LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang
lượt xem 12
download
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, xây dựng và lãnh đạo nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp và tên tuổi của Người gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là di sản vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang
- LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, xây dựng và lãnh đạo nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, sự nghiệp và tên tuổi của Người gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức và xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là di sản vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc ta, là cơ sở để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay - một nhà nước với hệ thống chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân từ Trung ương đến địa phương. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước ta đã phát huy trí tuệ sáng suốt và sức mạnh vô địch của toàn dân nhằm đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trên thực tế, chỉ lúc nào Đảng ta phát huy được trí tuệ sáng suốt, tập hợp được sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền nhà nước mạnh mẽ. Trái lại, chính quyền nhà nước trở nên yếu kém, kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng, trì trệ chính là khi đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội cùng phương thức quản lý nhà nước không đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi chính đáng lợi ích của đại đa số nhân dân, không khuyến khích được tài năng và trí tuệ của dân tộc. Đó là bài học đắt giá trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước qua mỗi giai đoạn lịch sử. Ngày nay, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã và đáng tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" nhằm xây dựng bộ máy chính quyền nhà n ước trong sạch, vững mạnh; trong đó công cuộc cải cách hành chính là một biện pháp quan trọng sẽ t ăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp trên thực tế. Vì vậy, nghiên cứu sự ra đời, nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và mối quan hệ của nó với công cuộc
- cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền nhà n ước trong sạch vững mạnh hiện nay là một công việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là nhiệm vụ đặt ra cấp bách cho những người nghiên cứu và những người quản lý xã hội trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu Hồ Chí Minh là người đầu tiên sáng lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước Dân chủ đầu tiên ở Đông Nam á. Vì vậy, tư tưởng và hoạt động lãnh đạo của Hồ Chí Minh về nhà nước đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Trước hết phải kể đến các tác giả: Nguyễn Ngọc Minh với: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1998. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về những tư tưởng và những đóng góp thực tiễn của Hồ Chí Minh đối với nhà nước và pháp luật của Nhà nước ta trong cả hai giai đoạn cách mạng Dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiếp đó là PGS.TS Hoàng Văn Hảo với: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới - Sự hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác giả cũng đã nghiên cứu từ sự lựa chọn kiểu nhà nước của Hồ Chí Minh đến những tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng Dân tộc Dân chủ và trong t hời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phần kết luận của tác giả chiếm gần nửa số trang của tập sách có nhiều nghiên cứu mới về sự "kết hợp đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh"; từ đó nêu ra sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và từng bước hoàn thiện nó trong quá trình đổi mới ở nước ta. Tiếp theo phải kể đến công trình chuyên khảo của PTS. Nguyễn Đình Lộc, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 (sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước KX.02.13). Đây là công trình nghiên cứu khá cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; Vũ Đình Hoè với: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2001. Tiếp sau đó, có nhiều tác giả nghiên cứu về chủ đề này như Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong với: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà n ước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, 2003; Nguyễn Anh Tuấn (chủ biên) với Tư tưởng Hồ
- Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003; Bùi Ngọc Sơn với Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, 2004. Một số giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng lý luận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh... cũng có bài về tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân; các tác giả: Dương Xuân Ngọc có bài "Quá trình xây dựng thể chế nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, 2- 2004; Lê Mậu Hãn với Hồ Chí Minh kién lập nhà nước pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, 5-2005, GS. Trần Xuân Trường với: Đảng cầm quyền và nhà nước của dân, do dân, vì dân; PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc với: 60 năm xây dựng nhà nước cách mạng của dân, do dân, vì dân, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9 năm 2005; PGS.TS Lê Văn Tích (chủ biên) với: Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, Nxb Chính trị quốc gia, 5-2006; GS.VS Nguyễn Duy Quý với bài: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thành tựu và những vấn đề cần giải quyết, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, 7-2006; GS.TS Hoàng Chí Bảo với: Dân chủ xã hội chủ nghĩa - mục tiêu và động lực của đổi mới; GS. TSKH Đào Trí úc với bài: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩ a; Báo Nhân dân số ra ngày 8-8-2006; Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải với: Sự điều hành năng động của Chính phủ là một nhân tố đưa tới những thành tựu đổi mới và phát triển đất nước, Báo Nhân dân số ra ngày 17-6-2006. Các công trình trên đây đã nghiên cứu ngày một rõ tư tưởng Hồ Chí Minh và những đóng góp thực tế của Người trong việc xây dựng và lãnh đạo nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa; phân tích sáng tạo của Hồ Chí Minh và tính cách mạng của nhà nước do Hồ Chí Minh sáng lập. Tuy nhiên do mục đích và yêu cầu đặt ra cho mỗi công trình mà chưa có tác giả nào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" một cách độc lập và trong mối liên hệ với công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, tôi lựa chọn vấn đề: "Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang", làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Nghiên cứu làm rõ quá trình hình thành, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của dân" để từ đó thấy rõ hơn công cuộc cải cách hành chính hiện nay là sự tiếp nối tư tưởng của Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh và trí tuệ của nhân dân để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". - Xác định nội dung chủ yếu của tư tưởng trên. - Nghiên cứu mối liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" với công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân trong sạch, vững mạnh. - Liên hệ với thực tiễn chương trình cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền vững mạnh vì dân ở Tuyên Quang hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, cơ sở và quá trình hình thành nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta hiện nay vào trong công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một chính quyền trong sạch, vững mạnh thực sự của dân, do dân, vì dân trên phạm vi quốc gia cũng như ở địa bàn tỉnh Tuyên Quang hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử - lôgíc, điều tra xã hội học. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn hoàn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" và từ đó thấy rõ mối liên hệ và
- những kinh nghiệm, bài học quý báu của tư tưởng ấy với công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Luận văn là tài liệu quý giúp những người nghiên cứu và quản lý hiểu rõ thêm một tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh và trí tuệ toàn dân để xây dựng chính quyền trong sạch và vững mạnh - một đòi hỏi thường xuyên và cấp bách đối với Việt Nam trong tiến trình củng cố, xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế. Luận văn là tài liệu tham khảo để giảng dạy trong các trường hành chính, trường chính trị tỉnh và giúp chính quyền tỉnh Tuyên Quang trong quá trình thực hiện Ch ương trình cải cách hành chính ở địa bàn tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 nhằm xây dựng hệ thống chính quyền Tuyên Quang trong sạch, vững mạnh... 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 2 chương,7 tiết. Chương 1 tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" 1.1. cơ sở hình thành 1.1.1. Cơ sở lý luận Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước là di sản khoa học và cách mạng cho những người cộng sản và các dân tộc thuộc địa đứng lên giải phóng khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc; thực hiện chính quyền chuyên chính vô sản có sức mạnh tập trung chống lại sự phản kháng của các thế lực thù địch, đồng thời phát huy dân chủ thực sự để tổ chức tốt nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng nền giáo dục và văn hóa mới cho nhân dân. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng - Học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước và những nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cách mạng" V.I.Lênin viết: Học thuyết đấu tranh giai cấp mà Mác vận dụng vào vấn đề nhà nước và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên phải đưa tới chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản, chuyên chính của giai cấp đó, tức là
- một chính quyền không bị chia sẻ với ai hết, và trực tiếp dựa vào lực lượng vũ trang của quần chúng. Giai cấp tư sản chỉ có thể bị lật đổ, khi nào giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị đủ sức trấn áp sự phản kháng không thể tránh khỏi, tuyệt vọng của giai cấp tư sản, và đủ sức tổ chức hết thảy quần chúng lao động và bị bóc lột để xây dựng một chế độ kinh tế mới. Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước, cần có sức mạnh tập trung, cần có tổ chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột và lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân - nông dân, tiểu tư sản, nửa vô sản - trong công cuộc "tổ chức" nền kinh tế xã hội chủ nghĩa [22, tr.32]. Sự tổng kết và phát triển tư tưởng của Mác - ăngghen về nhà nước và cách mạng, hết sức kỳ tài của Lênin, đã cho chúng ta thấy được "vấn đề nhà nước" đã được trình bày ngày càng sáng tỏ theo tiến trình lịch sử, từ "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" 1848 tới Công xã Pari 1871 và đến "đêm trước của cách mạng vô sản xã hội chủ nghĩa" tháng 10 Nga năm 1917. Các đặc điểm về mô hình, vai trò, chức năng chủ yếu của nhà nước vô sản cùng những nhiệm vụ của giai cấp công nhân trong cách mạng luôn được bổ sung bằng tổng kết thực tiễn phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chính trị để giành lấy chính quyền. Công xã Pari 1871 là hình thức chính quyền nhà nước đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy tồn tại không lâu, song nó đã để lại cho phong trào cộng sản và công nhân thế giới một mô hình nhà nước rất đặc sắc về tính dân chủ trên nhiều phương diện tổ chức và hoạt động của nó. Lênin nhận xét: Chính quyền mới, với tính cách là chuyên chính của tuyệt đại đa số, đã có thể duy trì và đã được duy trì chỉ là nhờ vào sự tín nhiệm của quần chúng đông đảo, chỉ bằng lôi cuốn một cách tự do nhất, rộng rãi nhất và mạnh mẽ nhất toàn thể quần chúng tham gia chính quyền... Đó là chính quyền công khai đối với mọi người, làm việc trước mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi nó, nó trực tiếp sinh ra từ quần chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu cho quần chúng nhân dân và ý chí của họ [21, tr.378].
- V.I.Lênin còn chỉ rõ, trong điều kiện mới giai cấp vô sản càng phải kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng, đập tan bộ máy của nhà nước tư sản; khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình là rất quý nhưng ít khi xảy ra. Cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở những mắt khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc. Nhiệm vụ lúc này là phải đập tan bộ máy hành chính, quân sự quan liêu, những công cụ áp bức, bóc lột, đàn áp nhân dân; còn các cơ quan khác như cơ quan thống kê, ngân hàng, bưu điện... là những yếu tố cần thiết cho quản lý nhà nước mới thì "không thể và cũng không nên phá hủy bộ máy đó đi. Phải giải thoát cho bộ máy đó khỏi phải phục tùng bọn tư bản, phải bắt bộ máy đó phục tùng các Xô viết vô sản, phải mở rộng bộ máy đó ra, làm cho nó bao trùm mọi lĩnh vực và trong cả nước" [23, tr.404]. Muốn cách mạng vô sản thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân, theo Lênin, còn phải xây dựng được đảng mác xít chân chính; đoàn kết và tập hợp mọi lực lượng cách mạng mà nòng cốt là liên minh công - nông Chủ nghĩa Mác giáo dục công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một xã hội mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản [22, tr.33]. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cách mạng ở mỗi nước, mỗi thời kỳ có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau cho nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới có những đặc điểm khác nhau. Vì thế, mỗi nước cần phải chọn cho mình những phương pháp và hình thức thích hợp. Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh trên con đường đi tìm con đường cứu nước cứu đồng bào, Người đã gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và tấm gương cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc mình và cho các dân tộc thuộc
- địa. Năm 1920, bằng nhiệt tình cách mạng hiếm thấy và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, tại Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp Nguyễn ái Quốc tán thành và ủng hộ Đảng mình đi theo con đường Quốc tế thứ ba - Quốc tế Cộng sản. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ người yêu nước thành người cộng sản. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng để Nguyễn ái Quốc trở thành người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và tiếp đó là sáng lập ra nhà nước cách mạng công nông đầu tiên ở Đông Nam á. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga và mô hình chính quyền công nông binh đã được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc vận dụng ngay từ đầu năm 1930. Trong Chính cương vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người sớm vạch rõ "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" [29, tr.1]. Để thực hiện thành công cuộc cách mạng này, Nguyễn ái Quốc chỉ rõ những yêu cầu về phương diện xã hội, kinh tế, chính trị...., trong đó: Về phương diện chính trị: a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến b) Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập c) Dựng ra chính phủ công nông binh (TG nhấn mạnh) d) Tổ chức ra quân đội công nông [29, tr.1]. Đây là ý tưởng đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về một mô hình nhà nước mới ở Việt Nam, thay thế cho nhà nước thực dân phong kiến đang thống trị ở Việt Nam lúc bấy giờ. Trước khí thế đấu tranh sôi nổi của phong trào cách mạng trong nước sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, điển hình là cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh (1930-1931) với việc áp dụng trực tiếp mô hình chính quyền Xô viết Nguyễn ái Quốc sớm nhận định: Đó là đầu tiên nhân dân ta nắm chính quyền ở địa phương và bắt đầu thi hành những chính sách dân chủ, tuy mới làm được trong một phạm vi nhỏ hẹp. Xô viết Nghệ An bị thất bại, nhưng đã có ảnh hưởng lớn. Tinh thần anh dũng của
- nó luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng, và nó đã mở đường cho thắng lợi về sau [32, tr.154-155]. Đầu năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 5 năm 1941, Nguyễn ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương 8. Sau khi phân tích tình hình trong nước và quốc tế, Người đã nhận định: "Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc; lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất" [32, tr.158]. Hội nghị đã có chủ trương mới "không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa" [11, tr.127]. Chương trình Việt Minh cũng nêu rõ: "sau khi đánh đuổi đế quốc phát xít Nhật, sẽ lập nên chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc cờ. Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Quốc dân đại hội cử lên..." [29, tr.583]. Cuối năm 1944, khi thời cơ giải phóng dân tộc đến gần, Hồ Chí Minh nói rõ hơn về mô hình một nhà nước mới của cách mạng Việt Nam trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, đó là một chính phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. "Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang" [29, tr.505]. Như vậy, từ mô hình Nhà nước công nông binh chuyển sang mô hình Nhà nước Dân chủ Cộng hòa là một bước chuyển kịp thời và sáng tạo của Hồ Chí Minh, phản ánh được đặc thù thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đó là một sáng tạo cách mạng về chính thể nhà nước trong lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức năng chuyên chính của chính quyền nhân dân, là một đóng góp của Hồ Chí Minh đối với việc thực hiện chức năng "chuyên chính" của nhà nước trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước của giai cấp vô sản. Cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân được bắt nguồn chính từ việc nhà nước cách mạng phải
- thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước dân chủ vừa mới được thiết lập sau cách mạng tháng Tám. Trung thành với nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến", Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu của cách mạng tháng Tám ít dùng khái niệm: cách mạng vô sản, nhà nước vô sản và nền chuyên chính vô sản, thay vào đó là các khái niệm đồng nghĩa kèm theo cặp từ "quần chúng", "nhân dân". Sau này khi điều kiện cho phép Hồ Chí Minh đã giải thích rõ ràng hơn: Về chuyên chính dân chủ nhân dân: chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai? Dưới chế độ thực dân phong kiến, tư bản, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân [33, tr.279]. Trong bài viết cho báo Pravđa (Liên Xô) "Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc" nhân kỷ niệm 50 năm ngày cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh viết: Giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam ngày càng thấm nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của cách mạng tháng Mười. Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công... [35, tr.303-304]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh việc xây dựng, tổ chức và lãnh đạo chính quyền dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào chủ nghĩa Mác-Lênin và phải bảo đảm xây dựng chính quyền thật sự mạnh mẽ, chắc chắn và sáng suốt của nhân dân. Sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng với chính quyền là nhân tố không thể thiếu để thực hiện tổ chức xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Cơ sở lý luận làm cho đường lối lãnh đạo của Đảng và các chính sách nhà nước tỏ ra thật sự sáng suốt chính là lý luận Mác-Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
- Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân; cơ sở xã hội của nhà nước là toàn thể dân tộc, nền tảng là liên minh công - nông, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân trước hết là một nhà nước thực sự đại biểu cho quyền lợi của nhân dân, thực sự do nhân dân lập ra, được nhân dân ủng hộ. Đồng thời, đó phải là một chính quyền nhà nước tập trung, có bộ máy hành chính mạnh mẽ, quản lý điều hành bằng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả thực tếl; đội ngũ cán bộ công chức am hiểu pháp luật, chuyên môn và có đạo đức phục vụ nhân dân. Bằng sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý, quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước vào chỉ đạo và xây dựng thành công nhà nước Dân chủ cộng hòa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ là một người Mác xít chân chính, đã bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng sự thắng lợi trên thực tiễn của cách mạng dân tộc dân chủ mở đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, "những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được" [27, tr.465]. Hồ Chí Minh đã tiếp nối ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga bằng nắng vàng mùa thu cách mạng tháng Tám trên đất nước Việt Nam, xua tan bóng đêm của chủ nghĩa thực dân ngự trị trên đất nước gần một thế kỷ. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn Những công việc của chính quyền non trẻ sau Cách mạng Tháng Tám là sự tiếp nối những công việc và thành quả của chính quyền "nước Việt Nam mới phôi thai" ở khu giải phóng trước Cách mạng Tháng Tám. Không thể hiểu thấu đáo cơ sở thực tiễn của tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" nếu không tìm hiểu tiến trình xây dựng chính quyền ở giai đoạn này. Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng được mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái...
- Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập khu giải phóng, cử ra Uỷ ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Tại các địa phương trong khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân cách mạng cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng là hình ảnh "nước Việt Nam mới phôi thai", "các Uỷ ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa, vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền" [5, tr.134-135]. Tiến trình thành lập Chính phủ Việt Nam được Đảng ta và Hồ Chí Minh chuẩn bị rất kỳ công, có khởi nguồn tự mục tiêu tranh đấu của Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941) đặc biệt khi thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định khai mạc Đại hội Quốc dân trong ngày 16-8-1945 tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào mang tầm vóc lịch sử nh ư Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới. Asimét L.A.Patti (Archimèdes L.A.Patti), một sĩ quan tình báo Mỹ có mặt ở Hà Nội ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi đã nhận xét rằng, khi biết tin phát xít Nhật đã sụp đổ, Hồ Chí Minh "đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng vững chắc ở... Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vai trò lãnh đạo và phát triển phong trào" [39, tr.146]. Quốc dân Đại hội Tân Trào là "một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay" [29, tr.553], Quốc dân Đại hội Tân Trào với tính cách là cơ quan mang tính đại diện quyền lực cao nhất của nhân dân tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, thông qua quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, thực hiện chức năng Chính phủ lâm thời sau cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức mạnh dân tộc và tính hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền độc lập tự do bằng tổ chức Đại hội đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách chuyển xoay vận nước bằng phương thức khởi
- nghĩa vũ trang, xoá bỏ chế độ nô dịch thực dân, kiến lập chế độ cộng hoà dân chủ với cơ quan mang tính quyền lực cao nhất là Đại hội đại biểu quốc dân và Uỷ ban dân tộc giải phóng do Đại hội đại biểu quốc dân lập ra. Ngày 25/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều ủy viên Việt Minh trong ủy ban dân tộc giải phóng đã tự nguyện rút ra để mời thêm nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. Sau này, Hồ Chí Minh ca ngợi: "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học tập" [32, T.6, tr.160]. Việc Uỷ ban dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đáp ứng yêu cầu: Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được Mặt trận dân tộc thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ, mời thêm một số nhân sỹ tham gia chính phủ để cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân đã giao phó cho. Và để Chính phủ sớm ra mắt quốc dân đồng bào trong ngày tổ chức lễ tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong "Tuyên cáo về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Việt Nam dân quốc công báo, Số 1, ngày 29-9-1945), ngày 28-8-71945 có đoạn: Chính phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội đề cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức. Hỡi quốc dân đồng bào, Vận mệnh ngàn năm của dân tộc ta đang quyết định trong lúc này đây. Toàn thể quốc dân hãy khép chặt hàng ngũ, đứng dưới lá quốc kỳ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời, nắm chắc tự do độc lập, cải tạo Tổ quốc bấy lâu đã bị bọn giặc nước tàn phá [24, Tr.324].
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Sau khi giành chính quyền trong cả nước, trước tình hình biến chuyển hết sức mau lẹ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, trên lễ đài, các thành viên chính phủ ra mắt trước đông đảo quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của dân tộc lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy" [24, tr.327- 328]. Tuyên ngôn độc lập là bản anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng của dân tộc Việt Nam, nêu cao ý chí đấu tranh của toàn dân để giữ vững quyền độc lập, tự do, bảo vệ chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam. Quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân và quốc tế đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và có giá trị đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý tiến bộ của loài người. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của toàn thể dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chí Minh nhằm xóa bỏ bộ máy thống trị của đế quốc và bọn phong kiến tay sai, lập nên chính quyền nhân dân trong cả nước. Đây là sự thắng lợi của đường lối của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình hình thành một nhà nước do nhân dân, vì nhân dân, thay thế cho nhà nước thực dân phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam gần một thế kỷ. Cuộc cách mạng tháng Tám đã lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, và "nền quân chủ mấy mươi thế kỷ", thành lập nước Cộng hòa Dân chủ, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa, kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Nói về ý nghĩa to lớn của cuộc
- Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc" [32, tr.159]. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải "tiếp quản" một di sản kinh tế - xã hội hết sức nghèo nàn, lạc hậu. "Giặc đói" đe dọa sinh mạng của hàng triệu đồng bào. Nền tài chính quốc gia gần như trống rỗng. Về mặt xã hội, hậu quả của xã hội cũ rất nặng nề. Sự thất học của đại đa số nhân dân cũng là một loại giặc "giặc dốt". Chỉ có 10% dân số biết chữ, hầu hết ở bậc tiểu học. Số công chức có trình độ đại học và cao đẳng trong cả nước chỉ khoảng vài trăm người. Thực tế đó đã làm cho việc tổ chức hoạt động và xây dựng chế độ mới của nhà nước ta gặp nhiều, khó khăn. Các tệ nạn xã hội, hủ tục và lối sống lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến, phát xít để lại là gánh nặng cho nhà nước cách mạng non trẻ. Về chính trị, trong khi các lực lượng Đồng minh kéo vào nước ta, các thế lực phong kiến phản động, tay sai của thực dân Pháp đã tăng cường hoạt động trở lại. Hàng chục tổ chức chính trị, đảng phái được thành lập như Đại Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam phục quốc, Việt Nam quốc xã Đảng... do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Diệm cầm đầu. Đặc biệt có hai đảng phái chính trị từ nước ngoài trở về theo đội quân Tưởng là Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) ra mặt chống phá chính quyền rất quyết liệt. Hoàn cảnh Việt Nam lúc này vô cùng khó khăn. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng II - 1951, Hồ Chí Minh đã viết: Nước ta độc lập chưa một tháng, thì phía Nam, quân đội đế quốc Anh kéo đến. Chúng mượn tiếng là lột vũ trang của quân Nhật, nhưng sự thật chúng là đội quân viễn chinh giúp thực dân Pháp âm mưu cướp lại nước ta. Phía Bắc thì quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc kéo sang. Chúng cũng mượn tiếng là lột vũ trang quân Nhật, nhưng kỳ thật chúng có ba mục đích hung ác: - Tiêu diệt Đảng ta, - Phá tan Việt Minh,
- - Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất [32, tr.161]. Theo tư tưởng chỉ đạo Hồ Chí Minh, chính trong những tình thế hiểm nghèo cần phải sáng suốt, cần có đối sách mềm dẻo, nhân nhượng, hòa hoãn để giữ vững và củng cố sức mạnh thống nhất của chính quyền nhân dân, thành quả quan trọng nhất của cách mạng tháng Tám. Hồ Chí Minh hiểu rõ: "vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền, giành chính quyền đã khó nhưng giữ vững chính quyền càng khó hơn". Chính trong thời khắc cực kỳ nghiêm trọng và đầy thử thách này, thiên tài Hồ Chí Minh và nghị lực cách mạng phi thường của dân tộc đã giúp Người nhạy bén và sáng suốt lựa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời có hiệu quả những nhiệm vụ vô cùng phức tạp, khó khăn; bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, từng bước tiến lên. Thời gian là một yếu tố vô cùng cần thiết để "củng cố dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất", nguồn sức mạnh của hệ thống chính trị dân chủ vừa mới được thành lập; thời gian là sức mạnh, là lực lượng cho Mặt trận và Chính quyền triển khai công việc tổ chức đoàn kết toàn dân và xây dựng "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" trở thành một hệ thống chính quyền thống nhất từ "Chính phủ toàn quốc" đến chính quyền địa phương trong cả nước Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" là "để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng nước ta". Những người muốn nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin "sẽ gia nhập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương". Như vậy, bằng việc công khai thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác và tờ báo Sự thật cùng các chỉ thị, nghị quyết, trên thực tế Đảng ta vẫn tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, giữ vững được mối liên hệ giữa
- Đảng và quần chúng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Tình hình những tháng năm đầu của cách mạng là thời kỳ chồng chất những khó khăn thử thách với Đảng và chính quyền nhân dân trên mọi phương diện từ nội trị, kinh tế, quân sự, đến ngoại giao. Với tư cách là thượng khách của nước Pháp, trong chuyến thăm Pháp năm 1946, Hồ Chí Minh là hiện thân của ý chí độc lập dân tộc, hoà bình và hữu nghị của nước Việt Nam mới, Người đã làm hết sức mình để cố tránh một cuộc chiến tranh đổ máu cho hai dân tộc Việt - Pháp và kéo dài khoảng thời gian hoà hoãn để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng cho cách mạng ở trong nước. Trước những câu hỏi có tính "cân não" về xu hướng cộng sản, ở một thời điểm nhạy cảm, của các nhà báo Pháp phỏng vấn Hồ Chủ tịch, Người điềm tĩnh trả lời: Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm, Đức chúa Giêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn khi nào thì chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời được. Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ [30, tr.272]. Qua đó, ta có thể thấy Hồ Chí Minh luôn đứng ở thực tại, cho dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, Người vẫn tỏa sáng một tầm nhìn bao quát, những biến chuyển biện chứng của lịch sử vận động khách quan đều thông qua những điều kiện cụ thể. ở đó con người không thể áp đặt ý muốn chủ quan cho lịch sử được. Hòa bình, hợp tác thân thiện là những điều kiện để hai dân tộc Việt - Pháp có thể thực hiện được, còn chế độ chính trị xã hội là do dân chúng ở mỗi nước tự quyết định. Lịch sử đã khẳng định về một "cơ hội hòa bình đã để lỡ" là do tham vọng duy trì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời của Chính phủ Pháp lúc bấy giờ đối với vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
- Lịch sử Cách mạng Việt Nam hiện đại ghi nhận rằng giai đoạn đầu Cách mạng Tháng Tám 1945 đến 1946 là giai đoạn chính quyền nhân dân chịu nhiều thử thách nặng nề, khó khăn và nguy hiểm nhất. Hoàn cảnh lịch sử ra đời và những nhiệm vụ to lớn, những thử thách sống còn đòi hỏi chính quyền non trẻ của nhân dân phải tỏ rõ là một hệ thống chính quyền phải mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, sát cánh cùng toàn thể dân tộc bằng sức mạnh nội lực của đất nước đã giải phóng quyết giữ vững quyền độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Hệ thống chính quyền nhà n ước mới muốn thực sự là chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân thì nó phải được xây dựng trên nền tảng dân chủ. Các cơ quan quyền lực nhà nước của chính quyền nhân dân phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhân dân thực sự sử dụng quyền dân chủ của mình để ứng cử và bầu cử để chọn ra những người đủ đức, đủ tài gánh vác công việc chung của chính quyền nhân dân. 1.2. sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nhiệm vụ của nhà nước hết sức nặng nề, một mặt phải khắc phục những khó khăn nghiêm trọng như giải quyết nạn đói, nạn dốt, thói xấu cùng những bất công, chia rẽ tôn giáo, mất dân chủ trong xã hội do chế độ cũ để lại, mặt khác, chính quyền nhân dân, đặc biệt là chính quyền cấp xã đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước ở địa phương. Tệ tham ô, lãng phí, công thần, "làm quan cách mạng", lên mặt, nhũng nhiễu nhân dân... đã sớm được Hồ Chí Minh nhận dạng và cảnh báo qua những bài báo, bức th ư của Người đã cho công bố. Chính những khuyết tật, những căn bệnh cả cũ lẫn mới đó đã làm cho khả năng tập hợp sức mạnh và trí tuệ sáng suốt của nhân dân, của cấp chính quyền cơ sở bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và uy tín cả hệ thống chính quyền dân chủ mới. Trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy sự cần thiết phải lãnh đạo, tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền dân chủ phải thật sự mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Chế độ dân chủ phải được vận hành bằng nền hành chính dân chủ mới.
- Sự ra đời tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" là một quá trình nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong điều kiện Việt Nam từ một nước nô lệ tiến lên một quốc gia độc lập. Đó là sự thay đổi lớn, một cuộc cách mạng trong tư tưởng và thực tiễn chỉ đạo xây dựng chính quyền dân chủ ở Việt Nam. Lịch sử Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lịch sử Hiến pháp Việt Nam gắn liền với tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Hiến pháp là nền tảng để xây dựng chế độ dân chủ hiện đại, Hiến pháp là cơ sở pháp lý về sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Thực hiện một xã hội tự do, dân chủ cho nhân dân và một chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của dân cần phải có một Hiến pháp dân chủ. ý thức rất sớm vấn đề này, nên suốt 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp Việt Nam mà Người còn trực tiếp làm Trưởng ban soạn thảo hai bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Sự cần thiết phải xây dựng và tổ chức một chính quyền nhà nước mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân được Hồ Chí Minh nhận thức và thể hiện rất sớm từ phiên họp đầu tiên (ngày 3/9/1945) của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là những vấn đề cấp bách, thiết thực mà chính quyền mới ra đời "chưa quen với kỹ thuật hành chính, phải giải quyết trong hoàn cảnh đất nước còn chồng chất những khó khăn thiếu thốn" [30, tr.7]. Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, các Bộ trưởng đã thảo luận và đều nhất trí tán thành những đề nghị của Người. Việc đề xuất ra những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ đúng đắn, kịp thời để giải quyết công việc, thể hiện bản lĩnh trí tuệ, năng lực tổ chức, quản lý sáng suốt của Chính phủ, đặc biệt là người đứng đầu. Cùng với các quyết sách mạnh mẽ để giải quyết nạn đói, nạn dốt, bãi bỏ các thứ thuế bất công, thực hành: cần, kiệm, liêm, chính trong chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân. Người tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến sự cần thiết: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách nhà ở cho người thu nhập thấp trên địa bàn Thành phố Hà Nội
102 p | 169 | 53
-
Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tạo việc làm cho thanh niên nông thôn ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
120 p | 123 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách người có công trên địa bàn huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk
116 p | 61 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
84 p | 96 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách Bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
87 p | 152 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị đối với cán bộ cấp cơ sở tại huyện An Lão, tỉnh Bình Định
79 p | 47 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
73 p | 37 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
89 p | 21 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xã hội với người có công tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình hiện nay
26 p | 9 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk
24 p | 10 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với phụ nữ huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá
135 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
113 p | 20 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách giải phóng mặt bằng trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
125 p | 3 | 1
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách tinh giản biên chế tại Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
29 p | 1 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xã hội với người có công tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình hiện nay
68 p | 0 | 0
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk
25 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn