intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ trong sáng tác của Trần Tiêu

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

265
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ trong sáng tác của Trần Tiêu giới thuyết chung về văn hóa Việt Nam và văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ; văn hóa tổ chức đời sống làng xã trong sáng tác của Trần Tiêu, văn hóa làng xã qua tính cách nhân vật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ trong sáng tác của Trần Tiêu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Kim Nhật Thanh VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Kim Nhật Thanh VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN TIÊU Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BẠCH VĂN HỢP Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
  3. LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Bạch Văn Hợp - người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. Bình Dương, ngày 20 tháng 06 năm 2011 Tác giả luận văn Nguyễn Kim Nhật Thanh.
  4. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN........................................................................................................... 3 T 0 T 0 MỤC LỤC ................................................................................................................ 4 T 0 T 0 MỘT SỐ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY TRONG LUẬN VĂN .................................... 6 T 0 T 0 MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 7 T 0 T 0 1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................... 7 T 0 T 0 2. Giới hạn vấn đề ........................................................................................................... 8 T 0 T 0 3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 8 T 0 T 0 4. Đóng góp của luận văn ............................................................................................. 12 T 0 T 0 5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 13 T 0 T 0 6. Kết cấu luận văn ....................................................................................................... 13 T 0 T 0 CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN T 0 HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ................................................ 15 T 0 1.1 Văn hóa Việt Nam ................................................................................................... 15 T 0 T 0 1.1.1. Về khái niệm văn hóa ........................................................................................ 15 T 0 T 0 1.1.2. Những đặc trưng của văn hóa Việt Nam ............................................................ 16 T 0 T 0 1.2. Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ ............................................................. 18 T 0 T 0 1.2.1. Khái niệm vùng văn hóa .................................................................................... 18 T 0 T 0 1.2.2. Những nhân tố tác động tạo nên bản sắc văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc T 0 Bộ. .............................................................................................................................. 20 T 0 1.2.3. Những đặc trưng của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ.......................... 23 T 0 T 0 CHƯƠNG 2: VĂN HÓA TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG LÀNG XÃ TRONG SÁNG T 0 TÁC CỦA TRẦN TIÊU ......................................................................................... 28 T 0 2.1. Thiết chế xã hội ...................................................................................................... 29 T 0 T 0 2.1.1. Sự phân chia ngôi thứ ở làng xã......................................................................... 29 T 0 T 0 2.1.2 Lối ứng xử theo tục lệ, một biểu hiện cho tính tự trị ở làng quê. ......................... 32 T 0 T 0 2.2. Phong tục tập quán ................................................................................................ 33 T 0 T 0 2.2.1 Rước lão là sự thể hiện của truyền thống kính trọng người già trong xã hội nông T 0 nghiệp. ........................................................................................................................ 34 T 0 2.2.2. Tục khao vọng, với những biểu hiện quá mức nơi làng xã Bắc Bộ..................... 37 T 0 T 0 2.3. Văn hóa sinh hoạt .................................................................................................. 40 T 0 T 0 2.3.1. Sinh hoạt văn hóa tinh thần ............................................................................... 41 T 0 T 0 2.3.2. Sinh hoạt văn hóa vật chất ................................................................................. 62 T 0 T 0
  5. CHƯƠNG 3: VĂN HÓA LÀNG XÃ QUA TÍNH CÁCH NHÂN VẬT .............. 72 T 0 T 0 3.1. Lối sống đậm tình nặng nghĩa ............................................................................... 72 T 0 T 0 3.2. Sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận trong giao tiếp ........................................... 75 T 0 T 0 3.3. Đề cao vai trò người phụ nữ trong gia đình.......................................................... 79 T 0 T 0 KẾT LUẬN............................................................................................................. 87 T 0 T 0 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 90 T 0 T 0
  6. MỘT SỐ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY TRONG LUẬN VĂN Tài liệu trích dẫn được trình bày theo một số quy ước như sau: - Dấu ngoặc vuông ( [] ) và số ghi tên tài liệu và số trang được trích dẫn trong danh mục tài liệu tham khảo. Trong dấu ngoặc vuông ([]) luôn có hai chữ số cách nhau bởi dấu phẩy, số thứ nhất (từ trái sang) là chỉ tên tài liệu - theo thứ tự của nó trong danh mục tài liệu tham khảo, số thứ hai dùng để ghi số trang của tài liệu được trích dẫn. Ví dụ: trong trang thứ 3 của luận văn, chúng tôi có ghi [26, 790], trong đó, 26 là thứ tự của tài liệu “Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2), NXB KHXH, 1989” trong danh mục các tài liệu tham khảo, còn 790 là số trang của tài liệu đó. Trường hợp, trích dẫn một lúc nhiều trang liên tiếp, chúng tôi dùng dấu (-) đặt giữa các số trang. Ví dụ: trang thứ 31 của luận văn chúng tôi có ghi [31, 64 - 65]. Trong đó, 31 là thứ tự của tài liệu “Trần Tiêu, Sau lũy tre, NXB Đời nay, 1942”trong danh mục các tài liệu tham khảo; còn 64 – 65 là số trang của tài liệu đó. Phần trích dẫn in nghiêng và bỏ trong dấu ngoặc kép. (“ ”)
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trần Tiêu là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Song khác với những thành viên trong nhóm, Trần Tiêu đã chọn cho mình một hướng thể hiện riêng. Ông chuyên viết về nông thôn, cụ thể là hướng ngòi bút của mình về đời sống nơi thôn ổ. Trần Tiêu viết không nhiều, đề tài cũng không nóng bỏng như cách thể hiện của các nhà văn hiện thực đương thời. Có lẽ vì thế nên rất ít có những công trình nghiên cứu sâu sắc, cụ thể về văn nghiệp của Trần Tiêu. Người ta chỉ tìm thấy một vài dòng ngắn ngủi đề cập đến ông trong các chuyên luận, các bài phê bình, nghiên cứu về Tự lực văn đoàn, hoặc trong các giáo trình lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nói chung. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng “nội dung hiện thực, ý nghĩa xã hội” trong các tác phẩm của Trần Tiêu “còn bị hạn chế về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ông chưa đề cập được mối mâu thuẫn đối kháng ở nông thôn, chưa phản ánh được cuộc sống bị áp bức bóc lột tàn tệ của người nông dân.” [14, 437] Chúng tôi thiết nghĩ, để đánh giá một tài năng văn chương không phải chỉ căn cứ vào đề tài. Cái cốt yếu để tạo nên một phong cách, một tài năng văn học thực sự chính là ở tâm huyết của người cầm bút. Viết cái gì? Viết như thế nào? Viết để làm gì? Luôn là những câu hỏi đặt ra đối với những người cầm bút. Thực tế có nhà văn sáng tác không nhiều nhưng trên mỗi trang viết ấy đã để lại những dấu ấn trăn trở, những tâm huyết mà tác giả muốn sẻ chia cùng bạn đọc. Trần Tiêu thuộc mẫu nhà văn như thế! Mặc dù sáng tác không nhiều nhưng với một lối văn giản dị, hàm súc, cách xây dựng cốt truyện đơn giản, chặt chẽ, với những tình tiết nhẹ nhàng và nghệ thuật miêu tả chân thực, các tác phẩm của Trần Tiêu thực sự là những trang viết sâu sắc, gợi cảm về cuộc sống của người nông dân sau lũy tre làng với những lề thói, phong tục, những sinh hoạt về cả vật chất lẫn tinh thần của họ, mang đậm dấu ấn văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tất nhiên ở đó có cả những điều hay lẫn điều dở. Nông thôn Việt Nam hiện lên trong sáng tác của Trần Tiêu “tồn tại cụ thể với đơn vị làng” (chữ dùng của Hà Minh Đức). Cho đến nay, tác phẩm của Trần Tiêu vẫn có một vị thế nhất định trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thực hiện đề tài “Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của Trần Tiêu”, chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói nhằm khẳng định vị thế của nhà văn trên văn đàn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
  8. 2. Giới hạn vấn đề Trần Tiêu viết không nhiều nhưng lại đa dạng về thể loại. Bên cạnh những tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn viết về nông thôn, ông còn biên soạn một số sách giáo khoa như: Tập đọc quốc văn lớp 3 và lớp 4. Ông sáng tác cả trong hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu những sáng tác trước Cách mạng tháng Tám của Trần Tiêu, cụ thể là những tác phẩm: Sau lũy tre, Con Trâu, Chồng con, và Truyện quê... Qua đó để làm nổi bật những biểu hiện của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của nhà văn này. 3. Lịch sử vấn đề So với những nhà văn cùng thời, đặc biệt là các thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, thì rõ ràng Trần Tiêu viết không nhiều, thậm chí có thể nói là không đáng kể và ngay cả việc thẩm định, đánh giá về văn nghiệp của ông cũng ít được đề cập đến một cách hệ thống. Mãi đến tháng 3 năm 2006, khi Vu Gia, nhà biên khảo văn học, người có nhiều công trình khảo cứu về văn chương Tự lực văn đoàn, cho ra mắt công chúng cuốn “Trần Tiêu nhà văn độc đáo của Tự lực văn đoàn” thì lần đầu tiên văn nghiệp của Trần Tiêu mới được tìm hiểu toàn diện bằng một công trình nghiên cứu khoa học dày dặn, công phu, hệ thống. Tuy nhiên, ngay khi những tác phẩm đầu tiên của Trần Tiêu ra đời, trong các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, có thể chỉ qua một vài dòng ngắn gọn, ít ỏi, các nhà nghiên cứu, phê bình đã ít nhiều đề cập đến sự đóng góp của tác giả này. Trước Cách mạng tháng Tám: Vũ Ngọc Phan có thể xem là người sớm nhất có công trình nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Trần Tiêu. Trong cuốn “Nhà văn hiện đại” nhà nghiên cứu này nhận xét: “Trần Tiêu là một nhà tiểu thuyết chuyên viết về dân quê. Người ta đã tưởng ông viết riêng về cách sinh hoạt, về sự sống của con người Việt Nam ở nơi đồng ruộng, nhưng đọc kĩ những tiểu thuyết của ông, người ta mới thấy ông chuyên chú vào phong tục người dân quê nhiều hơn là cuộc sống nghèo nàn và không tổ chức của họ”. [26, 790] Và từ nhận định về nội dung thể hiện trong sáng tác của Trần Tiêu, Vũ Ngọc Phan đã xếp tác giả này vào nhóm nhà văn phong tục. Ông còn chỉ rõ: “Người dân quê dưới ngòi bút của Trần Tiêu bao giờ
  9. cũng là người dân quê nghèo khổ và mê tín. [...] Trần Tiêu là nhà văn cho thấy mặt kém cỏi của người dân quê Việt Nam”. [26, 790] Sau Cách mạng tháng Tám: Thời kì trước đổi mới (trước 1986): Các nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, Trần Hữu Tá, Nguyễn Đăng Mạnh, ở mức độ khác nhau, đã viết về Trần Tiêu trong các công trình nghiên cứu của mình. Trước hết là Phan Cự Đệ, một nhà nghiên cứu thâm niên, người có nhiều công trình nghiên cứu về văn chương Tự lực văn đoàn, trong chuyên khảo “Tự lực văn đoàn, con người và văn chương”(1978) đã viết: “...Trần Tiêu hướng hẳn về nông thôn. Ông nói lên cái ước mơ suốt đời của người nông dân là có được một con trâu cày để làm ăn mát mặt hơn (Con trâu, 1939). Ông đi sâu vào những phong tục lễ nghi phiền phức, tranh nhau ngôi thứ ở nông thôn của bọn hào lí, kì mục sâu mọt, hiếu danh (Sau lũy tre, 1937). Ông thông cảm với nỗi khổ của người đàn bà nông thôn “hết khổ về chồng lại khổ về con”, suốt đời thầm lặng hy sinh (Chồng con, 1941)”. [11, 551] Nhận định trên của Phan Cự Đệ mới chỉ ra phạm vi hiện thực được phản ánh trong sáng tác của Trần Tiêu mà chưa nghiên cứu sâu sắc toàn diện văn nghiệp của Trần Tiêu. Trên tinh thần so sánh các sáng tác của Trần Tiêu với những nhà văn hiện thực đương thời, Trần Hữu Tá trong cuốn “Từ điển văn học” (1984), đã viết về Trần Tiêu với nhận xét: “Nội dung hiện thực, ý nghĩa xã hội của tiểu thuyết Con trâu cũng như trong các tác phẩm khác của Trần Tiêu còn bị hạn chế về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ông chưa đề cập được mối mâu thuẫn đối kháng ở nông thôn, chưa phản ánh được cuộc sống bị áp bức, bóc lột tàn tệ của người nông dân [...]. Tuy vậy, trong chừng mực nhất định, tác phẩm của ông vẫn nêu lên được hình ảnh của người nông dân hiền lương, chất phác và tình trạng vất vả lam lũ của những người lao động chân lấm tay bùn”. [14, 437] Theo chúng tôi, có thể nói, mặc dù không tập trung khai thác trực diện những áp bức, bóc lột của bọn cường hào, địa chủ,... đẩy đưa người nông dân lương thiện đến những “bước đường cùng”, hay nguy cơ “tha hóa” như trong sáng tác của các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, nhưng với việc nghiêng về phản ánh nỗi khổ cực trong đời sống tinh thần, với những ước mơ dẫu đơn giản nhưng không thể thực hiện được của những người dân cày do nếp sống cổ hủ và những hủ tục lạc hậu ở chốn thôn quê gây nên, Trần Tiêu đã có tiếng nói riêng trên văn đàn rất đáng trân trọng!
  10. Cùng trong thời kì này, khi viết lời giới thiệu cho “Tổng tập văn học Việt Nam” (tập 30A), (1985), Nguyễn Đăng Mạnh có nhắc đến Trần Tiêu và nhóm Tự lực văn đoàn một cách trân trọng như sau: “Thạch Lam... Trần Tiêu... với những trang tả cảnh, tả tình phát triển tâm lí, cảm giác một cách tinh tế trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực và tính nhân dân, các nhà văn trẻ của chúng ta đã tận dụng kinh nghiệm nói trên của các cây bút lãng mạn để bồi bổ cho mình khả năng tái hiện cuộc sống một cách phong phú và tinh vi hơn” [23, 16]. Cùng với việc khẳng định tài năng và sự đóng góp của nhóm Tự lực văn đoàn, Nguyễn Đăng Mạnh đồng thời đề cao cách miêu tả tâm lí, tả tình, tả cảnh và sự tái hiện cuộc sống của Trần Tiêu. Sau thời kì đổi mới (sau 1986): Giáo sư Hoàng Như Mai, khi viết lời tựa cho tập Chồng con nhân dịp tái bản (1988), đã viết “Ngày nay, số phận của những anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo, Thị Nở căn bản đã được thay đổi. Nhưng những vấn đề đặt ra trong Chồng con vẫn còn phải suy nghĩ, giải quyết”. [29, 1] Hà Minh Đức, trong “Khải luận về văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 – 1945”, đã viết về Trần Tiêu như sau:“với lối miêu tả chân thực về những cảnh sống và phong tục ở làng quê, và những trang viết sâu sắc, gợi cảm về đời sống gia đình [...]Trần Tiêu là nhà văn miêu tả rất thành công về phong tục. Nông thôn với ông tồn tại cụ thể với đơn vị làng và tác giả ít khai thác phía quan hệ giai cấp song người đọc có thể nhận ra bóng dáng của nó.” Từ đó ông kết luận: “Tác phẩm của Trần Tiêu còn là những tư liệu bổ ích về xã hội học một thời kì qua”. [12, 718] Các ý kiến này thực sự là những nhận định có giá trị về văn nghiệp của Trần Tiêu, nó gợi ra những vấn đề mới mẻ cho thế hệ sau mạnh dạn hơn trong việc tiếp tục nghiên cứu các tác phẩm của nhà văn này. Năm 1989, trong lời giới thiệu về tuyển tập “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945”, phần nhận xét về Trần Tiêu, tác giả Nguyễn Hoành Khung viết “Cảm hứng miêu tả phong tục ở Trần Tiêu lắm khi lấn át việc đi sâu vào đời sống và tâm hồn con người nên cây bút chuyên viết về nông thôn này chưa có được bức tranh xã hội có giá trị hiện thực cao như ở văn học hiện thực phê phán”.[21, 43] Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh trong cuốn “Về Tự lực văn đoàn”, cũng trên tinh thần so sánh Trần Tiêu với những nhà văn hiện thực đương thời, cụ thể là so sánh với Ngô Tất Tố, đã nhận định: “Chủ đề không sâu sắc, sức tố cáo không mãnh liệt, dữ dội bằng Tắt đèn (của Ngô Tất Tố). Nhưng ngòi bút tả thực chính xác và tỉ mỉ của Trần Tiêu cũng giúp hiểu thêm về người nông dân và nông thôn”. [40, 77]
  11. Năm 1999, Phạm Thế Ngũ, Thế Phong, Lê Thị Đức Hạnh, Nguyễn Quang Thắng,... trong các bài nghiên cứu về văn học giai đoạn 1930 – 1945, hoặc viết về Tự lực văn đoàn đều có nhắc đến Trần Tiêu. Những giá trị về nội dung, nghệ thuật trong sáng tác của Trần Tiêu đã được giới nghiên cứu, phê bình nhìn nhận, đánh giá toàn diện hơn. Phạm Thế Ngũ, trong “Việt Nam văn học giản ước tân biên” (1999)(tập 3), đã nhận xét “Trần Tiêu với một giọng bình dị và óc quan sát tỉ mỉ đi sâu vào những phong tục làng xã, khao vọng, đình trung, mua nhiêu, bán xã, cưới xin, tống táng và nếp sinh hoạt cùng tâm lí của người đàn ông (Con trâu, 1940) cũng như người đàn bà (Chồng con, 1942) ở nông thôn”. [25, 691] Trong cuốn “Từ điển tác gia Việt Nam” (1999), Nguyễn Quang Thắng cũng nhận định Trần Tiêu là nhà văn chuyên viết về “đề tài đồng ruộng, mô tả chân thực về đời sống của giới nông dân miền Bắc Việt Nam núp dưới bóng tre xanh, dầm mưa dãi nắng, chốn bùn lầy nước đọng”. [36, 1466] Ở bài “Trần Tiêu, nhà văn chân quê” trong “Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam”( 1999), nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh sau khi nhận xét về những đánh giá trước đây về Trần Tiêu đã đi đến khẳng định: “…Trần Tiêu đã miêu tả được phong tục, tập quán, sinh hoạt… của người dân quê, nhiều khi khá tường tận, tỉ mỉ, qua đó nổi lên những nhân vật tiêu biểu cho các lớp người ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và phần nào cho các làng quê Việt Nam nói chung”.[17, 233] Nhìn chung, các ý kiến này đều xếp Trần Tiêu vào kiểu “nhà văn chân quê”, chuyên viết về phong tục ở nông thôn. Năm 2004, công trình khoa học, luận văn thạc sĩ đầu tiên về Trần Tiêu với tên gọi “Văn xuôi nghệ thuật của Trần Tiêu giai đoạn 1930 - 1945” của tác giả Nguyễn Thanh Du (trường ĐHSP TP.HCM) như một bước mở đầu cho việc nghiên cứu sáng tác của Trần Tiêu ở tầm của một công trình khoa học chuyên sâu thực sự. Đến 2006, Vu Gia cho ra đời cuốn biên khảo “Trần Tiêu nhà văn độc đáo của Tự lực văn đoàn” như một lời khẳng định thêm – Trần Tiêu xứng đáng được nghiên cứu, đánh giá với tư cách của một tác giả văn học có vị trí và đóng góp cho văn học hiện đại Việt Nam. Theo nhà biên khảo này, “Viết về nông thôn ngày ấy không thiếu người, nhưng nếu nói nhà văn chuyên viết về nông thôn, hiểu đời sống người nông dân sau lũy tre xanh, theo tôi, không ai bằng Trần Tiêu” [16, 323]. Vu Gia khẳng định thêm: “Qua trang viết của ông,
  12. nhất là những trang viết về phong tục, chúng ta có thể thấy được cuộc sống lúc nào cũng thân thiết, tốt đẹp và sáng sủa, nhưng cũng luôn có bóng tối và thương đau” [16, 324]. Mặc dù các ý kiến trên đều đánh giá không cao về nội dung hiện thực trong tác phẩm của Trần Tiêu, thế nhưng dù ít nhiều, những ý kiến này đều nhận thấy, khi viết về nông thôn, Trần Tiêu luôn miêu tả đời sống sinh hoạt của những người dân quê sau lũy tre làng, nhất là những cảnh hội hè, đình đám, tế lễ, rước sách,... những mối tình giản dị, nên thơ của trai làng gái làng gặp gỡ nhau trong một đám hội, đêm chèo... Tất cả đều in đậm dấu ấn văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Theo chúng tôi, đây chính là những nét độc đáo riêng làm nên phong cách của Trần Tiêu cũng như sức sống lâu bền cho các tác phẩm của ông. Như vậy, bắt đầu từ ý kiến của Vũ Ngọc Phan (1942) đến công trình nghiên cứu của nhà biên khảo Vu Gia (2006) đã có mười mấy nhận định, đánh giá khác nhau về văn nghiệp của Trần Tiêu. Cùng nói về sự nghiệp sáng tác của một tác giả, có ý kiến cho là sâu sắc, người thì cho là chưa đủ độ sâu của chủ nghĩa hiện thực, có ý kiến lại phân vân chưa biết xếp Trần Tiêu vào xu hướng văn học hiện thực hay lãng mạn…Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy, điều mà các ý kiến trên đã làm được khi nghiên cứu về Trần Tiêu là: ở mức độ khác nhau, họ đều chỉ ra được những khía cạnh chính trong tác phẩm của nhà văn này ở việc miêu tả những lễ nghi phong tục, về sinh hoạt hội hè, đình đám,... ở nông thôn Việt Nam, vùng đồng bằng Bắc Bộ trước cách mạng tháng Tám. Chỉ tiếc rằng, những nhận định đánh giá ấy vẫn còn rời rạc, chưa được hệ thống thành các chuyên luận hoặc một công trình khoa học chuyên sâu thực sự về văn nghiệp của Trần Tiêu. Hệ thống lại các biểu hiện ấy, chúng tôi thấy trong sáng tác của Trần Tiêu có dấu ấn của văn hóa làng xã, cụ thể là văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đó chính là hướng mà chúng tôi muốn tiếp cận nhằm khẳng định giá trị các sáng tác và vị thế của Trần Tiêu trên văn đàn Việt Nam. 4. Đóng góp của luận văn Với mục tiêu trên, chúng tôi đi tìm hiểu về giá trị nội dung và những thành công về nghệ thuật trong sáng tác của Trần Tiêu để thấy rõ những đặc sắc của ông khi viết về đề tài nông thôn, cụ thể là vấn đề văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, đồng thời để thấy rõ thêm về văn hóa làng xã Việt Nam nói chung qua một thời kì của lịch sử dân tộc.
  13. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp lịch sử - cụ thể: Nghiên cứu vấn đề văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của Trần Tiêu, chúng tôi đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đời và các thời kì phát triển của nó để có cái nhìn, cách đánh giá đúng đắn, khoa học về giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả trong nền văn học nước nhà. 5.2. Phương pháp so sánh văn học: Chúng tôi sử dụng phương pháp này với mục đích muốn so sánh một số truyện ngắn, tiểu thuyết của các nhà văn cùng thời có gần phong cách và nội dung phản ánh với các tác phẩm của Trần Tiêu để làm rõ những vấn đề cần giải quyết. Và đồng thời qua đó, để nhận diện và khẳng định phong cách nghệ thuật của Trần Tiêu. 5.3. Phương pháp hệ thống: Luận văn nghiên cứu về văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của Trần Tiêu nên phải xuất phát từ từng tác phẩm, khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố trong một chỉnh thể nghệ thuật. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp hệ thống sẽ giúp cho người nghiên cứu tránh được nguy cơ nhận biết thiếu tính khái quát, chỉ thấy được cái bề ngoài không thấy được bản chất vấn đề. 5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp các kiến thức từ các lĩnh vực, các bộ môn, chuyên ngành có liên quan sẽ giúp cho vấn đề nghiên cứu được sâu rộng, toàn diện và sâu sắc hơn. 5.5. Phương pháp phân tích tác phẩm dưới góc độ thi pháp học. Các phương pháp trên sẽ được kết hợp sử dụng linh hoạt trong quá trình nghiên cứu, trình bày để làm sáng tỏ vấn đề. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn sẽ được tổ chức thành 3 chương như sau: Chương 1: Giới thuyết chung về văn hóa Việt Nam và văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ Nghiên cứu văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ trong sáng tác của Trần Tiêu, chúng tôi bắt đầu với việc xác định nội hàm của các khái niện: văn hóa Việt Nam và những đặc trưng của văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm cơ sở lí luận cho việc triển khai đề tài.
  14. Chương 2: Văn hóa tổ chức đời sống làng xã trong sáng tác của Trần Tiêu Trong chương này, người viết đề cập đến các nội dung: thiết chế xã hội, phong tục tập quán, văn hóa sinh hoạt trong sáng tác của Trần Tiêu, đây vốn là những vấn đề mang tính đặc trưng riêng trong đời sống cộng đồng làng xã Bắc Bộ. Qua đó để chúng ta có thể thấy được những nét đẹp của thuần phong mỹ tục, cũng như những hạn chế của các hủ tục lạc hậu đang đè nặng lên cuộc sống của người dân quê. Đó là những biểu hiện cụ thể của văn hóa làng xã trong phạm vi hiện thực được phản ánh trong sáng tác của Trần Tiêu. Chương 3: Văn hóa làng xã qua tính cách nhân vật Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Không chỉ dừng lại trên bình diện phản ánh đời sống xã hội nói chung, Trần Tiêu còn đi sâu miêu tả tính cách, tâm lí của người nông dân “chốn bùn lầy nước đọng”. Đó là những biểu hiện của văn hóa làng xã qua tính cách nhân vật trong tác phẩm của ông.
  15. CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VĂN HÓA LÀNG XÃ VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ 1.1 Văn hóa Việt Nam 1.1.1. Về khái niệm văn hóa Văn hóa là sức sống nội tại của mỗi dân tộc. Một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là biểu hiện cao nhất của tinh thần độc lập tự chủ, là tiềm năng sáng tạo vô hạn của dân tộc đó. Từ thế kỉ XIX, văn hóa thực sự đã trở thành đối tượng của việc nghiên cứu khoa học như dân tộc học, văn hóa học, xã hội học,… Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nhất quán về văn hóa. Văn hóa (Culture) là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu, cách lý TU 0 T 0 U giải khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Người TU 0 T 0 U ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như là lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hóa như một trình độ học vấn. Khi nói về vấn đề văn hóa, mỗi người có mỗi quan điểm khác nhau. Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa còn được hiểu là cách sống tức là phong cách ăn, ở, đi đứng, cách cư xử (với đồng loại, môi trường, với bản thân) và cả tín ngưỡng, đức tin, phong tục,… của một người hay cả tập thể người. Theo quan niệm của UNESCO: “Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần TU 0 T 0 U và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống và giá trị, tập tục và tín ngưỡng.” (38, 10) Theo Edouard Herriot, thì “văn hóa là cái còn lại khi ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”.[38, 1] Theo từ điển Tiếng Việt 1992, văn hóa được định nghĩa là “Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. [17,1079] Như vậy, với các định nghĩa này, nội hàm của khái niệm văn hóa được hiểu ở các cấp độ khác nhau:
  16. Thứ nhất, văn hóa được xem là văn học và nghệ thuật. Thứ hai, văn hóa được xem là lối sống (ngôn ngữ giao tiếp, ẩm thực, trang phục, cách cư xử…) là lòng tin, tín ngưỡng, phong tục… tức là hệ thống các giá trị tinh thần của một người, một nhóm người hay một cộng đồng, xã hội. Thứ ba, văn hóa được xem là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người và vì con người. Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu văn hoá theo hai nghĩa rộng và hẹp. Nghĩa rộng, văn hoá bao gồm các giá trị vật chất (văn hoá vật chất) và giá trị tinh thần (văn hoá tinh thần) do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử, mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được hiểu cụ thể như các ngành, lĩnh vực văn học, nghệ thuật, học vấn… Trong tất cả các định nghĩa về văn hóa, chúng tôi nhận thấy cách trình bày của Trần Ngọc Thêm là có ý bao quát nhất. Theo tác giả này, “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [37, 10] 1.1.2. Những đặc trưng của văn hóa Việt Nam Việt Nam là một đất nước giàu truyền thống văn hóa. Nét nổi bật khi nói đến văn hóa Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định: - Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. - Việt Nam là một nước nông nghiệp. Vì vậy, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa nông nghiệp, cụ thể là văn hóa nông nghiệp lúa nước. Trong đó, văn hóa làng xã là kết tinh đậm đặc những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam. Làng Việt Nam là một cộng đồng dân cư nông thôn của người Việt trên vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam đã có lịch sử mấy thiên niên kỷ. Đó là một thiết chế xã hội, một đơn vị tổ chức chặt chẽ của nông thôn Việt trên cơ sở địa vực, địa bàn cư trú; là sản phẩm tự nhiên phát sinh từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt; trồng trọt là điểm tập hợp cuộc sống cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú của người nông dân, ở đó họ sống, làm việc, quan hệ, vui chơi, thể hiện mối ứng xử văn hóa với thiên nhiên, xã hội và bản thân họ. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Làng, là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị hành chính thấp nhất trong xã hội phong kiến”. [17, 539].
  17. Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng quán quê hương. Hình ảnh làng quê Việt Nam có luỹ tre xanh, có mái nhà tranh, có người cày cấy đã trở nên rất thân thuộc trong tâm hồn người Việt Nam. Lật lại những trang sử của ngành kiến trúc Việt Nam, người ta thấy rằng kiến trúc Việt Nam ra đời rất sớm, có thể đã xuất hiện từ thời vua Hùng dựng nước, cách nay khoảng 4000 năm. Làng xóm cũng xuất hiện vào thời kỳ này. Làng Việt Nam là sự tích hợp của những gia đình với nhiều phương thức và quan hệ khác nhau, ít thì dăm bảy chục, nhiều thì bốn năm trăm hộ, có quỹ đất, tín ngưỡng và phong tục tập quán riêng. Làng là sự liên kết chặt chẽ dòng họ, giáp phe, phường hội… Các nhà kiến trúc cho rằng làng xã Việt Nam có tính quần thể cao, có kiểu kiến trúc đơn giản nhẹ nhàng phù hợp với khí hậu và tập quán của người Việt Nam. Làng luôn được bao quanh bằng những luỹ tre xanh, sau luỹ tre xanh đó là những mái nhà tranh ấm cúng, nơi cưu mang che chở cho con người. Làng Việt là một thành tố quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt Nam, nổi lên là gia đình (nhà) – làng – nước, với hai đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng và tính tự trị. Văn hóa làng Việt Nam là hiện tượng lịch sử cũng là hiện tượng dân tộc. Văn hóa làng vốn có từ ngàn xưa nhưng vẫn tồn tại đến ngày nay với sự ngưng kết đậm đặc biểu hiện trong lối sống, phong tục tập quán, kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng – tôn giáo…Văn hóa làng còn có cả một cơ sở vật chất là đình, chùa, miếu, lũy tre, bến nước, cây đa,… Tất cả “những yếu tố vật thể và phi vật thể trên không đứng đơn lập, rời rạc mà hòa quyện vào nhau, tích hợp lại thành bản sắc văn hóa làng, lưu truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau như một dòng chảy không bao giờ dứt”. [6, 10] Khi nói về văn hóa làng, một số nhà nghiên cứu đã nêu bật được ba đặc trưng của làng Việt Nam. - Ý thức cộng đồng, thể hiện ở ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng trong sản xuất bảo vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức... - Ý thức tự quản, quyền quản lý làng xã được thể hiện trong hương ước của làng. - Tính đặc thù độc đáo riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, thậm chí giọng nói và cả cách ứng xử. Trong đó văn hóa vùng đồng bằng Bắc bộ với bề dày lịch sử hình thành là biểu hiện rõ nét nhất cho văn hóa làng xã Việt Nam.
  18. 1.2. Văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ 1.2.1. Khái niệm vùng văn hóa Văn hóa vùng thuộc dạng thức văn hóa lãnh thổ. Văn hóa vùng (hay văn hoá địa phương) là một thực thể văn hóa, hình thành và tồn tại trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại vận chuyển; về cách tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong tục và lễ hội; về các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm lí của cư dân..., từ đó có thể phân biệt với các đặc trưng văn hóa của vùng khác. Những đặc trưng văn hóa đó hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài, do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện môi trường, có sự tương đồng về trình độ phát triển xã hội, đặc biệt là giữa họ có mối quan hệ giao lưu văn hóa mật thiết. Theo tác giả Ngô Đức Thịnh, “Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với vùng văn hóa khác”. [38, 99] Cũng theo tác giả này, cả nước ta có thể chia thành bảy vùng văn hóa. Đó là: - Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ bao gồm lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Đây là đồng bằng châu thổ thuộc loại lớn nhất nước ta, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi về đất đai và khí hậu, canh tác nông nghiệp từ lâu có truyền thống thâm canh, đào đê đắp điều làm thủy lợi để canh tác lúa và hoa màu, là cái nôi hình thành dân tộc và quốc gia, là trung tâm của các nền văn minh lớn văn minh Đông Sơn, văn minh Đại Việt. Tuy thống nhất về những đặc trưng chung nhưng văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ lại thể hiện qua sắc thái địa phương của các tiểu vùng văn hóa như: tiểu vùng Đất Tổ - Vĩnh Phú (Xứ Đoài), tiểu vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh (Xứ Bắc), tiểu vùng Thăng Long – Hà Nội, tiểu vùng duyên hải Đông Bắc (Xứ Đông), tiểu vùng trũng Hà Nam Ninh, tiểu vùng Hưng Yên – Hưng Nhân, tiểu vùng duyên hải Tiền Hải – Hải Hậu, tiểu vùng lưu vực sông Mã. Đồng bằng Bắc Bộ vốn là cái nôi hình thành của người Việt. Xét về văn hóa, thì đây chính là nơi đã sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển và nối tiếp nhau của lịch sử Việt Nam.
  19. Có thể nói, trong sự phong phú đa dạng của văn hóa Việt Nam thì đồng bằng Bắc Bộ, với lịch sử lâu đời của nó, có vị trí như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc. - Vùng văn hóa Việt Bắc gồm địa phận sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, nhưng xét về phương diện là vùng văn hóa thì Việt Bắc bao gồm cả phần đồi núi Vĩnh Phú, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Đây là vùng cửa ngõ, hành lang giao lưu văn hóa giữa nước ta với phía Bắc. Do vậy, bên cạnh những biểu hiện của văn hóa người Việt thì ở đây cũng thấy rõ những ảnh hưởng của giao lưa văn hóa Hán. - Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ là lãnh thổ rộng lớn thuộc địa phận các tỉnh Lai Châu, Sơn La, một phần của Hoàng Liên Sơn, một phần của Hòa Bình và miền núi Thanh Nghệ. Trong vùng hiện có hơn mười hai dân tộc cùng cư trú xen cài với nhau, nhưng trong đó tộc Thái có dân số đông, trình độ phát triển mọi mặt cao hơn và đang có những ảnh hưởng văn hóa đồng hóa với văn hóa các tộc khác, nhất là những tộc nói ngôn ngữ Môn – Khơ me. Có thể nhận biết sắc thái văn hóa địa phương từ loại tiểu vùng văn hóa và dạng văn hóa cảnh quan. Ở đây gồm ba tiểu vùng văn hóa: tiểu vùng văn hóa Tây Bắc, tiểu vùng văn hóa miền núi Bắc Trung Bộ (Thanh Nghệ) và tiểu vùng văn hóa hỗn hợp Thái – Mường, Mộc Châu – Thường Xuân. Về dạng văn hóa cảnh quan cũng gồm ba dạng: văn hóa cảnh quan thung lũng, văn hóa cảnh quan rẻo cao và văn hóa cảnh quan rẻo giữa. - Vùng văn hóa đồng bằng Duyên Hải Bắc Trung Bộ thuộc địa phận đồng bằng và duyên hải các tỉnh Nghệ - Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Với đặc điểm địa hình có sự xen kẽ, tiếp cận giữa núi, biển và đồng bằng đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của cư dân. Người Việt ở đây vẫn làm nông nghiệp là chính nhưng khác với đồng bằng Bắc Bộ, cư dân ở đây còn biết phát huy thế mạnh của rừng và biển, tạo thành thế vững chắc đồng bằng – rừng – biển. Có thể phân vùng văn hóa này thành hai tiểu vùng: tiểu vùng văn hóa Nghệ - Tĩnh và tiểu vùng văn hóa Bình – Trị - Thiên, ranh giới giữa chúng là Đèo Ngang. - Vùng văn hóa Duyên Hải Trung và Nam Trung Bộ bao gồm phần đất từ đèo Hải Vân ở phía Bắc đến Đông Nam Bộ ở phía Nam, nay thuộc địa phận các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận và Bình Thuận. Đây là vùng đất đã sáng tạo nên nền văn hóa đồng thau rực rỡ - văn hóa Sa Huỳnh. Từ thế kỉ XV, với quá trình Nam tiến của người Việt, nơi đây đã diễn ra quá trình giao lưu giữa người Chăm và người
  20. Việt. Sản phẩm của quá trình giao lưu, hòa hợp ấy đã hình thành ở hai tộc người này những nền văn hóa chung, thể hiện qua các phương thức canh tác, giống cây trồng, hệ thống thủy nông, nông cụ,… đến các hình thức thờ cúng, tín ngưỡng, âm nhạc, dân ca, truyện kể, lễ hội… Có thể phân chia vùng này thành hai tiểu vùng: tiểu vùng xứ Quảng và tiểu vùng Khánh Hòa – Ninh – Bình – Thuận. - Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên là địa bàn sinh sống của trên hai mươi tộc người nói các ngôn ngữ Môn – Khơ me và Nam Đảo. Từ thế kỉ XX, người Việt lên sinh cơ lập nghiệp trên Tây Nguyên ngày càng nhiều và đã hòa nhập vào cộng đồng các dân tộc ở đây. Đây là vùng văn hóa tuy thành phần tộc người rất phức tạp và đa dạng nhưng lại thống nhất về các đặc trưng văn hóa. Có thể phân chia vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên thành bốn tiểu vùng văn hóa, đó là: Trường Sơn, Bắc Tây Nguyên, Trung Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên. - Vùng văn hóa Gia Định – Nam Bộ thuộc địa phận các tỉnh Nam Bộ, hình thành trên vùng châu thổ của hai hệ thống sông chính là Cửu Long ở phía tây và sông Đồng Nai ở phía đông. Đây là vùng đất với lịch sử khai thác còn rất trẻ, càng về phía tây, đất đai càng rộng, nhiều rừng rậm và sình lầy, thủy triều ảnh hưởng sâu vào nội địa, đất đai còn bị nhiễm chua mặn, khí hậu với hai mùa mưa, khô rõ rệt. Nam Bộ là nơi sinh sống xen cài giữa các cộng đồng người Việt, Khơme, Chăm và Hoa, nơi đây, từ xưa đến nay đã và đang diễn ra quá trình giao lưu, ảnh hưởng văn hóa khá sống động giữa các tộc nói trên. Vùng văn hóa Nam Bộ cũng được chia thành tiểu vùng văn hóa đồng bằng sông Cửu Long và tiểu vùng văn hóa sông Đồng Nai. Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc. Cụ thể, văn hóa người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ là văn hóa lâu đời và tiêu biểu nhất cho văn hóa truyền thống dân tộc Việt, thể hiện qua đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng… . 1.2.2. Những nhân tố tác động tạo nên bản sắc văn hóa làng xã vùng đồng bằng Bắc Bộ. 1.2.2.1. Môi trường tự nhiên và các hoạt động sản xuất của cư dân. Đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta. Lấy vùng đồng bằng sông Hồng làm cơ sở, tuy được bao bọc bởi rừng và biển vịnh Bắc Bộ nhưng nó vẫn là vùng “xa
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2