LUẬN VĂN: Thực Thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay
lượt xem 50
download
Hơn 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, quá trình thực thi CSTT của Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản và ngày càng trở nên thích ứng hơn với những mục tiêu điều tiết nền kinh tế, góp phần tích cực cho sự ổn định thị trường tài chính, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay kinh tế trong nước cũng như thế giới ngày càng có nhiều thay đổi khó lường...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực Thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay
- LUẬN VĂN: Thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hơn 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, quá trình thực thi CSTT của Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản và n gày càng trở nên thích ứng hơn với những mục tiêu điều tiết nền kinh tế, góp phần tích cực cho sự ổn định thị trường tài chính, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay kinh tế trong nước cũng như thế giới ngày càng có nhiều thay đổi khó lường đã khiến cho quá trình xây dựng và thực thi CSTT n gày càng trở nên khó khăn và phức tạp. Đặc biệt, trong những năm gần đây, mặc dù đã góp phần quan trọng trong tiến trình ổn định nền kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng nhưng CSTT ở nước ta vẫn còn bộc lộ không ít những bất cập và hạn chế. Các giải pháp đưa ra còn mang tính tình thế, tạm thời và chưa thật sự linh hoạt, thậm chí còn gây nên những bất ổn. Chẳng hạn, bằng việc liên tục thay đổi các mục tiêu điều hành CSTT NHNN đã góp phần kiềm chế lạm phát nhưng lại gây những tác động bất lợi đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, thị trường tài chính và cả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Từ chỗ các ngân hàng thiếu vốn nghiêm trọng trong giai đoạn đầu 2008 lại chuyển sang thừa vốn vào những tháng cuối năm 2008, trong khi các doanh nghiệp - đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì lại đối mặt với hàng loạt khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Chính những diễn biến này cho thấy việc sửa đổi, hoàn thiện hơn nữa CSTT là đòi hỏi thực tế khách quan của nền kinh tế. Đó không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của NHNN, của các nhà lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ bức thiết đối với mỗi chúng ta - những người nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế chính trị, những người góp tiếng nói của mình vào trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách của đất nước. Vì vậy, việc nhận diện rõ ràng và cụ thể các mục tiêu của CSTT nhằm thực thi một CSTT linh hoạt, hữu hiệu, thích nghi tốt với diễn biến thời cuộc là yêu cầu bức thiết đặt ra cho Việt Nam trong thời gian tới. Với ý nghĩa đó, vấn đề “Thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong hơn 20 năm đổi mới kinh tế ở nước ta, những nghiên cứu về CSTT ngày càng thu hút sự quan tâm của các cơ quan chức năng của Chính phủ, của các nhà khoa học, nhà quản lý, các nhà quản trị… Nhiều công trình đã được công bố, chẳng hạn như: * Về sách, có một số cuốn sách đã được phát hành như - Nguyễn Võ Ngoạn (1996), Hệ thống công cụ CSTT quốc gia trong nền kinh tế thị trường”, NXB Tài chính. - Nguyễn Duệ (chủ biên), Nguyễn Văn Tiến, Tô Kim Ngọc (1999), Đồng tiền chung Châu Âu và CSTT của NHTW Châu Âu, NXB Thống kê - Lê Vinh Danh (2005), CSTT và sự điều tiết vĩ mô của NHTW, NXB Tài chính. * Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ: - Đặng Chí Chơn (1995), NHNN và việc thực thi có hiệu quả CSTT trong cơ chế thị trường Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ kinh tế: 5.02.09 -- TP Hồ Chí Minh. - Nguyễn Võ Ngoạn (1995), Hoàn thiện các công cụ của NHNN Việt Nam để thực hiện CSTT quốc gia, Luận án phó tiến sĩ kinh tế: 5.02.09 . - Hoàng Xuân Quế (2003), Giải pháp hoàn thiện các công cụ chủ yếu của CSTT ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế: 5.02.09. - Lê Thị Thanh Hằng (2007), Giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế: 60.31.12. * Một số bài viết đã được công bố trên các báo, tạp chí: - Hoàng Ngọc Hòa (2003), “Những thách thức đối với tài chính - tiền tệ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và phát triển. - Hoàng Yến (2004), “Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến CSTT và chính sách thương mại của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 8. - Đinh Xuân Hạ (2005), “Đổi mới điều hành CSTT của NHNN trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 8. - MU (2005),“Ảnh hưởng của quá trình hội nhập đến CSTT quốc gia”, Tạp chí Ngân hàng Ngoại Thương, số 5.
- - Nguyễn Thành Trung (2006), “Vai trò CSTT của Việt Nam và những khuyến nghị”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 5. - Nguyễn Văn Hậu (2008), “Toàn cầu hóa tài chính với CSTT - tín dụng quốc gia”, Thông tin những vấn đề kinh tế chính trị học, Số 18. Mặc dù số lượng các công trình nghiên cứu rất nhiều, rất đa dạng và phong phú, bên cạnh những đóng góp có giá trị cho việc nghiên cứu lý luận hay ứng dụng, thực thi… nhưng tiếp cận CSTT trên phương diện kinh tế chính trị thì còn rất hạn chế, thậm chí chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay” trên phương diện kinh tế chính trị. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 3.1 Mục đích Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực thi CSTT làm cơ sở để phân tích thực trạng thực thi CSTT ở Việt Nam trong trong giai đoạn 2001 - 3/2009. Trên cơ sở những quan điểm và phương hướng đã được xác định, luận văn đề ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi CSTT ở Việt Nam giai đoạn đến 2015. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ những vấn đề chính sau: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi CSTT, kinh nghiệm thực thi CSTT của một số nền kinh tế và rút ra một số gợi ý cho Việt Nam. - Phân tích thực trạng thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn 2001 - 3/2009. - Đề xuất các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả CSTT của Việt Nam giai đoạn đến năm 2015. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trên phương diện kinh tế chính trị, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những quan hệ kinh tế chủ yếu trong quá trình thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn 2001 - 3/2009. Nếu xét theo quy trình thì quá trình thực thi chính sách tiền tệ bao gồm 5 hoạt động cơ bản sau: hoạt động soạn thảo và ban hành CSTT; hoạt động thẩm định, đánh giá CSTT; hoạt động tổ chức thực hiện CSTT; hoạt động chuyên môn của CSTT và hoạt
- động kiểm soát, giám sát các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, để phù hợp với yêu cầu luận văn chỉ chú trọng tập trung nghiên cứu các hoạt động thực thi chính sách trực tiếp liên quan đến những mục tiêu chủ yếu của CSTT - đó là, đảm bảo cung ứng và điều tiết tổng phương tiện thanh toán; kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế; kiểm soát ngoại hối và kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước. Và, những công cụ chủ yếu như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. Trên cơ sở đó, luận văn tập trung đánh giá những tác động của thực thi CSTT đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ năm 2001 đến đầu năm 2009 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận - Những nguyên lý cơ bản của Kinh tế chính trị Mác - Lênin, các lý thuyết hiện đại về CSTT và thực thi CSTT. - Cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng của Nhà nước và NHNN cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong quá trình điều hành và thực thi CSTT. - Những cam kết khu vực và quốc tế có liên quan 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng Mácxit, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác-Lênin: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp phân tích với tổng hợp, so sánh,... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã hệ thống hóa và phân tích cơ sở khoa học của việc thực thi CSTT ở Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng thực thi CSTT Việt Nam trong giai đoạn từ 2001 - 3/2009, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn đến 2015. Từ đó, luận văn là cơ
- sở, tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, hoạch định và thực thi CSTT nước ta trong giai đoạn đến 2015. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương và 8 tiết.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1.1.1. Chính sách tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ 1.1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ Trong thực tế, có nhiều loại chính sách kinh tế và những chính sách này được phân loại dưới nhiều góc độ khác nhau, chẳng hạn như: vi mô, vĩ mô; ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;… Theo các quan điểm phổ biến hiện nay thì chính sách tiền tệ thuộc nhóm chính sách kinh tế vĩ mô ngắn hạn. Nếu các chính sách kinh tế là công cụ của Nhà n ước để điều tiết và hướng nền kinh tế tới mục tiêu mong muốn, chúng thường bị chi phối bởi 3 nhóm yếu tố: chủ thể ban hành và thực thi chính sách kinh tế là Nhà nước, nền kinh tế mà trực tiếp là những bộ phận, những chức năng của nền kinh tế trực tiếp là đối tượng điều chỉnh của chính sách …và, môi trường thực thi chính sách; thì, chính sách tiền tệ cũng không nằm ngoài những cái chung đó. Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế và giác độ nghiên cứu mà luận văn đề cập thì chính sách tiền tệ còn được tiếp cận theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. - Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách bảo đảm việc cung ứng mức cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) trong từng thời kỳ (thường là một năm) phù hợp với mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế hay các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác. - Theo nghĩa rộng, CSTT là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, là hệ thống các giải pháp và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường tiền tệ và tín dụng do NHTW khởi thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, hướng nền kinh tế vào những mục tiêu mong muốn [18, tr.217]. Trong tác phẩm “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính” F.S. Mishkin đã đưa ra quan niệm CSTT theo nghĩa rộng: CSTT là một trong các chính sách vĩ mô, trong đó
- NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá hối đoái [17, tr.211]. Ở Việt Nam, Điều 2 Luật NHNN Việt Nam ban hành năm 1997 đã nêu rõ: CSTT là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống của nhân dân [27]. Từ đó, có thể thấy CSTT có các đặc trưng chủ yếu sau đây: Thứ nhất, CSTT là một bộ phận hữu cơ cấu thành các chính sách kinh tế. Như chúng ta đã biết, trong tổng thể các chính sách kinh tế của một quốc gia, mỗi chính sách đề có vị trí và vai trò riêng của nó. Trong đó, CSTT luôn được xem là một chính sách trung tâm, gắn kết nhiều chính sách lại với nhau. Bởi lẽ, các nền kinh tế hiện đại đều là nền kinh tế tiền tệ, nói cách khác - những nền kinh tế này đã được tiền tệ hóa cao độ (tính theo chỉ số hóa tiền tệ M2/GDP). Vì vậy, ở các nền kinh tế này các quan hệ kinh tế chủ yếu phải dựa trên, xoay quanh và được phản ánh bởi các quan hệ tiền tệ, tiền tệ đã xâm nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong nền kinh tế và do vậy CSTT là chính sách kinh tế trung tâm và có vai trò ngày càng quan trọng. Thứ hai, CSTT thuộc nhóm chính sách kinh tế vĩ mô - do đó, nó không có mục đích tự thân mà phải hướng tới phục vụ các mục tiêu của nền kinh tế Muốn thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần phải thực thi nhiều chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có CSTT. Khác với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách kinh tế đối ngoại… thì CSTT chủ yếu chỉ tác động ở thị trường tiền tệ, và qua đó tác động đến đến mặt cầu của nền kinh tế, ảnh hưởng đến giá cả, đầu tư, việc làm, sản lượng … Thứ ba, mặc dù CSTT chỉ chủ yếu tác động và làm thay đổi những cân bằng ngắn hạn, vừa có tác dụng điều chỉnh ổn định kinh tế, vừa hướng sự cân bằng ngắn hạn của nền kinh tế vận động xoay quanh giới hạn khả năng sản xuất - tức là, đạt được mức hiệu quả trên cơ sở khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng kinh tế, do đó, góp phần làm giảm
- tính chu kỳ của nền kinh tế, nhưng nó còn ảnh hưởng mặc dù gián tiếp nhưng rất quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế ở cả trung và dài hạn. Chẳng hạn như, bằng việc thay đổi mức lãi suất, sử dụng định chế mức lãi suất ưu đãi mà CSTT góp phần khuyến khích đầu tư mới, huy động các nguồn vốn, tăng tiết kiệm, tích lũy và do đó tăng đầu tư đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ tư, NHTW là cơ quan chức năng của Chính phủ, trực tiếp tham gia vào quá trình soạn thảo, ban hành và thực thi CSTT. Việc thực hiện chức năng này của NHNN ở mỗi quốc gia còn phụ thuộc vào mô hình tổ chức bộ máy của quốc gia đó. Ở Việt nam, NHNN là thành viên của chính phủ, trực tiếp chịu sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, tính độc lập rất thấp nên ít tính linh hoạt và điều đó ảnh hưởng không ít đến hiệu quả thực thi CSTT. Và điều ngược lại có thể xảy ra đối với các nền kinh tế mà NHNN có tính độc lập rất cao. 1.1.1.2. Quan niệm thực thi chính sách tiền tệ Thứ nhất, thực thi CSTT phải mang tính hệ thống. Vì CSTT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính của quốc gia và trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động với nhau. Do vậy một CSTT hữu hiệu đòi hỏi phải được thiết lập và vận hành trong mối quan hệ với các chính sách khác, chứ không nên tự coi mình là một yếu tố độc lập tuyệt đối mặc dù bản thân CSTT có vai trò cực kỳ quan trọng. Vì vậy, việc sử dụng và thực thi CSTT không thể độc lập, tách rời với những chính sách kinh tế vĩ mô khác mà nó phải được đặt trong một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất - Đó là một tất yếu kinh tế và mang tính phổ biến. Thứ hai, thực thi CSTT phải đảm bảo tính đồng bộ và nhất quán. Tính đồng bộ và nhất quán luôn được đặt lên hàng đầu trong quá trình thực thi CSTT. Thứ ba, thực thi CSTT phải linh hoạt, chủ động, hiệu quả nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành cán cân thanh toán quốc tế không để bị thâm hụt. Nhưng cũng phải có nhiều phương án dự phòng để tính toán trong trường hợp có diễn biến mới trên thị trường quốc tế. 1.1.2. Nội dung cơ bản và hình thức thực thi chính sách tiền tệ
- CSTT là một thành tố quan trọng của hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô, vì vậy việc xây dựng và thực thi CSTT phải gắn với những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế vĩ mô trọng yếu - cụ thể, phục vụ đắc lực quá trình đổi mới, ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế cả về ngắn hạn và dài hạn. Theo như giới hạn nghiên cứu đã nêu, nội hàm của vấn đề này được trình bày ở một số hoạt động thực thi cơ bản sau: 1.1.2.1. Cung ứng và điều tiết tổng phương tiện thanh toán trong lưu thông * Lượng tiền cung ứng (Tổng phương tiện thanh toán - MS) Theo lý thuyết về số nhân tiền ta có: Trong đó: s là tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi s+1 MS = xH ra là tỷ lệ dự trữ thực tế tiền gửi s + ra H là tiền cơ sở (cơ số tiền tệ) H = U + Ra U là tiền mặt trong lưu thông Ra là tiền mặt dự trữ trong các ngân hàng Từ đó, có thể thấy, những thay đổi trong 3 biến (H, ra và s) làm cho cung ứng tiền tệ thay đổi như thế nào: Thứ nhất, cung ứng tiền tệ tỷ lệ thuận với cơ số tiền. Vì vậy, sự gia tăng cơ số tiền làm tăng cung ứng tiền tệ theo cùng một tỷ lệ. Thứ hai, tỷ lệ dự trữ trên tiền gửi càng thấp, thì ngân hàng càng cho vay nhiều và tạo thêm nhiều tiền từ mỗi VNĐ dự trữ, tức càng được nhiều tiền. Bởi vậy, sự cắt giảm tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi làm số nhân tiền và cung ứng tiền tăng lên. Thứ ba, tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi (s) càng thấp, công chúng càng giữ ít VNĐ, các NHTM càng giữ nhiều VNĐ thì càng tạo ra được nhiều tiền. Vì vậy, sự cắt giảm tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi làm số nhân tiền và cung ứng tiền tệ tăng lên. Trên thực tế, tốc độ lưu thông tiền tệ còn bị chi phối bởi: tốc độ chu chuyển vật tư hàng hóa, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, sự tiên liệu của dân cư vào thời cơ và vận hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế tài
- chính của Nhà nước, kỳ vọng của các doanh nhân, trình độ kỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của Ngân hàng. NHTW thông qua các công cụ của mình (thị trường mở, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu) để khống chế sao cho khối lượng cung ứng tiền tệ trong một giai đoạn nào đó phải cân bằng với mức tăng của GNPn và vòng quay tiền tệ trong cùng thời kỳ đó. C.Mác cũng cho rằng: số lượng các phương tiện lưu thông là do tổng giá trị của hàng hóa lưu thông và tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ quy định. Tức là khối lượng tiền tệ lưu thông thực tế (Kt) phải bằng khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (Kc), tức Kt = Kc. Trong đó, Kc là tổng giá cả hàng hóa (H) chia cho vòng quay của đồng tiền (V) [41, tr. 348] * Điều hòa lượng tiền cung cứng tăng, giảm theo tín hiệu thị trường Lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là chỉ tiêu định lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả, của tỷ giá hối đoái. Từ đó NHTW điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi không làm tăng giá cả hoặc tắc nghẽn lưu thông vì thiếu phương tiện thanh toán. Hai yếu tố động nhất của tín hiệu tiền tệ là giá cả và tỷ giá hối đoái. Còn tốc độ tăng trưởng và vòng quay đồng tiền đều biến động tiệm tiến, khó biết trước chính xác. 1.1.2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế Khối lượng tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp xuất phát từ hai nguồn - đó là: huy động tiền vốn có sẵn trong lưu thông để cho vay và sử dụng lượng tiền của NHTW thông qua quá trình tái cấp vốn. Khi NHTM tiến hành nghiệp vụ cấp tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi mới nhờ số nhân tiền. Trong các nước công nghiệp, nơi có hệ thống ngân hàng đã phát triển cao, thị trường tiền tệ nhạy cảm, cơ chế vay mượn hiện đại và tinh vi, thì việc sử dụng các công cụ gián tiếp như: nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu không chỉ điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông, mà còn điều tiết cả tín dụng. Ngoài ra, người ta còn dùng giải pháp bổ trợ bằng khống chế hạn mức tín dụng, cụ thể là:
- Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm, NHTW dành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng, có tính đến mức lạm phát (nếu có) đã được khống chế trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời, khối lượng tiền tệ tăng thêm qua tín dụng sẽ không được “rót” từ NHTW xuống, bất chấp thực trạng về vốn, chất lượng tín dụng của các NHTM, mà được hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ thông qua quan hệ vay vốn giữa các doanh nghiệp và các NHTM. Khi các NHTM thiếu vốn thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn (tái chiết khấu) tiền trung ương. NHTW là người cho vay thường xuyên, là người cho vay cuối cùng và là chủ nợ đối với NHTM nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các NHTM và TCTD, theo các định hướng chính sách cụ thể sau: * Đa dạng hóa các thành phần của khối tiền tệ Để tăng tầm kiểm soát của NHTW, tích cực kiềm chế lạm phát, tăng nguồn tín dụng, người ta thực hiện chính sách đa dạng hóa các thành phần của khối tiền tệ trong lưu thông bằng cách NHTW thúc đẩy các NHTM thu hút tất cả các nguồn tiền gửi của mọi doanh nghiệp và dân cư bằng cách mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Từ đó, phát triển các thành phần khác của khối tiền tệ như séc và các công cụ lưu thông tín dụng khác bên cạnh tiền mặt, nhằm tăng nguồn vốn tín dụng của các NHTM và tăng khả năng chi phối của NHTW đối với khối tiền tệ * Thay lãi suất thực âm (thường lấy lý do hỗ trợ sản xuất, khuyến khích đầu tư) bằng lãi suất thực dương (đã loại trừ tỷ lệ lạm phát) để thay CSTT làm xói mòn nguồn vốn bằng CSTT mở rộng nguồn vốn. Với một lãi suất thực dương vừa phải, sẽ làm cho dân cư chuyển từ dạng tiết kiệm phi tài chính (dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản,…) qua dạng tiết kiệm tài chính, tăng lượng tiền gửi ngân hàng. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các ngân hàng trung gian thực hiện CSTT “mở rộng nguồn vốn” bằng việc áp dụng lãi suất thực dương, thực hiện triệt để nguyên tắc “vay để cho vay”. Trong khi đó, các NHTM chỉ tìm đến nguồn tiền trung ương bằng biện pháp tái cấp vốn. * Thay CSTT thụ động phục vụ bằng CSTT chủ động điều tiết.
- Tín dụng và lãi suất không phải là những công cụ “phục vụ” đơn giản và thụ động đối với các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp quốc doanh) với bất cứ giá nào, như một thứ cấp phát ngân sách. Trên thị tr ường tiền tệ, khách hàng hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn ngân hàng. Và đến lượt mình, ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế. Điều này có nghĩa là phải chuyển từ một CSTT thụ động sang một CSTT tích cực, trong đó ngân hàng được chủ động điều tiết. Mặt khác, khách hàng muốn tồn tại, cần sửa đổi phương pháp kinh doanh sao cho có hiệu quả để được vay vốn… 1.1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối Chính sách quản lý ngoại hối nhằm mục đích bảo vệ giá trị nội tệ, kích thích tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều đó, trong lĩnh vực ngoại hối NHTW thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại trên các phương diện sau: quản lý ngoại hối; lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào trị trường hối đoái; xây dựng và thống nhất quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của đất nước; phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước; quan hệ với NHTW khác, với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ (vay nợ) nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối; tổ chức quản lý nợ nước ngoài… Trong số các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái, quản lý dự trữ ngoại hối, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền cung ứng và giá trị đồng tiền trong nước, cụ thể là: * Chính sách hối đoái Nhiều nước thực hiện chính sách độc quyền hối đoái, cấm lưu thông tiền nước ngoài trên đất nước mình, chính sách ngoại hối hướng vào việc ngăn chặn việc tích trữ ngoại hối rải rác trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua bán ngoại tệ (có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và khi cần thì mua tại ngân hàng hay tại thị trường hối đoái), thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW. Đây là chính sách mua đứt bán đoạn chứ không phải cho phép các tổ chức dân cư và người cư trú được cất giữ ngoại tệ trên tài
- khoản mở ở các ngân hàng. Bởi vì điều này chỉ có lợi cho nước phát hành số ngoại tệ đó. Nhờ phát hành tiền, họ đã thu về khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà chưa bị đòi nợ, như một khoản tín dụng tự nguyện không phải trả lãi. Về phía các ngân hàng trong nước, nếu huy động tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn thì cũng không thể sử dụng được nhiều số ngoại tệ đó. Tất yếu họ phải đem gửi ngân hàng nước ngoài để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút ra của khách hàng và tìm kiếm chút lãi để bù đắp lãi suất tiền gửi đã huy động vào. Việc vay hoặc huy động ngoại tệ dài hạn lại là vấn đề khác. * Dự trữ ngoại hối Dự trữ ngoại hối là lượng ngoại hối được lưu giữ tại NHTW nhằm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và can thiệp vào cung, cầu ngoại hối trên thị trường để điều tiết tỷ giá hối đoái. Do đó, mỗi quốc gia đều có dự trữ ngoại hối, tùy theo khả năng nền kinh tế nước đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng trong nước. NHTW mua và gia tăng dự trữ ngoại hối sẽ làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Ngược lại, khi NHTW bán ngoại tệ ra, giảm dự trữ ngoại hối thì cũng đồng thời làm giảm khối lượng tiền tệ. Do đó, qua việc mua bán ngoại hối, NHTW thực hiện can thiệp thị trường, chủ động tác động tỷ giá hối đoái theo chiều mong muốn. * Thị trường hối đoái Thị trường hối đoái (còn gọi thị trường ngoại hối) là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ. NHTW với tư cách là người thực thi và điều hành CSTT, có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường ngoại hối thông qua cung, cầu ngoại hối. Trong đó, tác động trực tiếp bằng cách thiết lập quỹ bình ổn hối đoái và quỹ dự trữ ngoại hối. Cụ thể, khi NHTW dùng những quỹ này để tác động đến cung, cầu ngoại hối như sau: Nếu cầu ngoại hối cao, tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng quá mức, NHTW sẽ bán ngoại hối từ dự trữ ngoại hối làm tăng khả năng cung ngoại hối trên thị trường trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tỷ giá hối đoái từ từ giảm xuống. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm quá giới hạn cho phép, NHTW sẽ mua ngoại hối bằng đồng nội tệ làm tăng cầu nội tệ trên thị trường, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên và dự trữ ngoại hối cũng tăng theo.
- Tác động gián tiếp là thông qua hệ thống NHTM để tác động vào việc mua bán ngoại tệ của các doanh nghiệp như việc quy định khung của tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng, quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ, lượng ngoại tệ được phép mua, các quy định về giao dịch ngoại hối của các doanh nghiệp và dân chúng qua ngân hàng,…Việc tác động của NHTW vào cung cầu ngoại hối nhằm mục đích điều tiết tỷ giá hối đoái để thực hiện các mục tiêu của CSTT. * Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ phản ánh tương quan về mặt lượng giữa hai loại tiền có khả năng chuyển đổi cho nhau, trong giao dịch thực tế thì tương quan đó đồng thời phản ánh tương quan trao đổi sức mua giữa nội tệ với ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nộ i tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ. Nhưng đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là đòn bẫy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đối với sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt động xuất nhập khẩu, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại tệ của đất nước…- chẳng hạn: Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp (đối với ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu, vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho ngành sản xuất hàng xuất khẩu, bất lợi cho việc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, dự trữ ngoại tệ dễ bị xói mòn. Một tỷ giá hối đoái cao (đối với ngoại tệ) sẽ bất lợi cho nhập khẩu, nhưng khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu rẻ hơn, hàng xuất khẩu đắt hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm thị trường tiêu thụ, kích thích chuyển dịch ngoại tệ vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Do đó, để quản lý và ổn định tỷ giá hối đoái cần phải: Thứ nhất, thực hiện chính sách thặng dư hay tối thiểu là thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn ngoại tệ. Thứ hai, kiểm soát và hạ thấp tỷ lệ lạm phát để ổn định giá cả và nâng cao sức mua đối nội của đồng tiền, tạo sự tác động ngược lại đối với tỷ giá hối đoái.
- Thứ ba, có chính sách lãi suất tín dụng thích hợp để thu hút các khoản tiết kiệm và đầu tư, kể cả bằng nguồn ngoại tệ từ ngoài vào, đồng thời hạn chế việc săn lùng ngoại tệ và vàng bạc Thứ tư, tạo quỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường hối đoái khi cần thiết. Tuy nhiên, việc can thiệp chỉ có thể tiến hành khi sự biến động đó xuất phát thuần túy vào quan hệ cung và cầu. Nếu vì nguyên tắc khác, ví dụ như lạm phát hoặc thiểu phát, thì không thể dùng biện pháp can thiệp được mà phải tìm các biện pháp khác nhau hạn chế lạm phát hay khắc phục thiểu phát, mà không nên dùng dự trữ để can thiệp, vì như vậy chẳng khác nào là tự sát. 1.1.2.4. Chính sách tiền tệ trong quan hệ với ngân sách Nhà nước CSTT của NHTW muốn có tác dụng mong muốn cần xử lý mối tương quan của nó với ngân sách nhà nước. Tùy theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực với những mức độ khác nhau đối với lưu thông tiền tệ. Do vậy, cách xử sự của CSTT trong quan hệ với ngân sách cũng khác nhau trong những trường hợp sau đây: * Trường hợp ngân sách cân bằng Khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi lưu thông một lượng tiền nào đó và chi số tiền ấy vào guồng máy kinh tế. Tổng khối lượng tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một ngạch số như nhau. Tuy nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm, trong khi đó, chính phủ phải dùng số tiền thuế thu được cấp phát cho những người có thu nhập thấp, hay cho chi tiêu của chính phủ thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là có khả năng làm tăng dần giá cả. Nếu Nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu tư, thì số đầu tư của tư nhân giảm, trong khi đầu tư của Nhà nước tăng lên. Tuy nhiên, trong trường hợp ngân sách thăng bằng, cơ cấu thu và chi ngân sách không cùng chiều vẫn có khả năng gây mất cân đối cục bộ trong quan hệ tiền hàng. * Trường hợp ngân sách thiếu hụt Thâm hụt ngân sách sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến nền kinh tế, tùy theo cách tài trợ số chênh lệch ấy. Trong thực tế, có 4 cách để tài trợ thiếu hụt ngân sách: vay dân cư, vay ở hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước, vay NHTW, vay ở nước
- ngoài. Trong đó, vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của các NHTM trong nước, nguy cơ làm tăng khối tiền tệ nhẹ hơn. Áp lực lạm phát ở các nước đang phát triển mạnh hơn các nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành tiền trực tiếp và nợ nước ngoài. Như vậy, không có sự lựa chọn nào tốt hơn là phải phấn đấu thực hiện một ngân sách Nhà nước cân bằng nguồn thu thuế và tiết kiệm chi tiêu. Không nên bội chi ngân sách để bù đắp chi phí hành chính, mà tối thiểu, ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi thường xuyên. Phần chi xây dựng hạ tầng cơ sở và chi phát triển nếu thiếu thì phải được tài trợ bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ để vay nhân dân, vay các NHTM trên thị trường tiền tệ (ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (dài hạn) hoặc vay nước ngoài. Theo chuẩn quốc tế, mức độ bội chi ngân sách phải vay nợ để bù đắp, nếu chiếm khoản 2 - 3% tổng sản phẩm quốc nội là chấp nhận được. Tuy nhiên, không nên coi khoảng vay của Nhà nước là nguồn thu phụ thêm, mà đó chỉ là nguồn bù đắp bội chi ngân sách. * Trường hợp ngân sách thặng dư Đây là trường hợp rất hiếm, vì nó rút bớt khối tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. 1.1.3. Các công cụ thực thi chính sách tiền tệ Công cụ thực thi CSTT là những công cụ được các chủ thể sử dụng (kể cả chủ thể phi Nhà nước) để thực thi chính sách. Vì vậy, công cụ thực thi CSTT có phân thành 2 nhóm là nhóm các công cụ bên trong bao gồm: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở; nhóm các công cụ bên ngoài: môi trường kinh tế xã hội, vấn đề dân chủ hóa cơ sở, bệnh quan liêu, những tác động bên ngoài, hệ thống thông tin, giáo dục, hành pháp,… Tuy nhiên trong giới hạn của luận văn này tác giả chỉ tập trung phân tích nhóm các công cụ bên trong. 1.1.3.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi lại Ngân hàng NHNN Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia [28]. Theo luật định, khi các NHTM huy động
- được vốn tiền gửi trong xã hội, phải trích ra một phần của số tiền gửi này để gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc tại NHTW và để tại quỹ của mình. Số tiền gửi được trích là theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy định của NHTW. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán của NHTM. Đó là, tỷ lệ phần trăm giữa lượng dự trữ bắt buộc trên tổng số tiền gửi tại hệ thống NHTM. Tỷ lệ này do NHNN quy định tùy theo từng thời kỳ, từng loại tiền gửi và mang tính pháp lý bắt buộc phải thi hành. Thông qua điều chỉnh trực tiếp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả vào khối lượng và giá cả tín dụng của NHTM. Về lý thuyết, khi NHTW thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây tác động làm thay đổi số nhân tiền tệ và tất nhiên sẽ gây ảnh hưởng thay đổi mức cung tiền. Cụ thể, khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm số nhân tiền và ngược lại, khi giảm dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng số nhân tiền. Bên cạnh đó, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng đồng thời tác động đến nguồn vốn có thể sử dụng được để cho vay nên tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của các ngân hàng. Cũng giống như mối quan hệ giữa số nhân tiền tệ và dự trữ bắt buộc, mối quan hệ giữa lãi suất cho vay của các NHTM và dự trữ bắt buộc là mối quan hệ nghịch chiều. Mặc dù dự trữ bắt buộc có ưu điểm là công cụ mang tính chất đầy quyền lực vì nó mang nặng tính chất hành chính và nó gây tác động như nhau đối với các ngân hàng nhưng nhược điểm của nó là làm tăng chi phí đầu vào cho các ngân hàng do đó không thể tăng dự trữ bắt buộc lên quá cao vì nó sẽ làm gia tăng gánh nặng chi phí cho ngân hàng và đẩy lãi suất cho vay lên cao hơn nhiều. Bên cạnh đó, do việc tính toán và trích lập dự trữ bắt buộc là khá phức tạp khi thực thi, không thể thực hiện thường xuyên hàng ngày do vậy nếu liên tục thay đổi dự trữ bắt buộc sẽ rất có thể gây nên tình trạng bất ổn định cho các ngân hàng và làm khó khăn cho công tác quản trị thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, khi thay đổi một tỷ lệ nhỏ trong dự trữ bắt buộc có thể gây nên sự thay đổi đáng kể của số nhân tiền và kết quả, với sự khuyếch đại của cơ số tiền - do cơ số tiền là rất lớn về giá trị tuyệt đối - sẽ gây nên sự thay đổi rất lớn trong cung tiền. Nói cách khác, không thể dùng dự trữ bắt buộc để thực hiện những điều chỉnh nhỏ trong mức cung tiền. Vì những lý do đó, các
- nước phát triển thường ít khi thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc để điều hành CSTT dù vẫn luôn ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn, trong suốt thời gian xảy ra khủng hoảng tài chính năm 2008, NHTW của các nước như Hoa Kỳ, Anh Quốc, .v.v. đều đã không thực hiện việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc được sử dụng ở hầu hết các quốc gia. Nhìn chung, ở các nước phát triển tỷ lệ này thường được quy định ở mức 5% - 8% và ổn định trong một thời gian khá dài. Còn ở các nước đang phát triển, do kinh tế thị trường có có biến động, hệ thống tài chính - ngân hàng lạc hậu, tỷ lệ này thường được xác định ở mức cao hơn (8% - 12%) và thường xuyên phải thay đổi, tùy theo biến động thị trường tiền tệ và mục tiêu ngắn hạn đặt ra của chính sách [41]. 1.1.3.2. Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu Lãi suất tái chiết khấu hay lãi suất chiết khấu (gọi chung là lãi suất chiết khấu) của NHTW là lãi suất mà NHTW áp dụng cho các món vay đối với các ngân hàng và một số các trung gian tài chính phi ngân hàng khác thông qua các công cụ cho vay của mình. Nói cách khác, lãi suất chiết khấu là lãi suất được áp dụng nội bộ giữa NHNN với các NHTM khi các NHTM cần vay cấp cứu để trang trải nhu cầu tiền mặt ngắn hạn. Ở Việt Nam, Lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho các TCTD [28]. Như vậy, NHNN áp dụng lãi suất chiết khấu cho hoạt động chiết khấu của mình tức là cho các TCTD vay tiền bằng cách mua lại các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán. Theo quy định hiện hành, thông thường NHNN chỉ chiết khấu các giấy tờ có giá của khu vực nhà nước được phát hành bằng VNĐ bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và trái phiếu NHNN. Thời gian chiết khấu tối đa là 91 ngày, do vậy nếu giấy tờ có giá có thời hạn còn lại không quá 91 ngày thì mới có thể được NHNN chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại. Trường hợp giấy tờ có giá có thời hạn còn lại dài hơn 91 ngày thì NHNN sẽ áp dụng phương thức chiết khấu có kỳ hạn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các TCTD có thể chiết khấu “tự do” với NHNN mà việc chiết khấu được thực hiện trong phạm vi hạn mức chiết khấu do NHNN xác định. Dựa trên mục tiêu CSTT và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhu cầu vốn khả dụng và dự báo biến động nhu cầu vốn khả dụng cùng với các chỉ tiêu có liên quan
- khác, NHNN sẽ xác định tổng hạn mức chiết khấu cho các TCTD, trên cơ sở đó sẽ xác định hạn mức tín dụng cho từng TCTD. Bên cạnh việc điều tiết cung tiền thông qua việc cấp tín dụng cho các TCTD - chủ yếu là các ngân hàng - thông qua phương thức chiết khấu, NHNN Việt nam còn thực hiện việc cấp tín dụng thông qua việc cho vay thấu chi qua đêm theo lãi suất cho vay thấu chi qua đêm - thường bằng với lãi suất chiết khấu- và cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, cho vay dựa trên hồ sơ tín dụng của các TCTD theo lãi suất tái cấp vốn - thường cao hơn lãi suất chiết khấu. Như vậy có thể thấy NHNN đang sử dụng lãi suất chiết khấu như là lãi suất “sàn” và lãi suất tái cấp vốn như là lãi suất “trần” để điều hành lãi suất cùng với việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở để hướng lãi suất liên ngân hàng - lãi suất cho vay qua đêm giữa các NHTM - biến động trong mức “sàn” và “trần” tương tự theo cách mà Cục dự trữ liên bang Hoa kỳ sử dụng lãi suất quỹ dự trữ liên bang - có vai trò là lãi suất “sàn” - và lãi suất chiết khấu - có vai trò là lãi suất “trần”. Về mặt lý thuyết, khi NHTW thay đổi lãi suất chiết khấu sẽ tác động gián tiếp làm thay đổi cơ số tiền tệ và qua đó tác động đến cung tiền nên sẽ gây ảnh hưởng để làm thay đổi lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các trung gian tài chính và đây cũng là cách thức thông dụng mà NHTW sử dụng để thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng. Tuy nhiên, nhược điểm của công cụ lãi suất chiết khấu là NHTW không thể đảo ngược khi có sai lầm trong việc điều hành của mình và quan trọng hơn nữa là hệ thống ngân hàng có thể không hành động theo ý đồ mà NHTW mong muốn (sơ đồ 1.1). Sơ đồ 1.1: Dây chuyền tác động của lãi suất chiết khấu Lãi suất thị trường Cầu nội địa Áp lực Giá cả tài Tổng lạm phát sản cầu Lãi suất chiết Cầu bên khấu ngoài Lạm phát Mong ước dự tính Giá nhập Tỷ giá hối khẩu đoái
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 71 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi Chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
104 p | 86 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách phát triển công nghiệp nông thôn trên địa bàn thị xã Chí Linh, Tỉnh Hải Dương
103 p | 19 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách tinh giản biên chế tại cơ quan Bộ Y tế
109 p | 45 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh
113 p | 24 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực thi chính sách giảm nghèo bền vững tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
96 p | 16 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
104 p | 27 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh
107 p | 16 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách thu hút đầu tư vốn trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Vĩnh Long
127 p | 41 | 8
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách tinh giản biên chế tại cơ quan Bộ Y tế
26 p | 57 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
26 p | 50 | 6
-
Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chương trình 135 giai đoạn 2011 - 2015 trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
109 p | 54 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
26 p | 11 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Thực thi chính sách giảm nghèo bền vững tại thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định
26 p | 9 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách tinh giản biên chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh
26 p | 12 | 4
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Thực thi chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang
26 p | 70 | 4
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách bồi dưỡng công chức, viên chức ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
26 p | 80 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xã hội với người có công tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình hiện nay
68 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn