intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số giải pháp phát triển hệ thống các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

12
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hệ thống doanh nghiệp logistics có vai trò quan trọng trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và kiến tạo môi trường để phát triển bền vững hệ thống logistics quốc gia và vùng KTTĐMT. Bài viết "Một số giải pháp phát triển hệ thống các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT" đề cập đến một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hệ thống các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số giải pháp phát triển hệ thống các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT

  1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS VÙNG KTTĐMT TS. Phạm Cảnh Huy Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội TS. Nguyễn Thị Thúy Hồng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hệ thống doanh nghiệp logistics có vai trò quan trọng trong việc cung ứng hàng hóa dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và kiến tạo môi trường để phát triển bền vững hệ thống logistics quốc gia và vùng KTTĐMT. Trong phạm vi bài này, chúng tôi xin đề cập đến một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển hệ thống các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT. 1. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm dịch vụ logistics của các doanh nghiệp a. Khắc phục những yếu kém nội tại của doanh nghiệp logistics trong vùng Việc tăng cường, cố nội lực doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp logistics trong vùng có thể khắc phục thực trạng yếu kém so với đối thủ cạnh tranh của các vùng và quốc tế về mạng lưới, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, quy mô, hiệu quả kinh doanh, bằng cách cải thiện môi trường logistics vùng KTTĐMT, ưu tiên các công trình, dự án có khả năng giảm chi phí logistics, thu hút nguồn hàng như kết nối liên hoàn hệ thống giao thông trong vùng, xây dựng hệ thống đường sắt kêt nối với các cảng biển quốc tế như Cảng Chân Mây, Đà nẵng, Dung Quất và cảng Quy Nhơn, xây dựng các trung tâm logistics trên các hành lang kinh tế trong vùng trên cở sở định hướng quy hoạch theo Quyết định 1012/QĐ-TTg quy mô vùng không nên phát triển theo địa phương “mạnh ai nấy làm”. Rà soát cơ sở hạ tầng phần mềm logistics hiện còn là cản trở dòng chảy logistics để giảm chi phí logistics cả cho doanh nghiệp Việt và các doang nghiệp của các nước trên các hành lang kinh tế ... b. Tăng cường hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp logistics trong vùng Thực trạng chung của các doanh nghiệp logistics ở nước ta và vùng KTTĐMT hiện nay là việc hợp tác, liên kết trong các hoạt động logistics còn rất yếu vẫn còn làm ăn theo kiểu “mạnh ai nấy làm”, nhiều trường hợp cạnh tranh lại làm lợi cho các doanh nghiệp ngoại. Hình thức liên kết kinh tế giữa các địa phương còn mang tính hành chính và hình thức do thiếu các mô hình ,môi trường để thực hiện liên kết các địa phương và các doanh nghiệp logistics như mô hình các làng vận tải hay trung tâm logistics. Đây là điểm nghẽn không chỉ ở vùng KTTĐMT mà cả nước ! c. Các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT cần tạo lợi thế cạnh tranh riêng biệt về dịch vụ logistics, hình thành các doanh nghiệp logistics theo ngành hàng. Các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT có lợi thế sân nhà, am hiểu sâu sắc thị trường cũng như những vấn đề cấp bách hiện nay của các nhà sản xuất kinh doanh trong vùng, từ đó đi vào tạo dựng những lợi thế riêng về dịch vụ cho hệ thống phân phối và xuất khẩu hàng hóa đạt được hiệu quả. Điều đó giúp các doanh nghiệp logistics cùng phát triển với các doanh nghiệp phân phối và xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Đây là giải pháp có tính khả thi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vùng KTTĐMT phát triển, vì đối với mỗi ngành nghề, ở mỗi nước có những quy định và đặc điểm cung cầu khác nhau, các tập đoàn logistics đa quốc gia vào Việt Nam chỉ có thể có lợi thế về vốn, công nghệ thông tin và mạng lưới toàn cầu mà không thể nào có lợi thế về từng ngành hàng ở từng quốc gia, từng khu vực, do vậy rất khó thâm nhập vào thị phần này một khi các quan hệ kinh tế logistics dài hạn đã được thiết lập. 204
  2. Hiện nay, mô hình doanh nghiệp logistics chuyên ngành (Logistics chuyên doanh) vẫn chưa được triển khai và hoạt động rộng rãi ở nước ta và vùng KTTĐMT. Các doanh nghiệp logistics, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tính đến khả năng phát triển ở những ngành nghề có nhiều nhu cầu của các chủ hàng trong nước, từng bước tiến hành chuyên môn hóa hoạt động logistics ở những ngành nghề đó với lợi thế của doanh nghiệp. Như phân tích ở chương 2, những mặt hàng xuất khẩu chính hiện nay là hàng dệt may, giày da, thủy sản, đồ gỗ… và mặt hàng nhập khẩu chính là trang thiết bị máy móc, sợi, thép… Các doanh nghiệp nội cần phát triển theo hướng các nhà logistics chuyên doanh về các mặt hàng nêu trên nhằm cung ứng cho thị trường các dịch vụ chất lượng cao và trở thành nhà cung ứng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thường một doanh nghiệp logistics chuyên ngành hay là doanh nghiệp logistics chuyên doanh sẽ giúp các chủ hàng được nhiều hơn trong các dịch vụ giá trị gia tăng, mạng lưới khách hàng, nhà cung ứng và dịch vụ sẽ có sức hút hơn, đảm bảo hơn với các chủ hàng. Do chưa có một doanh nghiệp logistics chuyên ngành, ngay cả những ngành hàng ở nước ta có thế mạnh xuất khẩu, nên hiện vẫn chưa có người mang hàng hiệu quả cho các chủ hàng mà vẫn phải thực hiện bán hàng thông qua điều kiện nhóm E, F hoặc cao hơn là C mà chưa có điều kiện thương mại nhóm D. Tập quán này chỉ có thể thay đổi khi có được doanh nghiệp logistics đủ năng lực, đủ trình độ hiểu biết về ngành hàng đó và thực trạng ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Điều này rõ ràng không quá khó đối với các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT. Hiện tại không cần ngay trình độ công nghệ thông tin thật hiện đại, không cần ngay mạng lưới hoạt động toàn cầu mà chỉ cần xúc tiến tìm hiểu những thị trường mà các chủ hàng Việt Nam hiện đang cung ứng và những mảng thị trường tiềm năng của từng ngành hàng. Nếu các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT có kế hoạch chuyển hướng theo giải pháp này thì lợi ích mang lại sẽ rất cao, từng bước nâng tầm doanh nghiệp logistics lẫn trình độ thâm nhập thị trường của các chủ hàng Việt. Một khi các doanh nghiệp logistics tạo được uy tín thông qua những dịch vụ này ở nước ngoài thì phần thị trường hàng nhập sẽ trở nên dễ dàng chiếm lĩnh. Thị trường hàng nhập cho đối tượng khách hàng này là trang thiết bị, máy móc và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất… Khi đó các doanh nghiệp logistics Việt có khả năng mở rộng hoạt động của mình ở những thị trường mà doanh nghiệp cho là tiềm năng, từ đó tạo cầu cho các chủ hàng trong nước. Điều này đòi hỏi hoạt động tìm hiểu thị trường và luật pháp quốc tế phải được tổ chức hiệu quả nhằm tạo tiền đề cho những bước phát triển về sau và mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp cũng phải chuyển đổi theo hướng phát triển chung của doanh nghiệp và khách hàng. 2. Giải pháp phát triển logistics trong các doanh nghiệp sản xuất Hoạt động logistics đầu vào và đầu ra của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Thực hiện được giải pháp này, các doanh nghiệp phải nâng cao nhận thức logistics từ đó nâng cao khả năng cung ứng đáp ứng các yêu cầu của sản xuất về thời gian, chất lượng và giá cả. Đối với hoạt động logistics đầu vào và đầu ra, doanh nghiệp sản xuất cần phải nâng cao hiệu quả các dịch vụ trong quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất và dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, hiện đang là yếu điểm của nhiều doanh nghiệp trong vùng . Thực hiện hiệu quả dịch vụ đầu vào và đầu ra sẽ tạo tiền đề quan trọng cho các doanh nghiệp sản xuất tăng cường sử dụng các dịch vụ thuê ngoài .Muốn vậy, ngoài việc đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin, việc nâng cao nhận thức, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ nhân sự logistics có vai trò quyết định đến việc phát triển dịch vụ thuê ngoài và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất sử dụng các dịch vụ logistics thuê ngoài để 205
  3. nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh (outsoursing), thay đổi tập quán mua bán trong xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sự phát triển hệ thống logistics quốc gia và vùng KTTĐMT. 3. Xây dựng và phát triển các loại hình doanh nghiệp logistics,bao gồm cả loại hình logistics chuyên doanh có khả năng cạnh tranh Doanh nghiệp logistics Việt Nam và vùng KTTĐMT hiện nay quy mô và năng lực còn nhiều hạn chế nên khả năng cạnh tranh thấp. Vì vậy, một giải pháp hiện tại mà doanh nghiệp logistics có thể thực hiện là liên doanh, liên kết, thiết lập các doanh nghiệp liên doanh, phấn đấu vươn lên và phải làm ăn theo đúng quy tắc của thị trường. Nhà nước và chính quyền các địa phương,các cơ quan chức năng phải tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ để các doanh nghiệp logistics chủ động phát triển kinh doanh, phát huy mọi tiềm năng trong vùng. Đồng thời phải dựa vào thực tiễn nhu cầu các địa phương mạnh dạn đầu tư hình thành các loại hình doanh nghiệp logistics phù hợp, hiệu quả, đặc biệt là loại hình chuyên doanh nhằm phát triển thị trường logistics cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững vùng KTTĐMT. 4. Đào tạo nguồn nhân lực logistics và xây dựng phong cách cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp Vùng KTTĐMT với lợi thế nằm trên trục giao lưu hàng hải quốc tế, do vậy có đầy đủ các điều kiện thuận lợi để có thể trở thành trung tâm logistics của khu vực, thế giới và phát triển hiệu quả hệ thống logistics, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tuy nhiên, vấn đề Việt Nam nói chung và vùng KTTĐMT nói riêng đang phải đối mặt đó là nguồn nhân lực logistics thiếu về số lượng, yếu về trình độ chuyên môn, tính chuyên nghiệp không cao và đi kèm với đó là các trường trong khu vực ,các chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành vẫn chưa được chú trọng phát triển. Mặc dù,hiện nay cả nước và vùng KTTĐMT chưa có số liệu thống kê đầy đủ về nguồn nhân lực này do cách tính toán không thống nhất. Nhưng số liệu thống kê của các địa phương vùng KTTĐMT cho thấy số lao động trong các lĩnh vực liên quan tới logistics trong những năm qua đều có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Cụ thể năm 2013, tổng số lao động logistics của toàn vùng là 102.164 người, chiếm tỷ lệ 4,4% so với cả nước thì đến năm 2016 là 130.628 người, chiếm 4,7% so với cả nước. Theo dự báo của chúng tôi, vùng KTTĐMT đến năm 2030 số lao động logistics lên tới 546.166 người và đến năm 2045 lên tới 719.993 người. Điều này thể hiện tiềm năng tăng trưởng và yêu cầu của ngành logistics vùng KTTĐMT những năm tới (Đặng Đình Đào và Cộng Sự, 2018). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics tại các tỉnh vùng KTTĐMT còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của chính các doanh nghiệp logistics trong vùng KTTĐMT thì yếu kém lớn nhất hiện nay về nguồn nhân lực logistics là trình độ ngoại ngữ và tin học (2,809/5) tiếp đến công tác đào tạo ,phát triển (2,824/5),tiếp đó là hạn chế liên kết đào tạo nguồn nhân lực logistics với các cơ sở đào tạo (2,833/5)…(hình 3.2 ) 206
  4. Hình 3.2: Đánh giá của doanh nghiệp logistics về nguồn nhân lực vùng KTTĐMT Nguồn: (Đặng Đình Đào,Nguyễn Quang Hồng, 2018) Một trong những nguyên nhân dẫn tới nguồn nhân lực logistics vừa thiếu lại vừa yếu là do một thời gian dài chúng ta không quan tâm đến đào tạo đội ngũ lao động có tính đặc thù này, thiếu đi chính sách phát triển nguồn nhân lực logisitcs phù hợp, thậm chí không có cả chức danh cho đội ngũ lao động logistics, số liệu báo cáo, thống kê cũng không có, dẫn đến rất nhiều số liệu khác nhau về nguồn nhân lực logistics. Thêm vào đó, các trường đại học, cao đẳng ở nước ta và vùng KTTĐMT lại không đào tạo logistics một thời gian dài, môn học logistics không được quan tâm, đưa vào các chương trình đào tạo… Để hệ thống logistics quốc gia và vùng KTTĐMT vận hành và phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và có sức cạnh tranh cao, góp phần phát triển kinh tế nhanh và bền vững thì việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics đáp ứng yêu cầu phát triển là rất cấp bách hiện nay. Các trường đại học lớn trong vùng KTTĐMT như Trường Đại Quy Nhơn, trường Đại học kinh tế-Đại học Huế …cần sớm mở ngành đào tạo logistics nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành logistics vùng KTTĐMT và cho cả khu vực. Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo để ngành đào tạo logistics nằm trong nhóm ngành quản lý công nghiệp với mã số 7510605 là không phù hợp mà cần tách ra thành một ngành mới với mã số riêng hay ít ra là nằm trong nhóm ngành khối dịch vụ phân phối, lưu thông hợp lý hơn ,khoa học hơn. 5. Xây dựng mô hình logistics cảng biển vùng KTTĐMT theo hướng bền vững Hiện nay, cảng biển ở nước ta và vùng KTTĐMT mọc lên quá nhiều, nhưng bến trung chuyển, các kho bãi hỗ trợ nhu cầu của cảng quy mô lớn không phát triển, các trung tâm logistics sau cảng trong vùng chưa hề được quy hoạch, triển khai xây dựng và phát triển. Hiện nay, 4 cảng lớn là Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất và cảng Quy Nhơn cũng đã bộc lộ những bất cập này... Vì vậy, xây dựng mô hình logistics cảng biển là rất cấp thiết hiện nay ở nước ta nói chung và vùng KTTĐMT nói riêng, nhất là các cảng biển quốc tế trong vùng. Với tốc độ phát triển như hiện nay đối với hệ thống cảng vùng KTTĐMT mô hình tối ưu là phải xây dựng các trung tâm logistics sau cảng có quy mô đủ lớn để giải phóng nhanh tàu, tránh vùn tắc, sử dụng phương tiện vận tải thân thiện với môi trường, chống ô nhiễm môi trường,tránh tình trạng thu hút đầu tư phát triển cảng theo kiểu “Phân lô, chia nền” như hiện nay ở một số cảng hay nhà đầu tư nào vào địa phương đều mở “cảng của riêng mình”. Các trung tâm logistics đó phải được kết nối với các phương tiện vận tải theo hướng đa phương thức và với cảng biển bằng hệ thống đường sắt hiện đại theo mô hình: (Cảng biển → Đường sắt → Các trung tâm logistics → Đường ô tô → Khách hàng) (Đặng Đình Đào, 2012) 207
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2