc tổng kết lại những nguyên lý, thể cách, kĩ thuật… của lối văn chương xưa qua mục “Việt Hán văn khảo”. Phải đến gần đây, Phan Kế Bính mới được chú ý tìm hiểu như một tác giả độc lập. Đó là công trình Phan Kế Bính – tác giả và tác phẩm do Bùi Văn Vượng chủ biên (2004). Tuy nhiên Bùi Văn Vượng lại nhấn mạnh tác giả Phan Kế Bính ở vai trò một nhà văn hóa với việc nghiên cứu về phong tục tập quán, sử học… Cùng chung quan điểm này, Phạm Công Tiến đã viết bài phê bình “Nhà văn hóa Phan Kế Bính” trong số 191/2006 báo Toàn cảnh sự kiện – dư luận. Ở đây, tác giả nhấn mạnh cuốn Việt Nam phong tục với những sưu tầm, ghi chép rất tỉ mỉ, kĩ lưỡng của Phan Kế Bính về truyền thống, phong tục Việt Nam cổ xưa, và một yếu tố nữa cũng được đề cập đến là khả năng sử dụng chữ quốc ngữ trong nền văn chương học thuật những năm 20 của thế kỷ XX. Ngày 29 tháng 5 năm 2005, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổ chức một lễ tưởng niệm nhân 130 năm ngày sinh và 85 năm ngày mất của Phan Kế Bính. Tuy nhiên những bài viết này chỉ 7
  7. mang tính chất hồi ức, tưởng nhớ, và không chứa đựng nhiều giá trị nghiên cứu, học thuật. Tóm lại, những nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà nghiên cứu về Phan Kế Bính là những phục dựng ban đầu chân dung một trí thức cựu học chuyển theo tân trào và vinh danh di sản của ông. Song, cũng vì thế mà một số đóng góp của Phan Kế Bính cho văn học dân tộc vẫn còn có thể và cần phải tìm hiểu kỹ hơn, đó là sự nghiệp báo chí và trước tác văn chương của ông. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung giải quyết 2 vấn đề : - Nhìn lại văn nghiệp của P han Kế Bí nh theo các mảng : báo chí , dịch thuậ t, biên khảo, sáng tác. - Lý giải , đánh giá lựa chọn của Phan Kế Bí nh trong những diễn biến tinh thần đầu thế kỷ XX , và đóng góp của ông đối với sự phát triển của văn hóa văn học dân tộc. 4. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi thời gian: Trong quãng đời ngắn ngủi của Phan Kế Bính, khoảng thời gian hoạt động rực rỡ nhất, đưa tác giả trở thành một nhà báo, nhà văn hoá lớn của Việt Nam gần như trùng khít với sự xuất hiện và kết thúc của Đông Dương tạp chí: từ năm 1913 đến năm 1919. Dấu mốc năm 1919 này cũng đánh dấu sự suy tàn của chế độ khoa cử Việt Nam – môi trường giáo dục đào luyện nên những người như Phan Kế Bính. Vì vậy các khảo sát của chúng tôi sẽ tập trung vào những năm 1913 – 1919. * Phạm vi tư liệu: Di sản của Phan Kế Bính bao gồm các bài đăng báo và một số ấn phẩm độc lập. Riêng phần báo chí, do điều kiện bảo quản, lưu trữ ở Việt Nam, và khuôn khổ thời gian thực hiện đề tài , chúng tôi sẽ khoanh vùng ở Đông Dương tạp chí. Tuy nhiên Đông Dương tạp chí (1913 - 1919) là một tư liệu quý hiếm, và các cơ sở lưu trữ quan phương của Việt Nam hiện không 8
  8. có một sưu tập hoàn chỉnh. Ngay trong lưu trữ của thư viện quốc gia cũng chỉ lưu giữ được 130 số báo, cụ thể từng năm như sau: Năm 1913: 1 – 34 Năm 1914: 35 – 52 Năm 1916: 51 – 104 Năm 1917: 109 – 134 Toàn bộ công việc của chúng tôi sẽ được tiến hành trên lượng tư liệu còn lại này. * Phạm vi vấn đề: Qua tác giả Phan Kế Bính, có thể soi chiếu những vấn đề rộng lớn hơn là Đông Dương tạp chí, đồng thời hiểu được lịch sử, tiến trình của báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Hơn nữa, từ sự nghiệp cá nhân của một học giả , chúng ta có thể thấy được thực tế thực dân hóa , sự thay đổi trong văn hoá văn chương, sự thay đổi học thuật, hạn vận của Nho học và sự lựa chọn các giá trị truyền thống của Việt Nam đầu thế kỷ XX để tồn tại và phát triển. Những thống kê, khảo sát sẽ hướng đến việc tìm hiểu mức độ “can dự” của nhà cựu học Phan Kế Bính không chỉ vào Đông Dương tạp chí mà cả hệ thống văn chương , văn hóa đầu thế kỷ XX . 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn này dùng cách tiếp cận văn học sử làm phương pháp bao trùm . Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cố gắng khảo sát , nhìn nhận một số vấn đề trong một khuôn khổ rộng hơn là văn hóa . Để cụ thể hóa những phương pháp đó , các thao tác được sử dụng là: thống kê, khảo sát, tổng hợp, có kết hợp phân tích, lý giải để làm nổi bật con người và sự nghiệp của Phan Kế Bính. Thao tác so sánh (đồng đại, lịch đại) cũng là không thể thiếu, đặc biệt là đặt đối tượng nghiên cứu trong khuôn khổ của Đông Dương tạp chí nói riêng, không khí văn học - báo chí đương thời, 9
  9. đồng thời cố gắng khu biệt đối tượng để nhận diện những đóng góp riêng cũng như những hạn chế của tác giả. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có các chương và mục chính như sau: Chương 1: Môi trường văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX 1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX 1.2. Báo chí Việt Nam trước Đông Dương tạp chí 1.3. Sự ra đời và hoạt động của Đông Dương tạp chí 1.3.1. Sự ra đời và tôn chỉ của Đông Dương tạp chí 1.3.2. Hệ thống chuyên mục của Đông Dương tạp chí Chương 2: Sự nghiệp văn chương của Phan Kế Bính 2.1. Nhà nho Phan Kế Bính và nghề báo 2.1.1. Con đường đến với nghề báo 2.1.2. Phan Kế Bính với chuyên mục "Hán Văn " và "Việt Há n văn khảo" trên Đông Dương tạp chí 2.2. Các công trì nh biên khảo của Phan Kế Bính 2.3. Phan Kế Bính và công việc dịch thuật 2.4. “Tiểu thuyết gia” Phan Kế Bính Chương 3: Nghề báo và di sản của Phan Kế Bính - nhìn từ thực tế thực dân hóa của V iệt Nam 3.1. Học vấn và những ngả đường “nhập thế ” của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX 3.2. Các giá trị văn hóa văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX : lựa chọn xã hội và lựa chọn của Phan Kế Bính 7. Một vài ký chú 10
  10. Tôn trọng tính lịch sử của sự vật, hiện tượng, chúng tôi sẽ giữ nguyên cách viết chính tả của báo Đông Dương tạp chí. Vì thế, toàn bộ tên bài cũng như nội dung trích đoạn bài viết của Phan Kế Bính trong mục “Hán văn” và “Việt Hán văn khảo” chúng tôi cũng giữ nguyên văn. 8. Chữ viết tắt GĐB: Gia Định báo NCMĐ: Nông cổ mín đàm ĐCTB: Đăng cổ tùng báo ĐDTC: Đông Dương tạp chí LTTV: Lục tỉnh tân văn TBTV: Trung Bắc tân văn NPTC: Nam Phong tạp chí ĐKNT: Đông Kinh Nghĩa Thục 11
  11. NỘI DUNG Chương 1 Môi trường văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX 1.1. Chính sách văn hóa của Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX(1) Bước vào những năm đầu thế kỷ XX, có thể nói thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc xâm lược và chiếm đóng Việt Nam bằng quân sự. Trên thực tế, nỗ lực vận động yêu nước, cứu vong cứu tồn cho dân tộc của các sĩ phu về cơ bản đã thất bại. Ở ngoài Bắc, tuy vẫn còn Hoàng Hoa Thám đơn thương hoạt động chống Pháp dai dẳng đến 1913, nhưng đó chỉ là nỗ lực cuối cùng của phong trào kháng chiến bằng quân sự. Tình hình chung tương đối ổn định và thực dân Pháp có thể thiết định bộ máy cai trị dân sự trên toàn Việt Nam và toàn cõi Đông Dương. Trong đó đáng chú ý là thiết lập một hệ thống giáo dục Pháp – Việt nhằm đào tạo một tầng lớp thông ngôn, thư lại phục vụ cho những chủ trương và chính sách bảo hộ. Từ tháng 10 năm 1902 đến tháng 2 năm 1908, toàn quyền Đông Dương Paul Beau đã chủ trương “thay thế chính sách thống trị bằng chính sách liên hợp”. Năm 1917, toàn quyền Albert Sarraut ban bố “Học chính Tổng quy” (tức luật giáo dục chung) và hủy bỏ giáo dục truyền thống trên cả ba kỳ. Trong ba cuộc cải cách giáo dục (1906, 1917 và 1926) thì năm 1906, giáo dục truyền thống chuyển giao theo cách giáo dục mới, trong đó chữ Nho vẫn được dùng nhưng bổ sung thêm chữ quốc ngữ, chữ Pháp, Toán và một số môn khoa học. Cuộc cải cách thứ hai mở ra bằng việc bãi bỏ Nho học, tiếng Pháp trở (1) Để đảm bảo sự tập trung, chúng tôi sẽ khoanh phạm vi tìm hiểu trong quãng thời gian 1910–1920 – thời điểm hoạt động của ĐDTC và tác giả Phan Kế Bính. 12
  12. thành ngôn ngữ chính trong nhà trường Pháp - Việt. Và một dấu mốc cũng hết sức quan trọng trong khoảng 1906 đến 1917 là việc bãi bỏ thi cử chữ Hán ở Bắc Kỳ năm 1915, đồng thời việc dạy quốc văn cũng đã phổ thông nhiều trường học ở thôn quê. Năm 1919 chấm dứt vĩnh viễn cơ chế tuyển dụng quan lại thông qua khoa cử Hán học. Và cuộc cải cách giáo dục năm 1926 được mở ra bằng việc tập trung vào các trường sơ học Pháp – Việt: các làng phải mở trường học, lấy tài chính từ đóng góp của dân, cho học chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng Pháp và Hán tự là những môn không bắt buộc. Mục tiêu duy nhất của nhà cầm quyền Pháp khi nhấn mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ là để cắt đứt mọi sự tiếp xúc và liên lạc chặt chẽ giữa người Việt Nam và Trung Hoa đã có từ ngàn năm trước. Với thực dân, đó là phương tiện tốt nhất để Âu hóa nho sĩ Việt Nam, từ xưa không biết một nền văn minh nào khác ngoài Trung Hoa. Nhận xét của Piri, hội viên trường Viễn Đông bác cổ (EFEO) đã xác nhận mục đích này của chính phủ Pháp: Sự thật, người Annam mà chúng ta đang bảo hộ, đang cai trị đã được giáo dục theo khuôn mẫu của Trung-hoa, hơn lúc nào hết giới Nho sĩ đã chịu ảnh hưởng tích cực của Trung-hoa. Họ chỉ biết, chỉ hiểu qua Trung-hoa, theo Trung-hoa và theo một cách lâu dài. Đối với giai cấp này, điều cần nhất là phải chuyển hướng giáo dục. Vấn đề này sẽ giữ mãi như thế, bao lâu tình trạng hiện tại còn kéo dài, bao lâu người Tàu còn nắm giữ vai trò ưu thế ở đây, và bao lâu chưa thay thế chữ Hán bằng chữ Quốc ngữ cho mọi sự sử dụng thường ngày và tiếng Pháp được xem như là thượng tầng cơ sở giáo dục [9, tr. 79] Trong “Báo cáo của toàn quyền Sarraut” ngày 15/9/1917 tại Hà Nội cũng đã nhấn mạnh đến những ảnh hưởng xấu của văn hóa Trung Hoa đến công cuộc cai trị và bảo hộ của thực dân: Mới đây, một trong những cộng tác viên của tôi sau khi viếng thăm các tỉnh ở bắc Trung-kỳ đã xác nhận rằng các gia đình nho sĩ chỉ có trong tủ sách của họ các tác phẩm ngoại quốc phổ biến ở đây đều không nói gì đến Pháp hoặc chỉ giữ những lời phẩm bình bất lợi cho Pháp. Và những tác phẩm của Khang Hữu 13
  13. Vi tiếp tục được mến chuộng nhiều và lưu hành trong thuộc địa, mặc dù có những sự cấm đoán của chính phủ về việc nhập cảng các loại sách Trung – hoa… [9, tr. 85] Giáo dục Hán học bị triệt tiêu, các trường học Pháp – Việt chưa thể tức thời tạo ra một đội ngũ trí thức mới, và cũng để tranh thủ các nhà cựu học mang tinh thần ái quốc nên đã hình thành xu thế khuyến khích số này chuyển sang môi trường hoạt động văn hóa mới. Bên cạnh đó, Pháp đưa ra những chính sách về báo chí nhằm giới thiệu phổ biến văn hóa phương Tây, và nhằm tạo nên một sức hút mới, một mối quan tâm mới cho độc giả nói chung và tầng lớp trí thức đầu thế kỉ XX nói riêng. Sự xuất hiện của báo chí kéo theo một loạt các cơ sở vật chất cần thiết như: nhà in, nhà xuất bản,… ngày càng đầy đủ, dồi dào. Không chỉ tập trung ở hai thành phố lớn là Sài Gòn, Hà Nội mà ở cả các thành phố khác như Hải Phòng, Đà Nẵng, Nam Định, Vinh… cũng có nhà in và nhà xuất bản. Năm 1861 bắt đầu xuất hiện xưởng in Tipô, với bốn công nhân đưa từ Pháp sang. Nghề in chữ đúc này du nhập vào Việt Nam (tại Sài Gòn), đi theo đạo quân của tướng Bonard. Ấn phẩm đầu tiên là tờ Công báo của quân đội viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ (Bulletin officiel de Léxpetion de la Cochichine 1861). Năm 1865 xuất hiện một nhà in khác của chính quyền Pháp, in tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ: GĐB. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Việt Nam đã có một hệ thống các nhà in phần lớn của tư bản Pháp như: Imprimerie Impériale (Nhà in Hoàng gia) năm 1867, Imprimerie C. Guillaud et Martinon năm 1883, Imprimrie Mission năm 1884, Imprimerie Réy et Curiol năm 1886 đều ở Sài Gòn… Nhà in Viễn Đông (IDEO) năm 1905 là nhà in sớm nhất của Hà Nội, rồi đến nhà in Nordemann (1905), nhà in Đông Kinh (1907)… Bên cạnh hệ thống nhà in là nhà xuất bản, tiêu biểu như: Chân Phương, Nam Ký… đã có công không nhỏ trong việc xây dựng nền báo chí và văn học 14
  14. mới của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Báo chí, nhà in, nhà xuất bản lần lượt ra đời đã thúc đẩy phong trào viết văn, bắt đầu là văn báo chí và đem lại sự kích thích bước đầu cho cả hai phía: người viết và người đọc. Ở các nước trên thế giới, báo chí vốn chỉ là phương tiện thông tin. Trong Văn minh tân học sách cũng đã nói về điều này rất rõ: Các nước đặt ra báo chí có những danh mục như nhật báo, tuần báo, nguyệt san và bán nguyệt san. Thể tài thì chia ra chính trị, tin tức, thời sự, quảng cáo… Phàm việc trong việc ngoài, sáng chế mới, tình hình thương mại, cho đến pháp luật, mà y học, nông, thợ thuyền, thương gia, chẳng giới nào là không có báo. Pháp có hơn 1.230 báo quán, Đức có hơn 2.350 báo quán, Mỹ có hơn 14.150 báo quán, Nhật-bản không quận nào là không có báo quán. Trung Quốc gần đây cũng mở báo rất nhiều. Dân trí sở dĩ được mở mang là chính nhờ đó [11, tr. 80] Như vậy, có thể nhận thấy tầm quan trọng của báo chí trong việc truyền tải thông tin như thế nào. Nhưng đối với Việt Nam, báo chí lại có một vai trò quan trọng trong việc hình thành dòng văn chương mới. Thiếu Sơn trong Phê bình và Cảo luận đã nói: “Trong những nước văn minh, văn học ra đời trước báo chí, nhưng ở Việt Nam, chính báo chí đã tạo nên nền văn học hiện đại”. Trong hồi ký của Nguyễn Công Hoan khi thuật lại bầu không khí văn chương thời ông mới bước vào công việc viết văn cũng nhấn mạnh điều này: “Trước kia, người viết văn ra làm báo, và trong khi làm báo, vẫn viết văn. Báo nào cũng có đăng văn chương, nên văn chương ra đời bằng con đường của báo chí. Chưa có báo chí thuần túy về văn chương, cũng chưa có nhà xuất bản in những sách văn học” [17, tr. 54], rồi: “thời đó, người ta lẫn lộn nhà báo với nhà văn, cũng như nhà văn với nhà báo” [17, tr. 54]. Nhà văn của thời kỳ này đối diện với trang báo đồng thời với trang giấy viết văn. Vẫn là Nguyễn Công Hoan viết: “Báo ra đời nhiều dần là miếng đất tốt cho việc gieo hạt văn chương” [17, tr. 91]. Huỳnh Văn Tòng trong Lịch sử báo chí Việt Nam cũng 15
  15. đã nhận xét: “Ta thấy rằng văn học Việt Nam hiện đại thoát thai từ báo chí, khác với trường hợp ở các nước Tây phương là văn học đẻ ra báo chí” [11, tr. 238]. Huỳnh Văn Tòng cũng nêu một nhận xét then chốt về vai trò báo chí trong nền văn học đầu thế kỷ XX: “Khi nghiên cứu văn học hiện đại, chúng ta hẳn chú ý rằng đa số các tác phẩm văn học đều đăng trước nhứt trên mặt báo, sau đó mới in thành sách. Bởi vậy, theo thiển ý chúng tôi, muốn nghiên cứu văn học hiện đại, ta nên xem qua lịch sử báo chí. Các nhà văn nổi tiếng lúc bấy giờ thường dùng báo chí để đăng tải lần hồi các tác phẩm văn học do họ sáng tác” [11, tr. 238-239]. Phạm Quỳnh trong bài “La Presse annamite” [Báo chí Annam] trên Nam phong số 107, tháng Bảy năm 1926 cũng viết: “Văn học hiện đại của chúng ta chỉ xuất hiện từ sau khi có báo chí ra đời. Những tác giả đầu tiên của những tác phẩm được viết bằng chữ quốc ngữ đều được đào tạo trong môi trường báo chí” [11, tr. 69]. Những tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của được đăng trên GĐB đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền văn học Việt Nam trong giai đoạn đầu. Những nhà báo, nhà văn đầu tiên đã góp phần đắc lực vào việc phát huy nền văn học Việt Nam và chính lịch sử văn học Việt Nam đã đi đôi với lịch sử báo chí. Thời kì sau này, hai tờ báo quan trọng nhất đã góp phần vào việc xây dựng nền văn học Việt Nam là: ĐDTC và NPTC. Nguyễn Sỹ Tế đã gọi ĐDTC là “cơ quan văn học đầu tiên bằng chữ quốc ngữ” [21, tr. 57], dù ĐDTC hay NPTC đều không thể coi là thuần túy văn chương được, nhưng rất nhiều chuyên mục trên báo đã xoay quanh vấn đề này: “viết bài khảo cứu và bình luận về văn học, phiên âm và dịch nghĩa các sách cũ, sưu tập các thơ văn cổ, in các sách quan trọng…” [21, tr. 189]. Một điều rất mới mẻ mà báo chí đưa lại cho công chúng và đời sống văn học đầu thế kỷ XX đó là dịch thuật. Có thể nói trước đây, trong một nền văn 16
  16. hóa sử dụng chữ Hán vay mượn làm văn tự chính thức và chưa có các quan hệ với những nền văn hóa khác, dịch thuật chưa bao giờ là một hoạt động thực sự. Chủ trương dùng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán của chính quyền thực dân đầu thế kỷ XX thành nguyên nhân chính thúc đẩy dịch thuật phát triển. Sự thay đổi văn tự đã cho phép phổ biến trong dân chúng nền văn học mới, nền văn học chữ quốc ngữ cùng với những tư tưởng, những học thuyết Tây phương thông qua con đường dịch thuật. Những bài dịch từ thơ văn của Pháp và Trung Hoa sang quốc ngữ lần lượt được đăng trên những mục nói về văn chương trên các số báo vào những ngày cố định trong tuần. Chưa bao giờ dịch thuật bao gồm dịch từ Pháp sang Việt và từ văn chương truyền thống sang chữ quốc ngữ lại phát triển rầm rộ như thời kì này. Công lao dịch thuật của các tác giả hồi đầu thế kỷ XX như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục… đã được Vũ Ngọc Phan xác nhận khi nhận xét về ĐDTC: “Người ta có thể lấy ra từ trong ĐDTC tất cả những điều rất tốt của nền văn minh Trung-hoa cũng như những tư tưởng Tây phương hiện đại, nói khác đi, ĐDTC có thể cung cấp cho người Việt-nam những gì mà họ cần cho nền văn hóa mới của họ” [11, tr. 120]. Những tư tưởng về Tây phương, hay những điều tốt của nền văn minh Trung Hoa được mang lại là nhờ vào công việc dịch thuật trên báo chí. Vì thế vai trò của báo chí cùng với văn tự mới là chữ quốc ngữ đã góp phần quan trọng rất lớn trong việc thay đổi môi trường văn hóa xã hội đầu thế kỉ XX. Những yếu tố vừa trình bày ở trên không chỉ cho chúng ta cái nhìn chung về bối cảnh văn hóa đầu thế kỷ XX mà còn cho phép hình dung về báo chí cùng với vai trò của nó trong việc nhen nhóm lên một nền văn chương mới. 1.2. Báo chí Việt Nam trước ĐDTC 17
  17. Báo chí du nhập vào Việt Nam cùng với quá trình chinh phục và thực dân hóa Đông Dương của người Pháp. Xuất phát từ nhu cầu sinh hoạt văn hóa của họ ở thuộc địa và nhu cầu thực tiễn cần có cơ quan ngôn luận làm cầu nối giữa người đi chinh phục và người bị chinh phục, chính quyền thực dân đã xuất bản báo chí ở Việt Nam ngay sau những ngày đặt chân lên vùng đất này. Tiếp đó trong văn thư đề ngày 9-5-1865 của viên Thống đốc chỉ huy trưởng Nam Kỳ là G. Roze gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp đã nêu rõ dụng ý của chính phủ Pháp trong việc thành lập tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam: Tờ báo này (tức GĐB) nhằm phổ biến trong giới dân bản xứ tất cả những tin tức đáng cho họ lưu ý và cho họ có một kiến thức về những vấn đề mới có liên quan đến văn hóa và những tiến bộ về ngành canh nông. Những viên thanh tra đặc trách về những công việc của người dân bản xứ đã cho tôi biết rằng tờ GĐB đã được dân chúng ủng hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương những em bé biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe. Như vậy tờ báo này xuất bản mỗi tháng một lần sẽ là một sự hữu ích không thể chối cãi được và nó sẽ góp phần vào việc thay thế chữ của chúng ta và chữ Hán, một thứ chữ mà chỉ có một thiểu số quan lại hiểu biết mà thôi. [11, tr. 55] Đầu tiên người Pháp cho phát hành hai loại báo: báo chí bằng tiếng Pháp và báo chí bằng chữ Hán. Loại thứ nhất dành cho những độc giả người Pháp và những người Việt biết tiếng Pháp; và loại thứ hai nhằm vào những quan lại bản xứ, nhà nho... Tờ báo tiếng Pháp đầu tiên là tờ Le Bullelin Officiel de l’expedition de la Co-chinchine (Công báo của đội quân viễn chinh Nam Kỳ) do đô đốc Bonard làm chủ nhiệm ra đời ngày 29-9-1861 ở Nam Kỳ. Đối tượng phục vụ của những tờ công báo đầu tiên này là người Pháp ở thuộc địa cùng một bộ phận nhỏ nhân viên bản xứ làm việc trong bộ máy cai trị và những cơ sở dân sự. Nội dung của các tờ công báo này đăng những nghị định, công văn đạo luật, các chỉ thị, các bài diễn văn phát ra từ Soái phủ Nam Kỳ. 18
  18. Đồng thời để hướng ảnh hưởng vào đội ngũ quan lại người Việt nên cùng với báo tiếng Pháp, thực dân cũng đã cho xuất bản báo chữ Hán. Những tờ như Nam Kỳ viễn chinh công báo hay Xã thôn công báo (xuất bản ở Nam Kỳ) đều bằng chữ Hán. Đến năm 1893, báo chữ Hán có mặt ở Bắc Kỳ: tờ Đại Nam đồng văn nhật báo hướng đến đối tượng chính là nhà nho và “chỉ phát hành trong quan giới”. Báo in bằng hai thứ chữ Hán và quốc ngữ xuất hiện với tờ Đại Việt tân báo và ĐCTB (1907) là một bước tiến về mặt ngôn ngữ để thông tin xâm nhập sâu rộng hơn trong giới quan lại người bản xứ. Bên cạnh đó, nằm trong chiến lược văn hóa nô dịch của thực dân nhằm đẩy lùi ảnh hưởng của Hán học, báo chí quốc ngữ cũng sớm được triển khai. Tờ báo tiếng Việt đầu tiên là GĐB, ra mắt ở Sài Gòn ngày 15-4-1865 do chủ bút đầu tiên là người Pháp, sau đó là sự xuất hiện của một loạt các tờ báo khác như: Thông loại khóa trình, NCMĐ, LTTV… Điều đó thể hiện qua việc báo chí tiếng Việt không ngừng tăng lên với sự phong phú và đầy đủ về mặt chủng loại với tất cả những hình thức thể tài của báo chí như: nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san… Để hiểu thêm nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự ra đời của báo chí quốc ngữ đầu thế kỷ XX nói chung và ĐDTC nói riêng, có thể căn cứ vào nhận định của nhà cầm quyền Pháp Sestier về mối nguy hiểm do sách báo Trung Hoa gây ra và đề nghị biện pháp đối phó trong một tờ trình năm 1912 như sau: “Thay thế cho những tin tức xâm nhập vào xứ này bằng con đường báo chí Trung-hoa, chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất là nên có ngay ở xứ nầy một tờ báo An-nam mà trong đó, mỗi một sự kiện lý thú sẽ được trình bầy thực thà rõ ràng, kèm theo một sự giải thích cụ thể trong mức độ cần thiết và những lời bình luận hợp pháp” [20, tr. 136]. Sestier còn định rõ quyền hạn của những người cầm bút dịch thuật cộng tác với tờ báo là chỉ được “nghĩ và viết trong phạm vi tôn trọng chính phủ bảo hộ” [20, tr. 137]. 19
  19. Ngoài việc đặt cho báo chí nhiệm vụ làm tấm lá chắn để chống đỡ những ảnh hưởng của phong trào giải phóng dân tộc từ bên ngoài dội vào, thực dân còn đặt ra nhiệm vụ dùng báo chí để hướng dẫn dư luận bản xứ. Báo cáo của thống sứ Bắc kỳ Simoni ngày 12–3–1912 cho thấy rõ: … Tôi cho rằng thật là một việc tốn công vô ích và là một đường lối chính trị tồi ở xứ này khi muốn dập tắt tư tưởng và tình cảm của dân chúng An Nam đã thể hiện rõ rệt trong sự bàn luận về các vấn đề chính trị. Việc thành lập một tờ báo bằng tiếng An Nam không cần tính chất công báo hay nửa công báo, trình bày cho người đọc xứ này, dưới những hạn chế cần thiết những quyền lợi về tự do và độc lập để đáp ứng tình thế hiện nay một cách chắc chắn là một nhu cầu thực tế của dân chúng bản xứ… Hơn nữa chúng ta sẽ lợi hoàn toàn ở chỗ tờ báo bằng tiếng bản xứ đó mà họ sẽ chỉ dẫn cho họ một cách chính xác để khiến họ sẵn sàng chống lại sự tuyên truyền có dụng ý bất cứ từ đâu tới… Có thể coi những tờ trình như của Sestier là căn cứ để Simoni cho phép xuất bản tờ ĐDTC vào năm 1913. 1.3. Sự ra đời và hoạt động của ĐDTC 1.3.1. Sự ra đời và tôn chỉ của ĐDTC ĐDTC ra đời ngày 15-5-1913 tại Hà Nội. Người sáng lập và chủ nhiệm tờ báo này là nhà tư bản Pháp Schneider, người đã xuất bản tờ LTTV ở Nam Kỳ từ năm 1907, mà Phạm Quỳnh gọi là “cha Schneider”, ông tổ của báo chí ở Việt Nam. Schneider sang Việt Nam từ lâu, là người thân cận với các Toàn quyền từ thời Lanessan, có óc kinh doanh, lập được nhiều nhà in, cơ sở ấn loát báo chí tiếng Pháp và tiếng Việt. Ông khéo giao thiệp với các nhân vật lãnh đạo trong giới cầm quyền thực dân nên hầu như được độc quyền trợ cấp hoặc giúp đỡ chuyển báo, mua báo qua những hợp đồng ký với nhà cầm quyền thực dân trong đó ông cam kết thực hiện những đường lối của thực dân Pháp. Schneider trở thành một nhân vật có thế lực, ảnh hưởng nhất đối với 20
  20. giới báo chí lúc đó và thực sự trở thành “cai thầu trên lĩnh vực văn hóa , trước hết là báo chí” [20, tr. 137]. Sau khi thành lập nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp, tiếng Việt ở Nam Kỳ, Schneider ra Bắc và được chính phủ bảo hộ đồng ý cho xuất bản tờ ĐDTC với sự cộng tác của Nguyễn Văn Vĩnh xuất thân từ trường Thông Ngôn làm chủ bút. ĐDTC được coi là một “chi nhánh” của tờ LTTV ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ở đầu trang nhất dưới tên báo ĐDTC ghi rõ dòng chữ Pháp: “Edition spéciale du Lục tỉnh tân văn pour le Tonkin et l’Annam” (Ấn bản đặc biệt của LTTV cho Bắc Kỳ và Trung Kỳ). Trên thực tế, chủ trương này của chính quyền thực dân “gặp gỡ” và tiếp tục một trong những đường hướng của phong trào Duy tân do các chí sĩ yêu nước dấy lên những năm đầu thế kỷ XX. Trong Văn minh tân học sách - Cương lĩnh hành động của ĐKNT - đã dành một phần quan trọng nói về vấn đề báo chí. Theo các nhà Duy tân, báo chí có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí đối với đại chúng. Một mặt báo chí phải góp phần “phá tan được cái giới câu nệ, tối tăm”, mặt khác phải góp phần truyền bá những tri thức mới về khoa học, công nghệ, chính trị, xã hội để “loại trừ những kẻ cố chấp mù quáng, để gieo vào đầu óc dân ta tinh thần khoa học và óc tiến thủ”... Việc cổ vũ, khuyến khích cho việc xuất bản và phát triển báo chí ở Việt Nam được biện luận và dẫn dụ rất cụ thể: Thiết tưởng ở kinh đô ta cũng nên đặt một tòa báo, lựa lấy một vị đại thần làm chủ, lựa một số nhân sĩ sung vào nửa viết bằng chữ nước ta (tức chữ quốc ngữ), nửa viết bằng chữ Hán. Bao nhiêu phép tốt, ý hay, nghề lạ, ngón khéo của Âu Mỹ, cùng là những việc xưa nay ở nước ta, hoặc những lời và việc tìm được trong sách và đáng nêu làm kiểu mẫu, hoặc những bài thiết thực về thời sự góp nhặt được trong sách luận bài thi, hoặc có người đặc biệt trong đám nhân tài, hoặc có kỹ thuật mới có lợi cho nước ngoài và do giới công nghệ mới tìm ra; thì đều đăng hết lên báo để đồng nhân cùng biết. Giá báo thì tính rẻ, và cứ theo ngày đã định gửi cho các quan lại lớn, nhỏ trong ngoài; và các thôn các xã mỗi 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2