intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm thở Mai Văn Phấn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

48
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nêu lên một cách nhìn toàn diện về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm gần đây, thông qua ba tập thơ mới nhất được xuất bản của ông tính đến thời điểm này. Từ đó nhận diện phong cách cũng như vị trí của nhà thơ trong lộ trình thơ đương đại. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Đặc điểm thở Mai Văn Phấn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Văn Lân Hà Nội - 2015
  3. LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn GS. TS Lê Văn Lân, tôi đã thực hiện nghiên cứu đề tài: Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn. Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới thầy giáo GS. TS Lê Văn Lân, người đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này đồng thời giúp tôi có thêm nhiều hiểu biết, kiến thức mới trong quá trình học tập và làm việc sau này. Tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ở bên cổ vũ, động viên tôi hoàn thành luận văn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất nhưng do kinh nghiệm và kiến thức có nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo để tôi có thể hoàn thiện hơn trong các công trình nghiên cứu khoa học tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2015 Học viên
  4. MỤC LỤC: PHẦN MỞ ĐẦU:....................................................................................... 03 1. Lí do chọn đề tài:..................................................................................... 03 2. Lịch sử vấn đề: ........................................................................................ 05 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.......................................................... 12 4. Phương pháp nghiên cứu:........................................................................ 12 5. Đóng góp của luận văn:........................................................................... 13 6. Cấu trúc luận văn: ................................................................................... 13 CHƢƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ ĐƢƠNG ĐẠI 1.1. Quá trình đổi mới thơ đương đại: ........................................................ 14 1.2. Mai Văn Phấn và những chặng đường sáng tạo: ................................. 19 1.2.1. Những chặng đường sáng tạo thơ: .................................................... 19 1.2.2. Quan niệm nghệ thuật: ...................................................................... 27 1.3. Thơ Mai Văn Phấn trong xu thế cách tân của thơ đương đại: ............. 30 CHƢƠNG 2: CẢM QUAN THẨM MỸ VÀ CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN 2.1. Cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn: ..................................... 33 2.1.1. Cái đẹp: cội nguồn của sự sống: ....................................................... 34 2.1.2. Cái đẹp thuần Việt mang tính dân tộc:.............................................. 38 2.1.3. Cái đẹp mang tính tôn giáo: .............................................................. 43 2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn: .................................... 50 2.2.1. Một thế giới siêu nghiệm: ................................................................. 52 2.2.2. Con người – trung tâm của cái vô cùng: ........................................... 56 2.2.3. Cái tôi ý thức và vô thức: .................................................................. 59 1
  5. CHƢƠNG 3: NH NG ĐỘC ĐÁO VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN 3.1. Thế giới hình tượng và biểu tượng: ..................................................... 62 3.1.1. Biểu tượng đất đai, sông nước, cỏ cây: ............................................ 63 3.1.2. Biểu tượng ánh sáng, ban mai, ngọn lửa:......................................... 70 3.1.3. Hình tượng người mẹ, người tình: .................................................... 76 3.2. Cấu trúc bài thơ: ................................................................................... 79 3.2.1. Thể thơ: ............................................................................................. 79 3.2.2. Tổ chức đoạn thơ, câu thơ: ................................................................ 85 3.3. Ngôn ngữ thơ: ...................................................................................... 89 3.3.1. Ngôn ngữ thơ siêu thực: .................................................................... 89 3.3.2. Ngôn ngữ thơ giản dị, đời thường:.................................................... 92 PHẦN KẾT LUẬN: .................................................................................. 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO:.......................................................................... 97 2
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Trong bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng cần phải chủ trương khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận sự đa dạng để cho văn nghệ một khoảng đất rộng rãi hơn nữa. Chính bởi những đòi hỏi cần phải thoát ra khỏi một nền văn nghệ minh họa, thoát ra cái hành lang vừa hẹp vừa thấp đó, sự đổi mới và cách tân xuất hiện như một nhu cầu thiết yếu. Sau năm 1975, nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, đa dạng và phong phú về nội dung, mới lạ về mặt hình thức. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra các khuynh hướng nổi bật của thơ sau 1975 như xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc, xu hướng trở về với các tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật; xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực; xu hướng hiện đại và hậu hiện đại. Căn cứ vào những biểu hiện về quan điểm thơ, cách sử dụng thi ảnh cũng như cấu trúc văn bản thơ, có thể thấy dòng thơ sau 1975 vừa bảo tồn những giá trị thơ ca truyền thống lại vừa có những cách tân táo bạo. Tuy nhiên, ngay trong sự bảo tồn giá trị thơ ca truyền thống cũng bắt đầu manh nha những đổi mới cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật như trong thơ của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,… Khuynh hướng cách tân nổi bật lên là hai xu hướng: cách tân về nội dung, thể tài như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,… và cách tân về mặt hình thức ngôn ngữ thi ca như Dương Tường, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng… Theo khuynh hướng cách tân, người nghệ sĩ đi sâu khai thác những tầng vỉa của đời 3
  7. sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức chìm trong bản ngã, bản năng sống, giúp con người nhận ra diện mạo của mình từ những mảng mờ tối của tâm hồn. Cấu trúc thi pháp cũ bị phá vỡ, các nhà thơ đã rút bỏ “khả năng biểu vật, biểu thái, biểu niệm của thực từ, hư hóa thực từ bằng cách đẩy chúng vào cấu trúc mới, phát sinh nghĩa trong cú pháp hơn là nghĩa trong từ vựng, buộc chúng phải sống đời sống hư từ” [13; tr.140]. Khuynh hướng cách tân đã mang lại cho thơ một diện mạo hoàn toàn mới, phong phú và phức tạp. 1.2. Trong thời gian gần đây, thơ Mai Văn Phấn đã dần được giới nghiên cứu, phê bình nói riêng và độc giả nói chung đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ cái mới bao giờ cũng khó chấp nhận trong khi Mai Văn Phấn luôn coi sự cách tân thơ là phương châm sáng tạo nghệ thuật trong suốt hành trình sống cùng thơ ca. Chính ông cũng đã từng phát biểu rằng một thi sĩ đích thực phải là người phải biết làm ra những bài thơ biết phản bội mình. Nghệ sĩ phải là người liên tục vượt thoát qua những cuộc vong thân để hoàn thiện mình. Cho đến thời điểm này, Mai Văn Phấn đã tìm được một chỗ đứng vững chãi trên thi đàn Việt Nam. Thành công trong sáng tác của ông được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như Giải thưởng văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995; Giải thưởng cuộc thi thơ của báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập Bầu trời không mái che năm 2010. Với sức sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn liên tục cho xuất bản nhiều tập thơ ấn tượng, được giới thiệu tại nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, Anh, Pháp… đồng thời có nhiều tập thơ song ngữ phát hành trên hệ thống sách online Amazon. Thơ ông vừa đa dạng trong thể tài lại vừa sáng tạo trong lối diễn đạt. 4
  8. Vì những lí do trên, luận văn muốn đi sâu tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn, đặc biệt là những sáng tác của nhà thơ từ sau năm 2000 mà cụ thể ở ba tập Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó nhằm đưa ra một cách nhìn tổng quan về thơ ông trong giai đoạn hiện nay đồng thời thấy được những đóng góp của nhà thơ trong tiến trình cách tân thơ đương đại. 2. Lịch sử vấn đề: Mai Văn Phấn là một cây bút cách tân tiêu biểu trong dòng thơ sau 1975. Tác phẩm của ông từ khi xuất hiện đã thu hút sự chú ý của công chúng và giới nghiên cứu phê bình. Có thể nói, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá lớn, đa dạng ở nhiều thể loại như giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo luận, nghiên cứu, phê bình,… Tuy nhiên, theo như nhà thơ Đỗ Quyên cho rằng, trước Hội thảo thơ về Mai Văn Phấn diễn ra tại Hải Phòng vào ngày 15/05/2011 thì trong số 60 bài viết về thơ ông, hầu như chưa thấy các bài phê bình học thuật mà chủ yếu trong số đó là các bài viết mang tính chất điểm sách, giới thiệu chân dung nhà thơ hay những bài tranh luận chung chung, cảm tính hoặc mới chỉ đi vào khám phá một hoặc số ít phương diện đặc điểm nghệ thuật thơ ông. Từ đó đến nay, cũng đã có nhiều bài nghiên cứu, tiểu luận, tham luận đánh giá về vị trí và giá trị của thơ Mai Văn Phấn trong tiến trình thơ đương đại. Sau đây, tôi xin lược thuật lại một số công trình nghiên cứu, các ý kiến đánh giá, phê bình thơ Mai Văn Phấn: * Những bài nghiên cứu, đánh giá chung về thơ Mai Văn Phấn: Nhằm đánh giá đúng giá trị cũng như chỗ đứng của thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại, tháng 5/2013, một hội thảo thơ mang tên “Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” đã được tổ 5
  9. chức tại Hải Phòng. Tại đây, nhiều bài tham luận, nghiên cứu đã được trình bày. Nhà văn Đình Kính trong bài mở đầu tại Hội thảo đã nhấn mạnh: “Mai Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình tư duy thẩm mỹ mới và anh đã được đánh giá cao” [29; tr.6]. Khi khẳng định về tố chất người nghệ sĩ, Cao Năm đã không hề dè dặt trong việc đề cao bản lĩnh sáng tạo của một cây bút kiên định và giàu sức sống: “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo” [29; tr.18]. Trong bài Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo thơ, PGS. TS Đào Duy Hiệp có kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [29; tr.75]. Còn Trần Thiện Khanh lại đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của Mai Văn Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm chuyển đổi” [29; tr.501]. Đánh giá về những cách tân, đổi mới thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong bài viết Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ Hậu - hiện - đại đã nhấn mạnh: “Nếu có một nhà thơ nào đó đang luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ-tình-cổ-điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu-hiện-đại rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ- cách-tân” [29; tr.420]. Theo ông, mỗi bài thơ đều là một thể nghiệm mới, một phát hiện mới mang lại những bất ngờ từ mỗi câu thơ và ta không thể đoán định nhà thơ sẽ viết tiếp những gì ở câu thơ kế tiếp. 6
  10. Nhà thơ Thi Hoàng trong bài viết Cách tân như là đẩy thơ vượt qua tai họa đã cho rằng trên con đường dấn thân đi tìm nẻo khác cho thơ mình, cái nẻo càng ít dấu chân, thậm chí chưa có dấu chân ai đó càng tốt, Mai Văn Phấn đã dằn mình để cho sự mạo hiểm thắng sự sợ hãi và chấp nhận những đau xé, cơn đau siêu thực hành hạ anh có khi còn hơn những cơn đau hiện thực…. Tác giả bài viết cũng đã chỉ ra dưới bề sâu của tâm lý sáng tạo, Mai Văn Phấn đang cố gắng để không bị ràng buộc vào bất cứ một phương pháp sáng tác nào. Anh đã huy động cả hình thức và nội dung cùng ghé vai đưa thơ lên cao hơn cái nền chung của thói quen đọc thơ ở người đọc và hy vọng tìm ra thi pháp của mình. Trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, PGS.TS Hồ Thế Hà đã đưa ra quan điểm của mình: “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là một hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính người thơ mà anh tự gọi là “vong thân” tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một trạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động, không ngừng phá và thay” [29; tr.227]. Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới khó nắm bắt mà như nhà nghiên cứu Văn Giá trong bài viết Thơ sinh ra để nói về niềm hi vọng của con người đã khẳng định: “Bề bộn về số lượng: 370 bài. Bề bộn về ý tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên gọi được ra khuôn mặt của nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai” [29; tr.528]. “Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên niềm hi 7
  11. vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là còn khiến con người ta có quyền hi vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ nơi con người” [29; tr.529]. Nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lý thuyết nhân học vi mô trong nghiên cứu văn hóa và phê bình văn học, hai nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm đã cho ra mắt cuốn sách Mai Văn Phấn, hành trình thơ vào cõi khác (2015). Ở đây, hai tác giả đã có những nghiên cứu chuyên sâu về những chuyển biến tư tưởng, quá trình thay đổi nhận thức của bản thân tác giả và những tác động của nó đến thơ. Hai tác giả trẻ đã đưa ra những chú giải thơ Mai Văn Phấn, đi sâu lí giải hiện tượng thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn quan niệm về sáng tạo và sự diễn giải kinh nghiệm tri thức bằng lời đồng thời tổng kết hành trình thơ của nhà thơ trong khuynh hướng chung của nền thơ Việt Nam đương đại. Mục đích của cuốn sách mà tác giả muốn hướng đến là nhận diện đúng đối tượng, phê phán cái đúng, cái sai, đánh giá đúng đóng góp của nhà thơ trong sự phát triển của thơ đương đại. “Với Mai Văn Phấn, bằng những gì thơ ca đã trình diện, kháng cự khủng hoảng thơ bằng cách liên tục vong thân, phủ định chính mình để kiến tạo hệ hình thẩm mỹ khác” [13; tr.186]. “Từ kháng cự khủng hoảng thơ đến kháng cự khủng hoảng tư tưởng, hành trình thơ Mai Văn Phấn còn cho thấy khát vọng hướng đến tự do sống và sáng tạo. Sự vượt 8
  12. thoát liên tục để làm mới thơ, để được sống nhiều hơn vừa là thái độ với thơ vừa là thái độ đối với cuộc đời” [13; tr.186]. * Những bài nghiên cứu về ba tập Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó: Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó là những tập thơ mới nhất được Mai Văn Phấn giới thiệu đến người đọc. Sau đây, tôi xin điểm qua một số nhận định hay về giá trị và sức hấp dẫn từ ba tập thơ. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm trong bài Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến rũ người đọc không phải ở sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức tưởng tượng, những chồng chất đan cài, nồng hiện của hình ảnh và hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [29; tr.395]. Cũng trên tinh thần bàn luận về tập Bầu trời không mái che, Lê Vũ đã cho rằng: “Bầu trời không mái che, ba phần chia biệt nhưng là một thể thống nhất trong cái nhìn đậm màu sắc tâm linh của Mai Văn Phấn về thế giới mà nổi lên là mối quan hệ giữa thiên nhiên và người, giữa động và tĩnh, giữa sinh và tử, giữa tình và dục […] Mai Văn Phấn đã gói tất cả ý niệm của mình bằng kỹ thuật đồng hiện, chuyển dịch không/thời gian: ánh sáng và bóng tối, quá khứ và hiện tại, pha trộn những lát cắt ngày sống với nhịp điệu đêm nồng nàn… đồng thời chuyển dịch cái nhìn của cái tôi: khi thành kính, khi hưng phấn, khi lơ mơ, khi nghẹn ngào, khi mệt mỏi, lọ mọ chán với buồn, cả ngờ vực, sợ hãi, phân vân” [54] . 9
  13. Tập thơ Hoa giấu mặt đánh dấu một giai đoạn mới trong lộ trình thơ Mai Văn Phấn, là cách ông tìm về cội nguồn thơ Việt với những vần thơ ngắn gọn, câu thơ tối giản và hồn nhiên. Nguyễn Thị Bích Phụng khi nghiên cứu về cảm hứng hiện sinh trong tập thơ này đã nhận xét thơ ba câu trong Hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn có hình thức gần giống thơ Haiku của Nhật nhưng mang nội hàm, hồn cốt thuần phác thơ Việt và đã tạo những cảm thức hiện sinh đậm nét. Mỗi bài thơ ba câu của ông là ánh chớp trong đêm tối, vừa lóe sáng cho người đi nhận biết đoạn đường phía trước mà dấn bước; hoặc như vài ba đồ vật xếp lại gần nhau để gợi những liên tưởng về nhân sinh, nhân thế, về thiên nhiên vũ trụ…. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tâm trong công trình nghiên cứu Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác đã cho rằng tập thơ chính là sự trở về với niềm an nhiên của sự sống nguyên sinh trong lòng đời hôm nay, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm. Nghiên cứu về tập Vừa sinh ra ở đó, Lương Kim Phương trong bài viết Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng đã khẳng định mười tám bài thơ có thể lay động người đọc bởi một ý niệm: con người được liên tục tái sinh, hồi sinh, được sinh ra từ những vẻ đẹp bình dị quanh mình. * Những ý kiến trái chiều trong cách cảm về thơ Mai Văn Phấn: Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một cấu trúc phức tạp, đa diện và liên tục biến đổi. Bởi vậy, mỗi độc giả đều tự tìm cho mình một con đường riêng, một cách của riêng để bước vào lâu đài thơ ấy. Chính nhà thơ cũng kêu gọi khả năng đồng sáng tạo nơi bạn đọc. Bởi vậy mà dư luận thơ Mai Văn Phấn cũng xuất hiện nhiều ý kiến trái chiều. Bên cạnh những lời khen ngợi cũng đã xuất hiện nhiều lời chỉ trích, thậm chí phê phán cực đoan thơ Mai Văn Phấn. 10
  14. Đặc biệt, việc tập thơ Bầu trời không mái che được nhận giải thưởng cao nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 đã gây ra nhiều tranh luận. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cùng với nhiều đồng nghiệp của mình như Nguyễn Hiếu, Nguyễn Hữu Quý,… đều thống nhất tập thơ này của Mai Văn Phấn cùng với các tập thơ đoạt giải không phải các tập thơ hay mà rất tầm thường, thậm chí còn không phải là thơ. Đối với Mai Văn Phấn, mỗi người đọc đến với thơ ông đều tự xây dựng cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc đáo. Bài thơ được hoàn thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc về số đông độc giả tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin hãy coi như anh ta đã chết”. Vì vậy, không thể tránh khỏi những ý kiến trái chiều, những cuộc tranh luận, trao đổi về giá trị các tập thơ của ông. Điều đáng ghi nhận rằng, hướng các nhà nghiên cứu đánh giá cao thành tựu thơ Mai Văn Phấn vẫn chiếm ưu thế. Đồng thời nhiều tác giả trước đây đã có lời chê bai thơ ông thì sau này cũng đã có những đánh giá đúng đắn theo hướng tích cực. Những cách tân trong thơ Mai Văn Phấn dù có đôi chút khó hiểu nhưng đây là những đổi mới tích cực và đáng ghi nhận trong tiến trình thơ đương đại. Trên đây, tôi đã lược thuật những nghiên cứu đánh giá về thơ Mai Văn Phấn nói chung và ba tập Bầu trời không mái che, Hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó nói riêng. Mặc dù có nhiều bài nghiên cứu về đặc điểm thơ của ông nhưng tôi nhận thấy đây là những bài viết mang tính phổ quát, đánh giá chung cho cả một chặng đường thơ từ khi khởi nghiệp đến nay của nhà thơ mà chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào tìm hiểu cụ thể về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn từ sau khi ông nhận giải thưởng của Hội nhà văn năm 2010. Bởi vậy, thông qua luận văn này, tôi muốn đưa ra một cái nhìn cụ thể về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm đầu thập kỉ 10 của 11
  15. thế kỉ XIX thông qua khảo sát ba tập thơ Bầu trời không mái che (2010), Hoa giấu mặt (2012) và Vừa sinh ra từ đó (2013). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chọn Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn là đối tượng nghiên cứu. * Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm 2010, luận văn khảo sát các tập thơ: 1. Bầu trời không mái che, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2010. 2. Hoa giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2012. 3. Vừa sinh ra từ đó, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2013. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: * Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá những yếu tố cơ bản của đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong lộ trình thơ Việt đương đại. * Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp giúp người viết thống kê những thi liệu xuất hiện trong các tập thơ, từ đó đưa ra cách phân loại chúng một cách có hệ thống. * Phương pháp so sánh: Phương pháp giúp những viết nhận ra những đặc điểm nổi bật của thơ Mai Văn Phấn so với các nhà thơ khác, làm nổi bật con đường thơ mà nhà thơ đang đi. * Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhờ phương pháp này, người viết có khả năng đi sâu vào từ chi tiết để khám phá ra sự độc đáo của cấu trúc diễn 12
  16. ngôn đồng thời có cái nhìn tổng hợp để đúc rút ra những đặc điểm nổi bật trong thơ Mai Văn Phấn. 5. Đóng góp của luận văn: Luận văn nêu lên một cách nhìn toàn diện về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm gần đây, thông qua ba tập thơ mới nhất được xuất bản của ông tính đến thời điểm này. Từ đó nhận diện phong cách cũng như vị trí của nhà thơ trong lộ trình thơ đương đại. 6. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương: Chương I: Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại. Chương II: Cảm quan thẩm mỹ và cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn. Chương III: Những độc đáo về nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn. 13
  17. CHƢƠNG I: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG NG CHẢY THƠ ĐƢƠNG ĐẠI 1 1 Quá t nh đ i m i thơ đƣơng đ i: Khi bàn luận về sáng tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, nhà văn Nguyễn Tuân đã cho rằng: “Là người sống lỗi lạc, sống một cách đặc biệt không giống ai và không cho ai bắt chước mình. Chết là mang cả cái bản chính đi chứ không để lại một bản sao nào cả”. Lời phát biểu của Nguyễn Tuân đã nêu lên một quy luật tất yếu của sáng tạo văn học và nghệ thuật, luôn luôn độc đáo, luôn luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả một chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ cái ta của thơ cũ sang cái tôi nhỏ bé, mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm hưởng hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói riêng lại đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại và tạo nên những cá tính riêng độc đáo. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn đó là những hoang tàn, đổ nát của quê hương, là những đau thương của người mẹ “khóc vì những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói. Tổ quốc hôm nay Tuy gọi sống hoà bình Nhưng mới chỉ là trang thứ nhất Chúng ta còn muôn việc rối tinh 14
  18. (Nhất định thắng - Trần Dần) Một câu hỏi lớn đặt ra cũng là trăn trở của bao nhà thơ lúc đó: “Đất nước khó khăn này sao không thấm được vào thơ?” (Nhất định thắng - Trần Dần). Bởi vậy, thơ ca giai đoạn sau 1975 mà đặc biệt là sau công cuộc đổi mới đã có nhiều bước chuyển mình. Khác với thơ trước 1975, các nhà thơ tập trung hơn vào các giá trị thẩm mĩ của thơ. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước, trong vẻ hào hùng, tráng lệ mà còn được nhìn từ phía sau, từ những nỗi đau trĩu nặng và bao vết thương nhức nhối khó lành. Từ thời điểm hiện tại, nhà thơ có cái nhìn sâu xa về đất nước, về lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít những đau thương, bất hạnh. Ý thức nói về bi kịch nhiều hơn đã khiến thơ ít dần giọng điệu ca tụng dễ dãi mà chìm vào chiều sâu suy ngẫm của nhà thơ về nhân tình thế thái. Cùng viết về đất nước nhưng đã vơi dần những hân hoan, ngợi ca: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn! (Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi) Mà thay vào đó là những ngẫm ngợi của một người “nhìn từ xa... Tổ quốc”: Thời hậu chiến ta vẫn người trong cuộc xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày? (Nhìn từ xa... Tổ Quốc - Nguyễn Duy) Nếu như thơ trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết về những nỗi buồn thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước sự xoay vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát triển đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi buồn 15
  19. xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo, con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [25; tr.380]. Dòng thơ cách tân sau 1975 cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực phương Tây. Các nhà thơ đã đưa những yếu tố siêu thực, phi lý, phí tuyến tính của thơ hậu hiện đại phương Tây vào những bài thơ, bộc lộ những mảng khuất lấp của đời sống, những vùng mờ của tâm linh. Cái tôi không chỉ được tìm hiểu trong mối quan hệ với hiện thực, sự tương tác giữa cá nhân và hoàn cảnh mà còn được tìm hiểu trong cấu trúc quan hệ với chính nó. Thơ đi sâu vào tính độc đáo của thân phận, nhấn mạnh tính chủ thể hơn là khách thể. Nhà thơ không nhìn con người như là một sinh linh bé bỏng giữa vũ trụ mà coi đó chính là một tiểu vũ trụ, trung tâm của cái vô cùng. Tại đây, các nhà thơ đề cao lối viết tự động, có ý thức chống lại các quy tắc sẵn có trong thơ, khước từ sự có mặt của tư duy duy lý trong nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương đã nói về những điều mơ hồ, rối rắm trong lòng người bằng những câu thơ rối rắm, mơ hồ: Tiếng nói của em màu lam chuyển dần sang màu lục Và cuốn lên một cái cây chưa tỉnh táo Cuốn lên những quả chuông reo vang trận mưa rào Ngân nga giọng của trăng sao (Em vào hoa) Đoạn thơ trên không tuân thủ trật tự cấu trúc cú pháp thông thường với cách tổ chức ngôn từ lạ, hình ảnh chuyển hoá liên tục từ trạng thái này sang trạng thái khác. Tuy nhiên, không phải nhà thơ nào sử dụng lối viết tự động để đi sâu vào thế giới tâm linh cũng được người đọc tiếp nhận. Thậm chí 16
  20. nhiều nhà phê bình đã lển tiếng phủ nhận và cho đây là những vần thơ rối rắm và vô nghĩa. Song, đây là những cách tân mới mẻ và cần được tôn trọng. Song song với những thay đổi về nội dung, hình thức thơ cũng có nhiều biến đổi linh hoạt để phù hợp với yêu cầu của nội dung. Các thể thơ truyền thống như lục bát, năm chữ, bảy chữ không còn ở dạng nguyên bản mà đã có sự biến thiên đáng kể về cấu trúc, nhịp điệu. Tính điệu nói được gia tăng và cấu trúc thể loại dựa vào nhịp nhiều hơn vần. Tính hiện đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của thơ tự do và thơ văn xuôi so với các thể thơ khác. Đứng trước những thay đổi lớn của văn học, thơ vừa tìm cách níu giữ những yếu tố hạt nhân mang tính thể loại, vừa mở rộng, biến đổi chính nó để thích ứng với yêu cầu và điều kiện môi trường văn hoá mới. Thực tế phản ánh rằng thơ hiện đại khó nhớ và khó thuộc hơn rất nhiều so với thơ ca giai đoạn trước. Không còn xuất hiện nhiều câu thơ mang tính vần điệu véo von mà thay vào đó là những câu thơ có phần khó hiểu, được viết theo lối viết tự động. Thơ hiện đại thường tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng này đôi khi không dễ nhận ra bằng cảm xúc và tư duy nghệ thuật thông thường. Các hình ảnh, hình tượng này đòi hỏi người đọc phải giàu trải nghiệm và khả năng tiếp nhận cái siêu nghiệm trong thơ. Đặc biệt, khi thơ cách tân sau 1975 có xu hướng đi sâu vào cái bản thể và coi con người như một tiểu vũ trụ cần khám phá. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực phương Tây, các nhà thơ không còn thuyết minh, giải thích nhiều mà để người đọc tự khám phá ý nghĩa nhân sinh ẩn sau cấu trúc thi phẩm. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm đã cho rằng quá trình giải mã thơ đương đại cũng chính là quá trình khai phá bản thân mình. Bởi vậy, người đọc phải bằng trải nghiệm của bản thân để tự tìm tòi và lí giải những phức tạp trong thể thơ và cấu trúc thi phẩm. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2