![](images/graphics/blank.gif)
Phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Thực trạng và những vấn đề đặt ra
lượt xem 6
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Bài viết "Phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Thực trạng và những vấn đề đặt ra" sẽ phân tích thực trạng phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, nêu những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ thống logistics của Vùng đến năm 2030. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Thực trạng và những vấn đề đặt ra
- PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG LOGISTICS VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TS. Phạm Nguyên Minh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung (Vùng) có tiềm năng và lợi thế phát triển logistics. Trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng logistics của Vùng đã dần được hoàn thiện, các loại hình dịch vụ logistics ngày càng đa dạng phong phú, số lượng doanh nghiệp logistics ngày càng tăng. Bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống logistics của Vùng còn một số hạn chế như chất lượng dịch vụ logistics còn thấp và giá cao, doanh nghiệp logistics vẫn chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bài viết sẽ phân tích thực trạng phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, nêu những vấn đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ thống logistics của Vùng đến năm 2030. Từ khóa: Hệ thống logistics, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, thực trạng, phát triển, vấn đề đặt ra 1. Thực trạng phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung Nhận thức được tầm quan trọng và hiệu quả kinh tế của dịch vụ logistics, vùng KTTĐMT đã chú trọng vào xây dựng và phát triển dịch vụ logistics. Các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương từng bước xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý và chính sách phát triển dịch vụ logistics. Nhiều doanh nghiệp logistics đã được thành lập nhằm cung cấp dịch vụ logistics và từng bước hình thành chuỗi cung ứng hàng hoá, dịch vụ tới các vùng miền trong cả nước và tới các nước trên thế giới. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, như Nghị định số 140/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics; Quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 22 tháng 01 năm 2014 phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ logistics trong lĩnh vực giao thông vận tải đến năm 2020; Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03 tháng 7 năm 2015 phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh logistics tại Việt Nam (thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP…, các địa phương trong vùng KTTĐMT ban hành và thực thi các chính sách phát triển cơ sở hạ tầng logistics, chính sách phát triển doanh nghiệp logistics… Tuy chính sách phát triển logistics chưa đầy đủ, đồng bộ và chưa theo kịp thực tiễn hoạt động logistics 100
- trong hội nhập nhưng đã tạo được cơ sở pháp lý nhất định để điều chỉnh hoạt động logistics trên thị trường. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp logistics, điểm trung bình của các chính sách là: Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng logistics đạt 3,034; chính sách phát triển các doanh nghiệp logistics đạt 3,043; chính sách phát triển nguồn nhân lực logistics đạt 2,925; chính sách phát triển thị trường và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics đạt 3,000; chính sách đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đạt 2,879; chính sách thu hút nguồn nhân lực logistics đạt 2,978. Hệ thống logistics của Vùng được quan tâm và chú trọng đầu tư nhiều hơn từ năm 2014 (năm đầu tiên thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng KTTĐMT đến năm 2020, định hướng đến năm 2030). Năm 2016, vùng KTTĐMT đã có bước đột phá trong phát triển logistics. Các tỉnh, thành phố của Vùng liên kết xây dựng hệ thống và trung tâm logistics làm động lực cho sự phát triển bền vững của Vùng trong xu thế hội nhập quốc tế, chú trọng phát triển thương mại thông qua vận tải xuyên biên giới tuyến HLKTĐT. Hệ thống logistics vùng KTTĐMT phát triển khá nhanh. Các yếu tố cấu thành logistics của Vùng đều đạt điểm trung bình ở mức khá (Hình 1.1). Hình 1.1. Các yếu tố cấu thành logistics vùng KTTĐMT Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp cung cấp logistics vùng KTTĐMT (96 doanh nghiệp), Học viện Chính trị khu vực I, tháng 5/2019 Hình thức dịch vụ logistics ngày càng đa dạng, phong phú với trên 20 loại hình dịch vụ. Trong đó, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất là dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ đạt 22,5%, dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa đạt 10,8%, dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển đạt 6,9%, dịch vụ kho bãi thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải đạt 6,4%... Theo kết quả điều tra 158 doanh nghiệp sử dụng 101
- dịch vụ logistics vùng KTTĐMT thì điểm trung bình đa dạng hóa các dịch vụ của Vùng là 3,234. Doanh nghiệp logistics ngày càng gia tăng, từ 19 doanh nghiệp năm 2006 tăng lên 32 doanh nghiệp năm 2010 và lên tới 63 doanh nghiệp năm 2019. Năng lực của các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT ngày càng được nâng lên và hiện ở mức khá. Điểm trung bình của tiềm lực tài chính là 3,082, của cơ sở hạ tầng và trang thiết bị là 3,012, của chất lượng dịch vụ là 3,023, của nguồn nhân lực là 2,941… (Hình 1.2). Hình 1.2. Năng lực của doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp cung cấp logistics vùng KTTĐMT (96 doanh nghiệp), Học viện Chính trị khu vực I, tháng 5/2019 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT cũng được nâng lên trong những năm gần đây. Điểm trung bình của phương tiện vận chuyển và cơ sở vật chất kinh doanh là 3,128, nguồn lực tài chính là 3,011, của chất lượng dịch vụ logistics là 3,012… (Hình 1.3). 102
- Hình 1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp cung cấp logistics vùng KTTĐMT (96 doanh nghiệp), Học viện Chính trị khu vực I, tháng 5/2019 2. Những vấn đề đặt ra trong phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung Hiện hệ thống logistics vùng KTĐMT đang trong quá trình xây dựng và phát triển, từ yếu tố cơ chế, chính sách, cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp và nguồn nhân lực sử dụng dịch vụ logistics... Do vậy, năng lực cạnh tranh logistics còn thấp so với nhiều vùng trong cả nước. Những vấn đề đặt ra trong phát triển hệ thống logistics của vùng KTTĐMT như sau: Thứ nhất, thiếu sự chỉ huy của Nhà nước Trên thực tế, trong xây dựng hệ thống logistics của vùng KTTĐMT, tính hợp tác và liên kết giữa các địa phương trong Vùng chỉ nặng về tính cạnh tranh, mạnh ai nấy làm, địa phương nào cũng muốn đầu tư xây dụng cảng hàng không quốc tế, cảng biển quốc tế, thậm chí còn cạnh tranh nguồn hàng từ các địa phương khu vực Tây Nguyên đổ về, hoặc khai thác vận chuyển sản phẩm cho các nước trong khu vực. Điều đó làm cho hoạt động logistics của Vùng manh mún, chồng chéo và kém hiệu quả do tăng chi phí không đáng có. Hệ thống khuôn khổ pháp lý của nước ta và vùng KTTĐMT về logistics vẫn còn bất cập, như thiếu chính sách phát triển logistics, chưa có chiến lược phát triển logistics cấp vùng và địa phương. Các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch giao thông vận tải, kết cấu hạ tầng thương mại… của vùng KTTĐMT 103
- và của các tỉnh chưa được "kết dính" bằng triết lý logistics, bằng các hoạt động logistics - thông qua các trung tâm logistics; các yêu cầu, nội dung logistics - bài toán tối ưu hóa trong phát triển vùng KTTĐMT chưa được đề cập tới. Cơ sở hạ tầng giao thông kết nối liên vùng chưa được đồng bộ, chưa có các trung tâm logistics quy mô vùng và khu vực được quy hoạch và đầu tư xây dựng tại các điểm có thể kết nối các loại phương tiện vận tải, kết nối các hành lang kinh tế trong vùng KTTĐMT. Tính đến thời điểm này, các trung tâm logistics hạng II chưa được đầu tư xây dựng trên các tuyến Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đi qua, nhất là nối các cảng biển trong Vùng, như cảng Chân Mây, Tiên Sa, Dung Quất, Quy Nhơn... Hơn nữa, lại thiếu hệ thống đường sắt nối với các cảng này. Điều đó đã làm hạn chế sự phát triển các hoạt động logistics, gây ùn tắc, ô nhiễm môi trường và ứ đọng hàng hóa, hạn chế sự phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa ở các địa phương trong Vùng, làm cản trở tiêu thụ sản phẩm và giao thương hàng hóa, gây bất cập trong xúc tiến thương mại. Hệ thống cảng biển của vùng KTTĐMT khá dày đặc, cứ 30 - 40km đường biển lại có 1 cảng, nhưng đa phần cảng biển không được thiết kế cho việc bốc dỡ hàng cho tàu chuyên dụng, tàu container. Nhiều cảng chỉ được thiết kế cho hàng rời, không có trang thiết bị xếp dỡ container chuyên dụng. Các cảng không có dịch vụ hàng hải trực tiếp kết nối với các cảng tại châu Âu hay Mỹ. Mặt khác, sân bay Đà Nẵng là sân bay lớn nhất của Vùng cũng thiếu các thiết bị phù hợp để bốc dỡ hàng hóa, thiếu sự đầu tư các kho bãi mới trong khu vực gần sân bay. Hệ thống kho bãi hiện tại của Vùng lại không phù hợp với hàng hóa bốc dỡ nhanh, trong đó có nhiều kho bãi đã được khai thác lâu và không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Chưa kể đến tình trạng thiếu điện và dịch vụ hỗ trợ giao tiếp thông tin (viễn thông). Công nghiệp của vùng KTTĐMT chưa đủ mạnh để tạo ra nguồn hàng dồi dào cho các cảng biển. Mặc dù hệ thống cảng tại khu vực miền Trung khá dày đặc, song ngành công nghiệp phát triển theo hệ thống cảng biển - logistics của miền Trung vẫn kém phát triển. Tính đến thời điểm này, lượng hàng hoá qua các cảng biển của Vùng chỉ chiếm hơn 15%. Trong đó, lượng hàng container qua hai cảng lớn là Đà Nẵng và Quy Nhơn chỉ chiếm khoảng 3,2%. Điều này cho thấy, mức độ công nghiệp hóa, sản xuất và sản lượng hàng hóa của vùng KTTĐMT vẫn còn quá thấp so với cả nước nên chưa tạo được nguồn hàng dồi dào cho các cảng biển. Bên cạnh đó, quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa của Vùng còn quá nhỏ, chưa tạo được động lực thúc đẩy ngành logistics phát triển. 104
- Để xây dựng hệ thống logistics vùng KTTĐMT phát triển mạnh cần phải có nhạc trưởng là Nhà nước chỉ huy để thống nhất và gắn kết các địa phương vì lợi ích chung của Vùng. Các địa phương phải hợp tác dưới sự chỉ huy của Nhà nước để phát triển hệ thống logistics mang lại lợi ích chung cho cả Vùng. Thứ hai, chưa có đủ doanh nghiệp logistics tầm cỡ Doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT vẫn chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa: 28 doanh nghiệp nhỏ, chiếm 44,44% tổng số doanh nghiệp; 16 doanh nghiệp vừa, chiếm 25,40% tổng số doanh nghiệp… (Bảng 2.1) Bảng 2.1. Quy mô doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT Quy mô doanh nghiệp logistics Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng số 63 100,00 Doanh nghiệp siêu nhỏ (< 10 lao động) 14 22,22 Doanh nghiệp nhỏ (nguồn vốn từ 10 tỷ đồng trở 28 44,44 xuống, lao động từ 10 - 50 người) Doanh nghiệp vừa (nguồn vốn từ 10 - 50 tỷ đồng, lao 16 25,40 động từ 50 - 100 người) Doanh nghiệp lớn (nguồn vốn trên 50 tỷ đồng, lao 5 7,94 động trên 100 người) Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp cung cấp logistics (96 doanh nghiệp), Học Viện Chính trị khu vực I, tháng 5/2019 Vùng KTTĐMT có 63 doanh nghiệp kinh doanh logistics, nhưng vừa yếu lại vừa thiếu từ tài chính cho đến cơ hội kinh doanh, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn trong lĩnh vực logistics. Các doanh nghiệp logistics chủ yếu thực hiện các dịch vụ đơn lẻ có quy mô vừa và nhỏ, tập trung ở thị trường nội địa với tiềm lực yếu. So với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT quy mô vốn nhỏ, hạn chế về trình độ quản trị doanh nghiệp và tính chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên, địa bàn hoạt động chủ yếu ở thị trường nội địa và một vài nước trong khu vực, các dịch vụ cung cấp còn đơn điệu, chất lượng dịch vụ thấp, ít giá trị gia tăng, thiếu liên kết. Đây là một sự yếu kém trong phát triển của hệ thống logistics của Vùng. Vùng KTTĐMT hiện vẫn chưa xuất hiện những doanh nghiệp logistics thực sự bứt phá, có quy mô tích tụ vốn lớn, phạm vi hoạt động trải rộng hay chất lượng dịch vụ vượt trội. Đa số doanh nghiệp logistics có quy mô nhỏ, chỉ dừng ở việc cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các hãng logistics nước ngoài, thực hiện những công đoạn đơn giản 105
- trong quy trình logistics. Công nghiệp địa phương không đủ mạnh để cung cấp hàng hóa cho ngành logistics, tình trạng mỗi tỉnh đều có cảng biển nên hàng hóa bị phân tán càng khiến các nhà cung ứng dịch vụ logistics không thể dựa vào quy mô dịch vụ để phát triển. Doanh nghiệp logistics của Vùng không chỉ hạn chế về vốn mà còn khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguyên nhân chủ yếu là do việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực về logistics chưa được quan tâm. Hiện số lượng các trường đào tạo về logistics rất ít, chỉ có khoảng 10 trường đào tạo, với khoảng 1.500 sinh viên theo học. Số lượng nhân lực logistics còn hạn chế. Hiện nhân lực cho logistics đang thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, tính chuyên nghiệp của ngồn nhân lực còn thấp. Doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn vốn và nhân lực hạn chế nên không thể đầu tư mạnh vào công nghệ, trang thiết bị hiện đại, thường cung cấp dịch vụ logistics đơn lẻ, nguồn hàng không đủ nên chất lượng dịch vụ thấp và giá thành cao. Do vậy, để phát triển hệ thống logistics vùng KTTĐMT, cần có chính sách khuyến khích và phát triển doanh nghiệp logistics có quy mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh hay nói cách khác là doanh nghiệp logistics tầm cỡ để dẫn đầu kéo theo các doanh nghiệp khác cùng phát triển. Thứ ba, chưa có sản phẩm logistics đủ mạnh Phần lớn dịch vụ logistics vẫn là dịch vụ logistics nội địa, đơn lẻ, không có tính liên kết tạo chuỗi dịch vụ giữa các doanh nghiệp, chủ yếu chỉ là giao nhận vận tải cơ bản, chịu chi phí cao, phụ thuộc chỉ định dịch vụ của các tổ chức kinh tế nước ngoài với tỷ lệ dịch vụ chưa đến 30%. Các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT cung cấp chủ yếu dịch vụ logistics nội địa, như dịch vụ vận tải nội địa, dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ cảng biển, cảng hàng không, dịch vụ kho bãi, khai báo hải quan, giám định, hun trùng hàng hóa, kiểm nghiệm hàng hóa, bốc dỡ hàng hóa… và đảm nhận một phần dịch vụ logistics quốc tế như làm đại lý cho doanh nghiệp FDI là các chủ hàng, chủ tàu, các nhà cung cấp dịch vụ logistics quốc tế thuê lại. Chất lượng dịch vụ logistics còn thấp và giá cao. Vì vậy, để phát triển hệ thống logistics vùng KTTĐMT, cần phải phát triển các sản phẩm logistics nội địa và quốc tế đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước và quốc tế. 106
- 3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2030 (1) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về logistics: Bổ sung thêm các văn bản dưới luật nhằm hiện thực hóa khái niệm dịch vụ logistics trong Bộ Luật Thương mại; Cụ thể hóa hơn Nghị định số 163/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 về kinh doanh dịch vụ logistics; Xây dựng chính sách phát triển logistics của Vùng đầy đủ, đồng bộ và theo kịp thực tiễn hoạt động logistics trong hội nhập; Có các chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics... (2) Xây dựng và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng logistics: Nâng cấp, xây mới hệ thống đường bộ, đường sắt, sân bay và các cảng biển; Xây dựng các trung tâm logistics để kết nối 5 địa phương của vùng KTTĐMT; Kết nối hạ tầng và các phương tiện vận tải để giảm chi phí logistics và thúc đẩy thương mại; Đầu tư, hiện đại hóa các phương tiện vận chuyển hàng hóa. Xây dựng phát triển 4 tuyến hành lang vận tải theo hướng Đông Tây, gồm: Đà Nẵng - Quốc lộ 1A - Quốc lộ 19 - biên giới Việt Lào; Đà Nẵng - Quốc lộ 14B- 14D - đường Hồ Chí Minh - Tây Nguyên; Dung Quất - Tây Nguyên; Quy Nhơn- Quốc lộ 19 nối với Tây Nguyên. Thông qua 4 hành lang này cộng với hệ thống cảng biển, doanh nghiệp có thể gom được hàng hóa ở các khu vực từ Tây Nguyên, Lào… sau đó sẽ chuyển về các cảng của vùng KTTĐMT, rút ngắn được đường đi của hàng hóa. Vùng có khoảng 20 cảng biển, không nên xây mới và đầu tư dàn trải, chỉ nên xây dựng và nâng cấp các cảng biển chính như cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng) và cảng Dung Quất (Quảng Ngãi) thành cảng nước sâu, cảng Chu Lai (Quảng Nam), cảng Quy Nhơn (Bình định) và cảng Chân Mây (Thừa Thiên Huế). Hoàn thiện kết cấu hạ tầng, mở rộng cầu cảng, xây dựng thêm cầu cảng phục vụ tàu container có trọng tải lớn, nâng cấp hệ thống kho hàng. Các cảng biển được xây dựng và nâng cấp sẽ biến các khu kinh tế của Vùng trở thành những thỏi nam châm thu hút vốn đầu tư. Các khu kinh tế này phát triển sẽ tạo ra nguồn hàng cho ngành logistics và khai thác hiệu quả các cảng biển. Xây dựng các trung tâm logistics vùng KTTĐMT: Trên cơ sở Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03 tháng 7 năm 2015 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống Trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến 2030 xác định vùng miền Trung - Tây Nguyên hình thành 06 trung tâm logistics hạng I, hạng II và 01 trung tâm logistics chuyên dụng hàng không, cần sớm xây dựng quy hoạch và có chính sách 107
- đầu tư xây dựng các trung tâm logistics để kết nối các địa phương của Vùng, khai thác hiệu quả 5 tuyến hành lang kinh tế trên địa bàn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, xuất nhập khẩu và tiêu thụ sản phẩm cho các ngành và địa phương. Các trung tâm logistics cần được xây dựng tại các điểm kết nối các loại phương tiện vận tải mà địa phương, Vùng đang sở hữu như đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không… và phải được quy hoạch với tầm nhìn 50 - 100 năm, xây dựng với quy mô như các khu công nghiệp hiện nay đối với trung tâm logistics, không nên chỉ đơn thuần là mở rộng thêm một số chức năng của các trung tâm logistics hiện có để thu hút các tập đoàn logistics của khu vực, thế giới, các doanh nghiệp logistics trong nước vào đầu tư, kinh doanh... (3) Đầu tư và quản lý hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics vùng KTTĐMT: Ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống đường sắt nối các cảng biển trong Vùng, với các trung tâm logistics, kết nối các phương tiện vận tải với các trung tâm này, áp dụng mô hình quản lý phù hợp và hiệu quả đối với các trung tâm, phát triển hệ thống đường gom ở các địa phương… Đồng thời, quản lý hiệu quả các nguồn vốn theo các hình thức huy động, theo đúng quy hoạch phát triển để xây dựng cơ sở hạ tầng logistics, trong đó có hạ tầng giao thông vận tải, tránh kiểu đầu tư, quản lý ồ ạt các dự án BOT riêng lẻ, thiếu chiến lược, quy hoạch và tầm nhìn làm chia cắt các tuyến giao thông huyết mạch bằng các trạm BOT như thời gian gần đây. (4) Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin logistics vùng KTTĐMT: Phấn đấu sớm có cảng biển quốc tế của Vùng có tên trong Danh mục “tìm kiếm” của hệ thống quản lý container toàn cầu (theo đó, các chủ hàng, dù bất cứ ở đâu trên thế giới vẫn có thể biết chính xác hàng hóa của mình đang nằm ở chỗ nào, tại cảng nào và do tàu nào vận chuyển), sử dụng hiệu quả và phổ biến hệ thống định vị GPS trong Vùng. (5) Nâng cao nhận thức về vai trò của hệ thống logistics nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững vùng KTTĐMT: Nâng cao nhận thức về vai trò của hệ thống logistics đối với phát triển của Vùng để từ đó nâng cao hơn nữa mức ủng hộ đối với nghiên cứu, triển khai và xây dựng hệ thống logistics từ Chính phủ đến các ngành, địa phương và doanh nghiệp. Đã đến lúc cần xây dựng một chương trình truyền hình logistics quốc gia và địa phương nhằm chuyển tải các vấn đề tối ưu hóa, liên kết, hợp tác trong các ngành, các địa phương và doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế cùng các vấn đề logistics khác như hải quan, thương mại, vận tải, công nghệ thông tin và mở cửa thị trường logistics… (6) Phát triển hệ thống logistics vùng KTTĐMT phải hướng tới mục tiêu hiện thực hóa liên kết kinh tế giữa các ngành, địa phương và doanh nghiệp, các hành lang 108
- kinh tế nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng và lợi thế của Vùng: Việc phát triển hệ thống logistics luôn đòi hỏi sự kết nối của nhiều ngành/lĩnh vực/khu vực khác nhau trong Vùng theo hướng tối ưu hóa, qua đó thực hiện hiệu quả mô hình liên kết kinh tế giữa các ngành, địa phương, doanh nghiệp và các hành lang kinh tế nên cần phải thành lập cơ quan quản lý logistics của Vùng (cấp quốc gia là Ủy ban logistics, cấp vùng là Hội đồng logistics vùng KTTĐMT) như là người “nhạc trưởng” điều phối và quản lý toàn bộ hệ thống các mối quan hệ kinh tế hợp lý, thực hiện sứ mạng của logistics Vùng… Để làm được điều này, cần có sự hợp tác, phân công, chia sẻ lợi ích cụ thể giữa các tỉnh thành phố, tránh việc mỗi địa phương chỉ muốn giành phần lớn trong chiếc bánh nhỏ mà không cùng hợp tác để làm chiếc bánh lớn hơn. (7) Chú trọng phát triển nguồn nhân lực logistics để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển: Đẩy nhanh công tác đào tạo nguồn nhân lực logistics cho vùng KTTĐMT và trước hết là cho các trung tâm logistics. Cần sớm xây dựng các chương trình đào tạo logistics, mở thêm chuyên ngành logistics/logistics và quản lý chuỗi cung ứng trong các Trường đại học. Tạo mối liên kết giữa các trường đại học trong khu vực xây dựng các chương trình đào tạo Logistics, đưa môn học logistics vào học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo bậc đại học và sau đại học chuyên ngành kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh ở các trường đại học vùng KTTĐMT, nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp logistics phát triển như: Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Xin-ga-po… (8) Phát triển các khu công nghiệp và khu kinh tế của vùng KTTĐMT thông qua đầu tư và tăng cường thu hút đầu tư để tạo ra nguồn hàng phong phú cho hoạt động logistics: Vùng có các khu kinh tế cảng biển tổng hợp như khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất, khu kinh tế Chân Mây và khu kinh tế Nhơn Hội. So với các vùng kinh tế trọng điểm khác thì vùng KTTĐMT yếu kém hơn về mặt hạ tầng và nhân lực, nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển trung chuyển và phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Cần chú trọng đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước vào phát triển các khu công nghiệp và khu kinh tế, đặc biệt 4 khu kinh tế cảng biển tổng hợp mang tính đột phá và là động lực phát triển cho Vùng để tạo ra nguồn hàng phong phú, ổn định và ngày càng gia tăng cho ngành logistics (khắc phục tình trạng thời gian qua, các cảng biển của Vùng không hoạt động hết công suất và còn dư thừa quá nhiều). (9) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về logistics: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về logistics trên các phương tiện truyền thông, báo chí về logistics, đặc biệt là 109
- vai trò của các trung tâm logistics trong việc thực hiện các hình thức liên kết kinh tế vùng. Từ đó để nâng cao hơn nữa mức ủng hộ đối với nghiên cứu, triển khai và xây dựng hệ thống logistics từ Chính phủ đến các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Đồng thời xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển logistics của vùng KTTĐMT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trên cơ sở đó để điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển hiện có của các địa phương trong Vùng cho phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anh Dũng - Yên Nhi (2016), “Xây dựng trung tâm logistics để thúc đẩy vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”, https://baotainguyenmoitruong.vn/ 2. Chính phủ (2006), Nghị định về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 9 năm 2006. 3. Chính phủ (2017), Nghị định quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh logistics tại Việt Nam thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP, Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017. 4. Học viện Chính trị Khu vực I (2019), Phân tích kết quả thăm dò ý kiến dành cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics và các nhà quản lý, Báo cáo tháng 5/2019. 5. Đặng Hương (2017), “Miền Trung chạy đua cảng biển, logistics vẫn kém phát triển”, đăng ngày 19/09/2017, http://cafef.vn/ 6. Phạm Nguyên Minh (2019), “Phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Thực trạng và giải pháp”, Bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống logistics quốc gia và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”, NXB. Lao động Xã hội - 2019. 7. Thế Phong (2016), “Bàn giải pháp phát triển logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”, đăng ngày 10/11/2016, http:/baochinhphu.vn/ 8. Văn Thuận (2019), “Trường Đại học Quy Nhơn: Tổ chức Hội thảo Quốc tế Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống logistics, http://www.congnghieptieudung.vn/, đăng ngày 26/10/2019. 9. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống Trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến 2030, Quyết định số 1012/QĐ-TTg, ngày 03 tháng 7 năm 2015. 110
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hạ tầng cho phát triển hệ thống logistics ở Việt Nam và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
18 p |
16 |
8
-
Khái quát hệ thống logistics quốc gia
13 p |
21 |
7
-
Thực trạng cơ sở hạ tầng logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
20 p |
12 |
7
-
Một số giải pháp phát triển hệ thống các doanh nghiệp logistics vùng KTTĐMT
4 p |
12 |
7
-
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
6 p |
17 |
7
-
Phát triển hệ thống logistics vùng KTTĐMT
15 p |
10 |
6
-
Dự báo dòng hàng hóa lưu chuyển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2045
12 p |
11 |
6
-
Thực trạng logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Những vấn đề đặt ra và và giải pháp
10 p |
31 |
6
-
Triển vọng phát triển hệ thống logistics quốc gia và vùng KTTĐMT trong hội nhập quốc tế
5 p |
14 |
6
-
Hoàn thiện chính sách phát triển hệ thống logistics vùng KTTĐMT
14 p |
14 |
5
-
Thực trạng phát triển hệ thống logistics vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
12 p |
18 |
5
-
Định hướng giải pháp phát triển hệ thống hạ tầng logistics kết nối cụm cảng khu vực tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến 2030
6 p |
13 |
2
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)