Phát triển bền vững kinh tế tư nhân: Cần tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước
lượt xem 2
download
Thông qua phương pháp phân tích, thống kê kinh tế các số liệu thứ cấp về tình hình phát triển của kinh tế tư nhân giai đoạn 2005 – 2019, bài viết đánh giá những thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý kinh tế tư nhân; từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững trong thời gian tới. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phát triển bền vững kinh tế tư nhân: Cần tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước
- PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ TƯ NHÂN: CẦN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ThS Lê Thị Bích Thảo* TÓM TẮT Kể từ khi kinh tế tư nhân được thừa nhận (tháng 3/1989) đến nay, khu vực kinh tế này đã thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, đóng góp rất lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại những hạn chế cần có sự đổi mới quản lý của nhà nước. Thông qua phương pháp phân tích, thống kê kinh tế các số liệu thứ cấp về tình hình phát triển của kinh tế tư nhân giai đoạn 2005 – 2019, bài viết đánh giá những thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý kinh tế tư nhân; từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững trong thời gian tới. Từ khoá: Phát triển bền vững kinh tế tư nhân, đổi mới quản lý nhà nước. 1. Đặt vấn đề Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam, kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần khơi dậy tiềm năng của đất nước, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế… nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định với một trong các nguyên nhân từ công tác quản lý của nhà nước, khiến cho khu vực kinh tế này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó và kỳ vọng của đất nước. Do đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân để mang lại sự phát triển bền vững cho khu vực kinh tế này trong thời gian tới là vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn to lớn. 2. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững kinh tế tư nhân Khái niệm “kinh tế tư nhân” được chính thức sử dụng từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (tháng 3/1989), trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân, các loại hình kinh tế này được coi là các hình thức của kinh tế tư nhân. Khoa Kinh tế – Luật, Trường Đại học Tài chính – Marketing. * 284 -
- Hiện nay vẫn còn nhiều cách lý giải về khu vực kinh tế tư nhân, nhưng nhìn chung có thể hiểu khái niệm kinh tế tư nhân theo hai cấp độ như sau: Theo cấp độ khái quát: kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài kinh tế nhà nước, bao gồm các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó tư nhân nắm giữ trên 50% vốn đầu tư. Theo cấp độ hẹp: kinh tế tư nhân gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế tư nhân là loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, vì lợi ích trực tiếp của cá nhân, hay tập thể cá nhân hoạt động dưới nhiều hình thức kinh tế khác nhau, dù có thuê hay không thuê lao động. Đây là khu vực kinh tế bao gồm nhiều trình độ và hình thức kinh tế khác nhau. Nội hàm của kinh tế tư nhân rất rộng cả về hình thức sở hữu lẫn ngành nghề mà các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, căn cứ vào các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và vai trò của các hình thức này trong việc tạo ra sản phẩm cho xã hội, khu vực kinh tế tư nhân được chia thành các loại hình kinh tế cá thể và các doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế hộ gia đình hay cá nhân, tiến hành sản xuất kinh doanh dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ gia đình hay cá nhân đó. Doanh nghiệp tư nhân là loại hình kinh tế được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, tập đoàn,… tiến hành sản xuất kinh doanh dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê mướn lao động. Doanh nghiệp tư nhân được hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất và phân công lao động đã phát triển ở trình độ cao. Quy luật chi phối hoạt động của doanh nghiệp tư nhân là các quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cạnh tranh,… Với hình thức tổ chức này, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất được tăng lên đáng kể. Do đó, doanh nghiệp tư nhân là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Hội nghị lần thứ VI được coi là bước đột phá thứ nhất đối với kinh tế tư nhân nước ta, tạo tiền đề cho những đột phá mạnh mẽ hơn sau này. Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến lần thứ VIII (1986 – 2000), những đổi mới trong quan điểm, chủ trương của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được khẳng - 285
- định và phát triển khi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được công nhận, kinh tế tư nhân được coi là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và nhìn nhận kinh tế tư nhân có vị trí, vai trò bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Để hiện thực hoá chủ trương này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy như Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991),... Hệ thống văn bản pháp lý sơ khởi này có ý nghĩa quan trọng nhằm khẳng định quyền sở hữu và tự do kinh doanh của cá nhân và pháp nhân. Nói cách khác, việc các thị trường và yếu tố thị trường được xây dựng và thể chế hóa đã đồng thời tạo lập nền tảng cơ bản cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Trong các kỳ Đại hội tiếp theo từ lần thứ IX đến lần thứ XI (2001 – 2011), tầm nhìn về kinh tế thị trường trở nên rõ nét hơn với việc cụ thể hóa định hướng phát triển kinh tế – xã hội theo mô hình “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khoá IX (tháng 3/2002) xác định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội thứ X (năm 2006) thể hiện bước đột phá trong nhận thức lý luận về vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta khi khẳng định: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” và “Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu”. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Có thể thấy, quan điểm coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế qua hai kỳ Đại hội X và XI là bước đột phá thứ hai trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thời gian này, quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có nhiều dấu mốc phát triển mới, đáng chú ý là việc ban hành Luật Doanh nghiệp (2000) đã giảm mạnh chi phí gia nhập thị trường, khơi dậy tinh thần doanh nhân, phát huy nội lực trong khu vực kinh tế tư nhân; và quá trình gia nhập WTO đã thúc đẩy Việt Nam xây dựng và ban hành hàng loạt đạo luật làm nền tảng cho kinh tế thị trường như Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Thương mại (2005), Luật Cạnh tranh (2004), Bộ luật Dân sự (2005), sự ra đời của thị trường chứng khoán… với những chuẩn mực tiếp cận gần hơn với các thông lệ quốc tế về kinh tế thị trường. Đến năm 2016, Đại hội Đảng lần thứ XII thể hiện bước đột phá thứ ba khi Đảng một lần nữa khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”, “xoá 286 -
- bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng”. Như vậy, tổng kết tinh thần của Đảng qua các kỳ Đại hội kể từ năm 1986 đến nay, ta thấy rõ ba bước đổi mới đột phá trong nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân. Ba bước đột phá nói trên một lần nữa khẳng định sự tồn tại tất yếu và vị trí quan trọng của kinh tế tư nhân. Gần đây, năm 2019, Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch phát triển bền vững doanh nghiệp khu vực tư nhân đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với các nội dung: Xoá bỏ mọi rào cản tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp khu vực tư nhân phát triển, không hạn chế quy mô, có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân hiệu quả, bền vững, đảm bảo kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa hiệu quả kinh tế với trách nhiệm xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Ưu tiên hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân có quy mô nhỏ và vừa; Khuyến khích xây dựng các thương hiệu lớn của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Những luận cứ trên chính là nền tảng pháp lý vững chắc, là cơ hội cho kinh tế tư nhân phát triển bền vững. 3. Phương pháp nghiên cứu Phân tích này chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp: số liệu có liên quan đến sự phát triển kinh tế tư nhân từ Tổng cục thống kê; số liệu từ các báo cáo của các Bộ, ngành; các bài báo và các công trình khoa học uy tín có liên quan. Phương pháp được sử dụng chủ yếu trong nghiên cứu này bao gồm: phân tích và tổng hợp các số liệu thu thập được; phương pháp phân tích thống kê kinh tế, phương pháp so sánh. 4. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh và gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế – xã hội của đất nước. Đó là sự gia tăng ổn định về quy mô trong những năm qua; sự đóng góp ổn định vào GDP của đất nước; gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết nhiều vấn đề an sinh xã hội. - 287
- Bảng 1. Số doanh nghiệp đăng ký mới giai đoạn 2011 – 2019 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Số doanh nghiệp đăng 61,792 69,874 76,955 74,842 94,754 110,100 128,859 131,275 138,139 ký mới Số doanh nghiệp đăng 576,876 646,750 723,705 798,547 893,301 1,003,401 1,132,260 1,263,481 1,401,620 ký luỹ kế Số doanh nghiệp hoạt 324,691 346,777 373,213 402,326 442,485 477,808 561,064 628,760 677,617 động thực tế (luỹ kế) Số doanh nghiệp ngưng 252,185 299,973 350,495 396,221 450,816 525,593 571,196 634,721 724,003 hoạt động hoặc giải thể (luỹ kế) Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh (2020) Số lượng doanh nghiệp đăng ký mới có tăng lên ổn định hàng năm, điều này cho thấy quy mô của khu vực kinh tế tư nhân vẫn tăng trưởng ổn định. Thứ hai là sự đóng góp ổn định vào GDP từ khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế tư nhân Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 15.15 15.66 16.04 17.36 17.89 18.07 18.2 19.6 20.3 20.35 38.97 39.89 40.62 39.49 39.29 39.13 39.4 38 38.3 39.05 3.99 3.98 4 4.03 4.04 4.01 3.95 3.8 3.7 3.63 29.34 29.01 29.39 29.01 28.73 28.69 28.5 28.6 27.7 27.06 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Hình 1. Đóng góp vào GDP phân theo khu vực kinh tế (đơn vị tính: %) Nguồn: Số liệu của Tổng Cục thống kê năm 2019 Trong giai đoạn 2010 – 2019, đóng góp vào GDP từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước (bao gồm KTTN và kinh tế tập thể) chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 43%, tỷ trọng này được duy trì ổn định qua các năm, cho thấy sự tăng trưởng ổn định của kinh tế tư nhân. Thứ ba, vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội ngày càng tăng lên. 288 -
- 803,300 677,500 578,900 528,500 619,100 594,900 557,600 356,000 519,500 434,200 396,200 318,100 351,100 341,600 226,900 2011 2015 2016 2017 2018 Khu vực nhà nước Khu vực ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Hình 2. Vốn đầu tư phát triển theo loại hình kinh tế (đơn vị tính: tỷ đồng) Khu vực nhà nước Khu vực tư nhân Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 24.5% 23.3% 23.6% 23.8% 23.4% 23.0% 38.5% 38.7% 38.9% 40.6% 43.3% 46.0% 37.0% 38.0% 37.5% 35.6% 33.3% 31.0% 2011 2015 2016 2017 2018 2019 Hình 3. Cơ cấu vốn theo khu vực doanh nghiệp (Đơn vị: %) Nguồn: Niên giám thống kê Lượng vốn trong khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn 2011 – 2019 có xu hướng tăng lên. Dự báo đến năm 2025, tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân chiếm khoảng 60% tổng vốn đầu tư của khu vực kinh doanh. Thứ tư, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra số lượng việc làm rất lớn cho xã hội. - 289
- Bảng 2. Đóng góp việc làm theo khu vực kinh tế Kinh tế nhà Kinh tế tư Kinh tế có vốn Tỷ trọng Tỷ trọng Tỷ trọng Năm nước (nghìn nhân (nghìn đầu tư nước ngoài (%) (%) (%) lao động) lao động) (nghìn lao động) 2000 4,358.2 11.7 32,358.6 87.3 358.5 1.0 2005 4,967.4 11.6 36,684.7 85.8 1,112.8 2.6 2010 5,107.4 10.4 42,214.6 86.1 1,726.5 3.5 2015 5,185.9 9.8 45,450.9 86.0 2,203.2 4.2 2016 4,698.6 8.8 45,016.1 84.5 3,586.1 6.7 2017 4,595.0 9.6 44,901.9 83.6 4,237.4 7.8 2018 4,523.1 8.3 45,187.9 83.3 4,538.4 8.4 2019 4,226.2 7.7 45,664.6 83.5 4,768.4 8.7 44,902.9 45,016.1 42,304.6 44,901.0 45,187.9 45,664.6 4,768.4 5,017.4 4,786.3 4,698.6 4,595.0 4,523.1 1,726.5 3,150.8 4,226.2 3,588.1 4,207.4 4,538.4 2010 2015 2016 2017 2018 2019 Khu vực nhà nước Khu vực tư nhân Khu vực FDI Hình 4. Lao động trên 15 đang làm việc phân theo khu vực kinh tế (đơn vị tính: nghìn người) Nguồn: Tổng cục Thống kê Thứ năm, lao động trong khu vực kinh tế tư nhân có mức tăng trưởng thu nhập bình quân tháng ổn định. Bảng 3. Thu nhập bình quân tháng của người lao động theo khu vực doanh nghiệp (đơn vị tính: nghìn đồng/người/tháng) Năm Doanh nghiệp nhà nước Kinh tế tư nhân Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2010 6,233 3,420 4,252 2011 7,532 3,857 4,994 2012 8,033 4,398 5,996 2013 8,432 4,733 6,768 290 -
- Năm Doanh nghiệp nhà nước Kinh tế tư nhân Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2014 9,245 5,327 6,955 2015 9,509 5,732 7,124 2016 9,416 6,175 7,243 2017 11,910 7,370 9,040 2018 2019 Nguồn: Tổng cục thống kê Thu nhập bình quân lao động trong khu vực DN tư nhân thấp nhất. Tuy nhiên, nếu xét về tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân thì thu nhập bình quân trong khu vực DN tư nhân có mức tăng trưởng bình quân cao nhất (16,5%) so với mức 16,1% của khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài và 11,7% của khu vực DNNN. Tóm lại, với những nỗ lực đổi mới chủ trương, chính sách của Chính phủ, kinh tế tư nhân ngày càng chứng minh được tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, song song với những thành tựu, thì kinh tế tư nhân cũng có những hạn chế nhất định, đó là: Số doanh nghiệp thực sự đang hoạt động chỉ bằng một nửa số doanh nghiệp đăng ký. Điều này cho thấy môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều trở ngại, thách thức đối với các doanh nghiệp tư nhân. Đóng góp của KTTN vào tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Tỷ trọng của KTTN trong GDP ít thay đổi trong 10 năm qua. Mục tiêu đóng góp khoảng 50% GDP vào năm 2020 không đạt được. Điều này cho thấy, thể chế phát triển KTTN vẫn còn nhiều nút thắt, chưa tạo ra đột phá để khu vực kinh tế này phát triển. Cụ thể là môi trường pháp lý đối với khu vực KTTN chưa hoàn thiện, nhiều quy định chưa đầy đủ, rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo; điều kiện thủ tục hành chính, thủ tục tiếp cận đất đai, thị trường tín dụng, cơ hội đầu tư rườm rà. Đồng thời, bản thân KTTN cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém nên chưa đóng góp tương xứng với tiềm năng của mình. Năng suất lao động của khu vực KTTN thấp hơn mức bình quân của nền kinh tế. Bảng 4. Năng suất lao động theo khu vực doanh nghiệp (đơn vị tính: triệu đồng/ lao động) Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 DN nhà nước 393.9 487.0 545.5 528.4 526.7 684.2 678.1 DN ngoài nhà nước 121.4 130.6 126.4 141.6 162.7 193.3 228.4 DN FDI 218.4 235.1 251.2 243.1 291.0 314.6 330.8 Nguồn: Tổng cục Thống kê - 291
- Năng suất thấp xuất phát từ sự mất cân bằng, thiếu bình đẳng trong phân bổ nguồn lực, hỗ trợ chính sách đối với các khu vực kinh tế, đặc biệt giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ lao động ở khu vực này còn thấp, môi trường kinh doanh và thể chế kinh tế thị trường còn có sự bất bình đẳng mà DNTN bị ảnh hưởng nhiều nhất. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), rào cản lớn nhất đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của DNTN là khả năng tiếp cận tài chính (21,8% DN), trình độ yếu kém của lao động (10,7% DN)... Bên cạnh đó, các DNTN phần lớn có quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực hạn hẹp, khả năng đầu tư hạn chế, kinh nghiệm quản lý sản xuất yếu và năng lực cạnh tranh thấp. Bảng 5. Chỉ số ICOR các khu vực kinh tế Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Cả nước 5.72 6.76 6.67 6.29 5.80 6.42 6.11 Kinh tế nhà nước 9.47 8.47 10.50 12.74 9.66 10.26 12.62 Kinh tế tư nhân 4.30 5.51 7.16 6.06 5.86 7.04 6.66 Khu vực FDI 7.34 6.80 6.49 6.15 5.13 5.78 4.47 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê 5. Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý nhà nước trong thời gian tới nhằm hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển bền vững Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 1,5 triệu doanh nghiệp và 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030; tốc độ tăng trưởng của KTTN cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN đạt khoảng 55% GDP (năm 2025) và 60% – 65% GDP (năm 2030). Để tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế và đạt được mục tiêu đề ra, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Một là, quyết liệt triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 10-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 khóa XII. Xóa bỏ mọi rào cản, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho KTTN phát triển. Hoàn thiện cơ chế, chính sách định hướng phát triển KTTN; hoàn thiện hệ thống pháp luật; sửa đổi một số cơ chế, chính sách về phát triển KTTN như chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách về mặt bằng sản xuất, chính sách thuế, chính sách đào tạo, tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội... Tiếp tục rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp; rà soát lại toàn bộ phí, lệ phí thủ tục hải quan, thuế theo luật định; bộ thủ tục liên quan đến tiếp cận, giấy phép đầu tư, giấy phép xây dựng, tiếp cận đất đai, tiếp cận thông tin, chi phí phát sinh để 292 -
- làm các thủ tục nhằm phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của KTTN trong phát triển kinh tế – xã hội đồng thời khắc phục những mặt trái, những tiêu cực một cách hiệu quả. Nhà nước cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân vào hoạt động KTTN theo cơ chế thị trường. Tạo điều kiện để KTTN đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội quốc gia. Đẩy mạnh xây dựng và thực hiện Chính phủ điện tử và chia sẻ dữ liệu trên internet để cải thiện tính minh bạch và chất lượng dịch vụ công, ưu tiên việc triển khai và lồng ghép mua sắm công, đấu thầu điện tử; tăng cường cơ chế đối thoại công tư giữa doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa với Chính phủ. Hai là, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ kinh tế tư nhân về tăng cường năng lực tài chính, đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động bằng các chương trình cụ thể như: Chương trình hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ Sự hỗ trợ này không chỉ xuất phát từ lợi ích của cá nhân các chủ kinh doanh tư nhân mà còn là lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nhà nước cần phải khuyến khích, hỗ trợ KTTN bằng các chính sách cụ thể, đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. Chương trình đầu tư công nhằm cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng về kinh tế – xã hội Trong điều kiện kinh tế tư nhân Việt Nam hiện nay, tiềm lực vốn còn quá mỏng, quy mô của các doanh nghiệp còn nhỏ, khả năng liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Vì vậy, Nhà nước cần xác định vai trò là lực lượng chủ yếu trong việc tạo ra và cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, những nước có nền kinh tế phồn thịnh, duy trì được sự phát triển hài hòa giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân, chính phủ làm tốt vai trò tạo dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi những dịch vụ cơ sở hạ tầng về kinh tế và xã hội phải được cung cấp đầy đủ để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Xét theo ý nghĩa đó, việc cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng không phải của riêng ai, không phải chỉ có Nhà nước mới có trách nhiệm cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng, mà ngay cả kinh tế tư nhân cũng phải có trách nhiệm. Vì - 293
- vậy, Nhà nước cũng nên có cơ chế để thu hút tư nhân tham gia vào cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng. Điều này sẽ có tác dụng bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư cho xã hội và giảm bớt gánh nặng về vốn cho Nhà nước; mặt khác sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, khuyến khích nâng cao hiệu quả và chất lượng của dịch vụ cơ sở hạ tầng. Hỗ trợ về giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức kinh doanh và năng lực quản lý... của lãnh đạo doanh nghiệp và những người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân. Nhà nước cần có chương trình đào tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để kinh tế tư nhân Việt Nam có điều kiện tham gia hiệu quả vào sự nghiệp phát triển chung của nền kinh tế quốc dân, vào quá trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Giúp đỡ kinh tế tư nhân tháo gỡ những khó khăn về mặt bằng trong sản xuất kinh doanh. Tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục để sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đai mà các hộ gia đình dùng làm đất ở, đất sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, đất đang được sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã mua lại quyền sử dụng. Đồng thời, cho phép các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, được góp vốn liên doanh với nước ngoài bằng giá trị quyền sử dụng đất; hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo như quy định của pháp luật. Chính phủ cần ban hành các quy định cụ thể để ngành ngân hàng, các tổ chức tín dụng, tài chính có cơ sở giúp DNTN, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa thuận lợi tiếp cận nguồn vốn và cụ thể hóa bằng những cơ chế cho vay linh hoạt. Thực tế cho thấy, do phần lớn các DNTN trong nước không đủ năng lực tài chính để đầu tư vào tài sản cố định, máy móc công nghệ để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, nên khu vực doanh nghiệp này ít có cơ hội nhận được đơn đặt hàng công việc của khu vực doanh nghiệp FDI, sự tham gia vào phát triển chuỗi giá trị rất thấp. Tuy nhiên, để tiếp cận được nguồn vốn thì bản thân doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện, tiêu chuẩn, thủ tục vay vốn thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp có được nguồn lực cho kinh doanh. Ba là, Nhà nước phải chủ động trong việc phát triển những mối quan hệ giữa Nhà nước với tư nhân, giữa tư nhân trong nước với tư nhân nước ngoài, hướng kinh tế tư nhân phát triển theo con đường kinh tế tư bản nhà nước. Quan hệ hợp doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân thực chất là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nó chính là cơ chế để thông qua đó, Nhà nước có thể 294 -
- định hướng sự phát triển cho khu vực kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội mà Nhà nước đề ra là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, cần tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho các DNTN; nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, chính sách, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho KTTN phát triển lành mạnh, đúng định hướng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đảng Cộng sản Việt Nam (2002). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017). Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Economica (2018). Kinh tế tư nhân Việt Nam – Năng suất và thịnh vượng, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 1362/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển bền vững doanh nghiệp khu vực tư nhân đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, ban hành ngày 11/10/2019. Tổng cục Thống kê (2011 – 2019). Niên giám thống kê. Nhà xuất bản Thống kê. - 295
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hệ thống Quản trị tiên tiến - Hướng phát triển bền vững cho các tổ chức kinh tế
17 p | 379 | 88
-
Giải pháp nào cho sự phát triển bền vững?
4 p | 162 | 15
-
Ứng dụng mô hình Canvas trong khởi nghiệp kinh doanh định hướng phát triển bền vững
10 p | 52 | 9
-
Thị trường lao động theo định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam
18 p | 27 | 9
-
Trách nhiệm xã hội - đạo đức kinh doanh và sự phát triển bền vững
25 p | 72 | 9
-
Bài giảng Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và đạo đức kinh doanh - Chương 2: Sự bền vững và mối quan hệ với môi trường, xã hội và kinh tế
23 p | 26 | 7
-
Xuất khẩu thủy sản: vượt khó để phát triển bền vững
3 p | 62 | 4
-
Phát triển bền vững ngành than Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
8 p | 22 | 3
-
Giải pháp để xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam hiện nay
5 p | 31 | 3
-
Tăng trưởng xanh - Giải pháp phát triển bền vững cho doanh nghiệp
6 p | 32 | 3
-
Hệ thống Quản trị tiên tiến - Hướng phát triển bền vững cho các tổ chức kinh tế
17 p | 65 | 3
-
Các yếu tố tác động đến phát triển thương mại đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở Việt Nam
16 p | 64 | 3
-
Phát triển bền vững về kinh tế tại các khu công nghiệp ở Hải Phòng
10 p | 30 | 3
-
Nghiên cứu sự phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
10 p | 86 | 3
-
Phát triển bền vững các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương - nhìn từ góc độ môi trường
7 p | 64 | 3
-
Văn hóa kinh doanh và những nhiệm vụ cần thực hiện
4 p | 17 | 2
-
Báo cáo bền vững của doanh nghiệp
13 p | 43 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn