QUAN ĐIỂM CỦA NAM CAO VỀ VĂN CHƯƠNG VÀ NGHỆ THUẬT
lượt xem 57
download
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001) Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, lúc ông mới 19 tuổi, với những truyện ngắn đầu tay nhuốm đậm màu sắc lãng mạn. Phải đến khi tuyệt tác Chí Phèo và tập Đôi lứa xứng đôi ra đời vào năm 1941, ý thức nghệ thuật hiện thực của Nam Cao mới được khơi dòng mạnh mẽ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: QUAN ĐIỂM CỦA NAM CAO VỀ VĂN CHƯƠNG VÀ NGHỆ THUẬT
- Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ QUAN ĐIỂM CỦA NAM CAO VỀ VĂN CHƯƠNG VÀ NGHỆ THUẬT Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001) Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, lúc ông mới 19 tuổi, với những truyện ngắn đầu tay nhuốm đậm màu sắc lãng mạn. Phải đến khi tuyệt tác Chí Phèo và tập Đôi lứa xứng đôi ra đ ời vào năm 1941, ý thức nghệ thuật hiện thực của Nam Cao mới được khơi dòng mạnh mẽ. Ngòi bút của Nam Cao dường như đã b ắt đ ược mạch sống cuộc đời và cái "tạng" của riêng mình, liên tục cho ra mắt một loạt truyện ng ắn và cả tiểu thuyết đặc sắc trong vòng 3 năm, từ 1942 đến 1945. Như vậy là, phải mất gần 5 năm Nam Cao mới "cập bến" chủ nghĩa hiện thực; so với các nhà văn hiện thực tiền bối xuất sắc như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... thì quá trình "tìm đường" và "nh ận đường" ở Nam Cao diễn ra li ên tục và vất vả hơn nhiều. Tuy nhiên, nhờ thế mà giai đoạn sáng tác sung mãn nhất của đời văn Nam Cao luôn có sự đồng h ành của hệ thống các quan điểm nghệ thuật hiện thực, không ở bên ngoài hay phía trước để "dẫn đường" mà hóa thân trong chính những hình tượng nhân vật sống động của tác phẩm, nh ư Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Lộc (Truyện người hàng xóm), Ngạn (Nhìn người ta sung sướng) v.v... Với Nam Cao, nghề văn cần nhất là tiềm năng sáng tạo. Nhà văn chân chính nhất thiết không phải l à một "người thợ", dù có là người thợ khéo tay đi chăng nữa, do đó đi theo lối mòn, rập khuôn, xơ cứng, theo Nam Cao, là điều tối kị đối với người nghệ sĩ. Cạn nguồn sáng tạo, văn chương chỉ còn là thứ sản phẩm "rất nhẹ", "rất nông", "vô vị", "nhạt phèo" – như suy nghĩ của nhân vật nhà văn H ộ trong truyện ngắn Đời thừa. Hộ cho rằng: "Văn ch ương chỉ dung nạp đ ược những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có". Do vậy, để có thể "đem một chút mới lạ gì đến văn ch ương" thì không thể thỏa hiệp đ ược "thứ văn bằng phẳng và quá ư d ễ dãi". Phải sáng tạo cái mới, và đạt tới mức sâu sắc. Song cái mới tuyệt nhiên không phải là cái lạ lẫm, cái lập dị, tồn tại thuần túy tự thân; m à phải vì con người, vì sự thật, vì thiên chức cao quý của nghệ thuật. Trong Những truyện không muốn viết, nhân vật Cao kể rằng, mình đã bị bạn thân trách là "đ ổ đốn", "dơ dáng" vì "đem chuyện hắn ra mà vi ết"; song Cao là người trong cuộc nên thấm thía những chuyện không muốn viết ấy "bao giờ nghe cũng buồn". Vì sao? Nhân vật Điền phát biểu trong Trăng sáng: "Cái kh ổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta", và để cho sự héo tàn tính người trong con người bớt đi giữa cuộc đời thì "nghệ thuật không cần phải là áng trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than". Viết lời Tựa cho tập truyện Đôi lứa xứng đôi cuối năm 1941, nhà văn Lê Văn Trương thẳng thắn nói rằng: "Giữa lúc người ta đắm mình trong những truyện tình thơ mộng và hùa nhau "phụng sự" cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ww.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ ông Nam Cao đ ã mạnh bạo đi theo một lối ri êng", cho dù "những cạnh của tài ông đ ã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn". Nam Cao không đối lập mình với văn chương lãng mạn đang nở rộ lúc bấy giờ, song nếu lãng mạn và kiểu cách tới mức gieo vào đ ầu người ta "đầm đ ìa thuốc phiện" giữa lúc cuộc sống của những số phận "thấp cổ bé miệng" chứa chất bao điều khốn khổ, thì ông nhất quyết không đồng tình. Nam Cao thành thực lớn tiếng bênh vực, đề cao kiểu văn chương "thoát thai từ những kiếp lầm than". Chối bỏ điều này, với ông chỉ là thứ văn chương nhạt nhẽo, vô duyên, thậm chí là dối trá, lừa mị. Trong tác phẩm Trăng sáng, Nam Cao đ ối sánh biểu tượng lãng mạn của ánh trăng với thực tế khách quan của nhân sinh để khẳng định chân lý, lý tưởng của cái đẹp nằm ngay ở chính sự thật cuộc đời:" Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái b ề ngoài cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình!". Đó là sự đối sánh cái bên ngoài và cái bên trong, cái hiện tượng và cái bản chất, cái nội dung và cái hình thức. Bản chất của văn chương, theo Nam Cao, phải nói cho được, cho rõ sự thật đang tàn phá nhân thể, nhân tính con người, như Điền nghĩ: "Điền muốn tránh sự thực nhưng trốn tránh làm sao được" (Trăng sáng), và như Lộc nói: "– Anh viết những cái gì? – Những cái tôi vừa nói với anh, nghĩa là sự thật" (Truyện người hàng xóm). Ở đây ta nhận thấy sự gặp gỡ giữa Nam Cao và một bậc thầy khác của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945 – nhà văn Vũ Trọng Phụng. Không giấu giếm lòng căm hờn trước trật tự xã hội đầy ngang trái đương thời, Vũ Trọng Phụng kêu gọi sự can đảm và thành thực của nhà văn "tả chân": "Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời". Nam Cao, như nhân vật Điền, "chẳng cần đi đâu cả", "chẳng cần trốn tránh', "cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời". Vừa đau đớn, vừa trầm tư mà lại ung dung lên lộ trình sự thực ở đời, thế giới nghệ thuật trong sáng tác Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám luôn đứng vững trên mảnh đất điển hình hóa, coi trọng độ trung thực, chính xác của những chi tiết cụ thể, mang sắc thái cá tính độc đáo trong mô tả con người và cuộc sống... vốn là những nguyên tắc mỹ học bao trùm của chủ nghĩa hiện thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nam Cao lên Việt Bắc, tự chiêm nghiệm và trải nghiệm "đôi mắt nghệ thuật" của mình từ khói lửa của cuộc chiến tranh, l òng không nguôi nghĩ suy về tư cách "con dân nước Việt", về trách nhiệm của nh à văn và văn chương trước vận mệnh của dân tộc. Tự nhìn nhận cho đúng về mình cũng là để nhìn người cho chân thực, để tự soi mình và để tiếp cận cuộc sống, sự thật. Trong nhật ký Ở rừng, Nam Cao chân thành tâm sự: "Nhiều khi phải biết qu ên mình đi. Quên cái tên tuổi của mình, nếu muốn thành người có ích. Có cần gì phải cầy cục ghi tên mình lại cho lịch sử? Tạo ra lịch sử là một việc làm lớn lao hơn. Nhưng tạo ra lịch sử lại l à sự nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến cái số đông nhiều hơn ta". Trước gian khổ và hy sinh lớn lao của cuộc chiến tranh vệ quốc, mỗi người cần "biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không nghĩ g ì đến tên mình, không nghĩ đến cả thân mình nữa". Cho n ên, Nam Cao luôn đ ặt công việc làm văn của mình bên cạnh công việc của những người đi kháng ww.hoc360.vn
- Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ chiến nhằm tìm ra cái ý vị văn chương mà cu ộc sống đang cần. Ông không giấu giếm sự thật l à trong ông tồn tại cả hai ý nghĩ về công việc l àm văn. Một mặt, "vẫn còn những lúc thằng nghệ sĩ cũ trong ngư ời tôi vùng dậy"; mặt khác, ông tự chất vấn mình: "Sao tôi lại không thể dằn cái ý muốn ki êu căng của tôi xuống, để góp sức vào công việc "không ngh ệ thuật" lúc n ày chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn", tức là tham gia vào công tác tuyên truyền, động viên toàn dân kháng chiến cứu nước. Ý thức ấy được Nam Cao nâng lên thành quan điểm lý luận có tính chất định hướng hoạt đ ộng sáng tạo của mình trong bài viết V ài ý nghĩ về văn nghệ đăng trên báo C ứu quốc, tháng 7- 1948: "Điểm lại những tác phẩm cũ của chúng ta, chúng ta thấy tác phẩm nào cũng có khuynh hư ớng cả. Riêng về địa hạt văn chương, từ Trần Tuấn Khải, Tản Đà đến Thế Lữ, Lưu Tr ọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Vũ Hoàng Chương... Từ Tố Tâm qua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn đoàn đến những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Nguyên Hồng, Tô Hoài v.v... đều đẩy cho người đọc có một thái độ nào đó trước cuộc đời, đẩy họ phản ứng lại cuộc đời cách này hay cách khác... Phân tích cho thật kỹ, bới tìm đến tận cái cốt ở bên trong, ta thấy tác phẩm nào cũng tuyên truyền tranh đấu". Những ý tưởng, quan điểm của Nam Cao về nghề văn và lao đ ộng sáng tạo nghệ thuật, trước cũng như sau Cách mạng tháng Tám, cho thấy ông luôn "nhập cuộc" văn chương bằng một cái tâm sáng trong, đầy nhiệt huyết. Khởi nguồn từ cội rễ nhân văn ấy, tác phẩm của Nam Cao luôn cắm rễ sâu xa, gắn bó thắm thiết với mảnh đất hiện thực, luôn sáng lên những suy tưởng lớn bởi sự khám phá chiều sâu số phận con ng ười và cuộc đời ngay trong những cái – hàng– ngày ấm nồng hơi thở sự sống. Cội rễ ấy đ ã nuôi dưỡng và phát lộ tài năng văn chương xuất chúng của ông, đưa ông tr ở thành một nhà nhân đạo lớn, một nhà văn hiện thực bậc thầy. Huế, tháng 9-2001 NGUYỄN DUY TỪ (nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001) ww.hoc360.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề thi tuyển cao đẳng khối B năm 2012 môn Sinh
9 p | 315 | 34
-
Bài giảng Địa lý 7 bài 50: Thực hành Viết báo cáo về đặc điểm tự nhiên của Ô-xtrây-li-a
23 p | 759 | 33
-
BÀI TẬP ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐƯỜNG THẲNG & MẶT PHẲNG
7 p | 399 | 25
-
Giáo án Địa lý 8 bài 9: Khu vực Tây Nam Á
6 p | 878 | 23
-
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VỀ VĂN NGHỊ LUẬN
4 p | 270 | 23
-
Bình luận về quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
10 p | 214 | 20
-
GIỚI KHỞI SINH, GIỚI NGUYÊN SINH, GIỚI NẤM
6 p | 446 | 19
-
Bài giảng Ngữ văn 11 - Đọc văn: Chí Phèo (Nam Cao) (Tiết 2)
25 p | 58 | 6
-
Phân tích bài thơ Sóng để làm nổi bật rõ quan điểm về tình yêu của Xuân Quỳnh
4 p | 46 | 6
-
Nhà văn Tô Hoài cho rằng tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao "là bản tuyên ngôn nghệ thuật của các nhà văn hồi bấy giờ" hãy bình luận ý kiến trên.
4 p | 44 | 5
-
Giải thích bình luận câu nói của Nam Cao trong Đời thừa “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay…”
5 p | 61 | 5
-
Báo cáo: Tìm hiểu chương trình môn Toán cấp tiểu học - TS. Nguyễn Đăng Minh Phúc
23 p | 36 | 4
-
Đời thừa – một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám
4 p | 53 | 4
-
Bày tỏ quan điểm của mình về câu nói: Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo
4 p | 55 | 4
-
Giải bài tập Đặc điểm của thực vật hạt kín SGK Sinh học 6
4 p | 178 | 4
-
Đề thi học kì 2 môn Địa lí lớp 7 năm 2021-2022 có đáp án - Trường THCS Quán Toan
5 p | 15 | 2
-
Đề thi học kì 2 môn Toán lớp 6 năm 2022-2023 có đáp án - Trường TH-THCS Lê Khắc Cẩn
18 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn