intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp chỉ đạo nội dung, phương pháp, hình thức giảng dạy để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh khá giỏi lớp 4, 5 trường Tiểu học Tân Lập

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

251
lượt xem
39
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp chỉ đạo nội dung, phương pháp, hình thức giảng dạy để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh khá giỏi lớp 4, 5 trường Tiểu học Tân Lập đưa ra những biện pháp nhằm giúp cho học sinh nâng cao kỹ năng làm bài văn miêu tả từ đó nâng cao chất lượng giờ dạy môn tập làm văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp chỉ đạo nội dung, phương pháp, hình thức giảng dạy để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh khá giỏi lớp 4, 5 trường Tiểu học Tân Lập

  1. PHẦN I:   ĐẶT VẤN ĐỀ  Dạy học là hoạt động chủ đạo trong mỗi nhà trường. Chất lượng dạy   học có đạt hiệu quả  hay không trước hết phụ  thuộc vào trình độ, năng lực   của mỗi giáo viên. Giáo viên là người thực hiện phương pháp giảng dạy, là   người tổ  chức, điều khiển và đồng thời cũng là người trực tiếp hướng dẫn   học sinh tìm ra kiến thức mới. Đặc biệt khi dạy phân môn tập làm văn mà cụ  thể là thể loại văn miêu tả, giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, vững chắc,  có nghệ thuật sư phạm khéo léo để khai thác và phát huy vốn ngôn ngữ tiềm   ẩn trong óc tư duy sáng tạo của mỗi học sinh. Đối với học sinh miền núi, viết văn là một nội dung khó vì môn tập làm  văn mang tính đặc thù của môn học giàu trí tưởng tượng và biểu cảm. Để  viết được một bài văn miêu tả hay đòi hỏi các em phải có sự quan sát tinh tế,  có vốn từ  phong phú, biết cảm nhận sự  vật hiện tượng, biết so sánh, nhân  hoá, liên tưởng và diễn đạt bằng từ ngữ, hình ảnh trôi chảy, sáng tạo. Nội dung các bài tập làm văn lớp 4,5 gắn với các chủ  điểm, có sự  tích   hợp rõ nét với các phân môn khác trong chương trình tiếng việt. Viết văn là cơ  hội giúp trẻ  mở  rộng hiểu biết về  cuộc sống theo chủ  điểm đang học, góp  phần phát triển năng lực phân tích tổng hợp của học sinh. Tư duy hành động  của trẻ được rèn luyện và phát triển qua việc sử dụng các biện pháp so sánh,  nhân hoá… khi miêu tả. Do đó văn miêu tả có một vị trí vô cùng quan trọng. Văn miêu tả  giúp học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ  đẹp của con   người và thiên nhiên, có cơ hội bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và  phát triển nhân cách con người Việt Nam theo mục tiêu đào tạo của chương  trình sách giáo khoa hiện hành. Ở Tiểu học, tập làm văn là nội dung tích hợp có vị trí quan trọng trong   chương trình tiếng việt, góp phần hệ  thống lại kiến thức tiếng mẹ  đẻ  cho  học sinh làm phong phú tâm hồn các em. 1
  2. Qua miêu tả  về  vật, phong cảnh và nhất là tả  người sẽ  thể  hiện tình  cảm chân thực, bộc lộ năng lực ngôn ngữ và khả năng cảm thụ sáng tạo của  mỗi học sinh. Học sinh miền núi mà đặc biệt là học sinh trường Tiểu học Tân Lập  vốn sống, vốn từ rất hạn chế. Ngay cả đối tượng học sinh khá giỏi, khi làm  bài văn miêu tả  các em thường xa vào liệt kê chi tiết cụ  thể, thiếu kĩ năng  khái quát, tổng hợp vấn đề. Đặc biệt, các em chưa biết sử  dụng các biện  pháp so sánh, nhân hóa, sử dụng câu cảm thán, các hình ảnh đối lập khi miêu  tả nên chất lượng các bài viết văn thấp.     Đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng dạy học là một nhiệm  vụ quan trọng của chủ đề  năm học đồng thời cũng là vấn đề  mang tính ‘cấp  thiết’’ được Đảng, nhà nước, Ngành Giáo dục đặc biệt quan tâm . Với trường   Tiểu học Tân Lập, chúng tôi coi đây là nhiệm vụ  quan trọng hàng đầu, là  nhiệm vụ  cấp bách cần được giải quyết. Do đó vai trò chỉ  đạo, định hướng  của người cán bộ quản lí  là rất cần thiết. Sau nhiều năm chỉ  đạo chuyên môn và trực tiếp bồi dưỡng đội tuyển  học sinh giỏi tại trường, tôi đã dành nhiều thời gian, đầu tư  nhiều công sức   để tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề này nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy   môn tập làm văn cho giáo viên đồng thời giúp học sinh khá giỏi khối 4,5 của   nhà trường viết được những bài văn hay, tích luỹ  được những kinh nghiệm,   những kĩ năng cần thiết khi làm bài văn viết mà cụ  thể  là thể  loại văn miêu  tả . PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề: Trong mỗi học sinh đều tiềm  ẩn một khả  năng sáng tạo. Tư  duy mỗi   em có những sở  trường riêng.  Ở  độ  tuổi lớp 4,5 các em đã bước sang giai  2
  3. đoạn đầu tiên của quá trình tư duy trìu tượng vì thế các em luôn muốn tìm tòi,  khám phá thế  giới xung quanh bằng sự  hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng và  thường thể  hiện nét ngộ  nghĩnh, cảm nhận thế  giới xung quanh theo cách  riêng với trí tưởng tượng phong phú, độc đáo . Các em khám phá thế  giới xung quanh bằng con mắt bỡ  ngỡ, kì thú,   trong sáng, trìu mến và đầy cảm xúc. Những bức tranh tả  thiên nhiên con   người của các em thường êm dịu, hài hoà, sâu lắng và thơ mộng.  Quan sát thế  giới xung quanh rồi dùng phương tiện ngôn ngữ  nói, viết  để tái hiện lại là một quá trình tư  duy với cách nhìn riêng, sự  lựa chọn riêng  và một bản sắc cảm xúc riêng. Mỗi bài văn miêu tả là một sáng tác thể  hiện   trí thông minh, khả năng cảm thụ cái đẹp và nhu cầu sáng tạo ra cái đẹp trong  bản thân mỗi học sinh. Quá trình thực hiện các kỹ  năng làm văn là cơ  hội giúp học sinh mở  rộng vốn từ  và làm cho các em gắn bó với sự  vật xung quanh, thổi vào tâm   hồn các em tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước. Đó là yếu tố  quan trọng để  hình thành nhân cách con người .      Trong phân môn tập làm văn lớp 4,5, thể loại văn miêu tả chiếm hầu hết   chương trình, được phân bố như sau : Số tiết Tổng số  TT Kiểu bài Lớp 4 Lớp 5 tiết 2  nămhọc 1 Khái niệm miêu tả  01 0 1 2 Tả đồ vật 10 3 13 3 Tả cây cối 11 3 14 4 Tả con vật 08 3 11 5 Tả cảnh 0 17 17 6 Tả người 0 15 15 Tổng số tiết cả năm 30 41 71 II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 1.Công tác giảng dạy của giáo viên: 3
  4. Để  tìm hiểu thực trạng giảng dạy tập làm văn nói chung và dạy văn  miêu tả nói riêng, tôi đã tiến hành dự giờ, khảo sát chất lượng học sinh và thu  được kết quả như sau: Kết quả khảo sát giáo viên trường Tiểu học Tân Lập nửa đầu học kì 1   năm học 2012 – 2013 :  Tổng số  Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại yếu      GV SL TL SL TL SL TL SL TL 14 0 0 2 14,28% 10 71,4 4% 2 14,28% Căn cứ kết quả bảng thống kê ta thấy tỉ  lệ  giáo viên đạt giờ  dạy giỏi   về  phân môn Tập làm văn không có; tỉ lệ khá thấp, tỉ  lệ trung bình chiếm đa  số  toàn trường, đặc biệt vẫn còn giáo viên bị  xếp loại yếu. Như  vậy chất   lượng giảng dạy phân môn tập làm văn chưa đạt hiệu quả cao. Nhận định chung qua điều tra: Chất lượng giảng dạy phân môn tập làm  văn nói chung và cụ thể là chất lượng giảng dạy giờ dạy tập làm văn ở dạng   bài văn miêu tả  của giáo viên còn thấp. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên   mới dừng lại  ở mức hoàn thành các yêu cầu cơ  bản của tiết dạy tức là giúp  học sinh biết liệt kê hình ảnh và bước đầu miêu tả hình ảnh theo yêu cầu của  đề  bài song việc miêu tả  rất khô khan, đơn điệu, máy móc; học sinh tả thực   thiếu sự liên tưởng . Giáo viên chưa có kinh nghiệm trong việc khai thác vốn  từ, rèn kỹ năng tư duy, khả năng diễn đạt sáng tạo cho học sinh. Một số giáo   viên còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề, lựa chọn  hình ảnh... Trong tiết dạy, giáo viên chưa chú ý hướng dẫn học sinh sử  dụng các   biện pháp nghệ  thuật quen thuộc như so sánh, nhân hoá, đảo ngữ, điệp ngữ,   câu cảm thán… khi miêu tả đối tượng. Hình thức, phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đổi mới làm cho  học sinh nhàm chán, chưa yêu thích môn học. Đặc biệt, khi dạy học sinh khá  4
  5. giỏi giáo viên thường chỉ quan tâm đến việc cung cấp kiến thức cho học sinh,   chưa chú ý đến tâm lí căng thẳng của học sinh khi tiếp cận đề bài. Đây là một  hạn chế rất phổ biến của nhiều giáo viên không chỉ riêng giáo viên ở trường  Tiểu học Tân Lập . 2. Thực trạng về  chất lượng các bài viết văn miêu tả  của học sinh khá giỏi   khối 4,5 trường Tiểu học Tân Lập.          Kết quả khảo sát học sinh khá giỏi khối 4,5( đầu HKI năm học 2012­ 2013): Đề  bài:  Vào đầu năm học mới, em được bố  mẹ  mua cho một chiếc   cặp. Em hãy tả lại chiếc cặp ấy và nói lên suy nghĩ của mình.  Kết quả kiểm tra như sau: Tổng  Loại giỏi Loại khá Loại TB Khối số  SL TL SL TL SL TL HS 4 18 3 16.6% 11 61,1% 4 36.3% 5 21 5 23.8% 14 66.6% 2 9.6% XLC 8 20.5% 25 64.1% 6 15.4% Căn cứ  kết quả  thống kê ta thấy mặc dù tất cả  học sinh khảo sát của  hai khối 4,5 đều là học sinh khá giỏi nhưng số  lượng học sinh có khả  năng   viết được  bài văn hay ( đạt điểm giỏi ) chưa cao, đa số học sinh viết văn chỉ  dừng lại ở mức đạt khá và đạt yêu cầu (  chiếm 79.5%). Nhận định chung qua điều tra:   Phần lớn học sinh nhà trường đặc  biệt là học sinh dân tộc thiểu số  đều rất hạn chế  trong việc viết văn( văn  miêu tả). Các em chưa biết cách quan sát hoặc biết cách quan sát song không  biết cách diễn đạt. Nghèo nàn về vốn từ. Các bài viết thiếu sự liên tưởng, so   sánh, thiếu tính sáng tạo. Hầu như bài viết của các em là các bài tả thực bằng   ngôn ngữ nói hằng ngày do đó mắc nhiều sai xót trong việc dùng từ, lựa chọn  5
  6. hình ảnh, sử dụng hình ảnh. Đặc biệt các em chưa có thói quen sử  dụng câu   cảm thán, sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, điệp từ, điệp  ngữ khi miêu tả.  Từ  thực trạng trên, để  thực hiện tốt chủ  đề  năm học “ Đổi mới công   tác quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục”, nâng cao hiệu quả giờ dạy phân  môn Tập làm văn của giáo viên và đặc biệt là giúp các em học sinh khá giỏi  khối 4,5 trường Tiểu học Tân Lập viết được những bài văn miêu tả  hay,  trong sáng kiến này tôi xin trình bày cách làm của mình như sau: III. Giải pháp và tổ chức thực hiện: 1. Bồi dưỡng kiến thức văn học cho giáo viên: Theo tôi, muốn có trò giỏi trước hết phải có thầy giỏi. Vì vậy giải pháp  đầu tiên tôi thực hiện là bồi dưỡng để nâng cao kiến thức văn học cho giáo  viên.    Việc bồi dưỡng giáo viên phải tiến hành thường xuyên bằng nhiều hình  thức :        Xây dựng tiết dạy mẫu, tổ chức hội thảo, sinh hoạt chuyên môn tổ khối,  sinh hoạt chuyên môn toàn trường, sinh hoạt chuyên môn liên trường tạo điều  kiện để giáo viên giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.       Tổ chức các hội thi bao gồm cả nói và viết để rèn kỹ năng trau dồi ngôn  ngữ, kỹ năng diễn thuyết, trình bày . Ngoài hội thi giáo viên giỏi, tôi đã tổ  chức các hội thi như: thi thuyết trình về việc trưng bày vở sạch chữ đẹp tại  lớp học; thuyết trình về việc trang trí lớp học; thuyết trình về bồn hoa của  lớp; thi viết về mái trường; viết về Bác Hồ; giới thiệu cảnh đẹp đất nước,  các loài cây, các loài hoa; giới thiệu các danh nhân lịch sử; thi tuyên truyền về  phòng chống ma túy, HIV/AIDS; bảo vệ môi trường; phòng chống tai nạn  thương tích cho học sinh; bảo vệ rừng ( viết và thuyết trình)...  6
  7. Thông qua các hoạt động trên, giáo viên sẽ tích lũy cho mình vốn kiến  thức văn học vững chắc để chuẩn bị hành trang cho việc thực hiện đổi mới  nội dung, phương pháp, hình thức dạy học.  Một số lưu ý: Việc lựa chọn nội dung bồi dưỡng để tổ chức hội thi  phải gắn chặt với nội dung giảng dạy hàng ngày của giáo viên và nhu cầu  thực tiễn. Các bài thuyết trình, bài viết xuất sắc cần được phổ biến rộng rãi và  lưu giữ cẩn thận tại thư viện trường làm tư liệu tham khảo cho GV, HS. Để việc bồi dưỡng được tiến hành thường xuyên, ngoài việc tổ chức các  cuộc thi cần lồng ghép nội dung thuyết trình, giới thiệu trong các buổi chào  cờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp. 2. Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của giáo viên là yếu tố quan  trọng đầu tiên ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của học sinh. Đặc biệt khi  dạy nội dung viết văn miêu tả, giáo viên phải có nghệ thuật để dẫn dắt học  sinh cảm nhận và đến với đối tượng một cách tự nhiên, khai thác nội dung  một cách khéo léo, sáng tạo, tinh tế.  Khắc phục thực trạng học sinh nhàm chán bởi phương pháp, hình thức  dạy học đơn điệu, khô cứng mà lâu nay giáo viên vẫn làm, tôi chỉ đạo giáo  viên đổi mới cách thực hiện tiết dạy dựa trên hai hoạt động cơ bản  sau:  VD: Đề bài: Em hãy tả cảnh quê hương em khi mùa xuân đến. Hoạt động 1:  Hoạt động nhóm lớn. Tổ chức trò chơi : Vẽ quê hương: Thời gian 10 ­ 15 phút. ( Hoạt động này thay cho bước hướng dẫn học sinh đọc đề, tìm hiểu và  phân tích đề trong quy trình dạy học phân môn tập làm văn chương trình hiện  hành). 7
  8. 1.1. Cách tiến hành:  ­ GV giới thiệu trò chơi và phổ biến luật chơi : Trong tiết học hôm nay các  em  sẽ được tham gia trò chơi “vẽ quê hương”  nhưng không sử dụng màu  sắc để vẽ mà dùng ngôn ngữ (nói, viết) để tái hiện bức tranh của mình. Mỗi  nhóm sẽ vẽ lại một bức tranh về quê hương khi mùa xuân đến (theo nội dung  yêu cầu của đề)bằng cách liệt kê( viết ra) những hình ảnh sẽ vẽ và sắp xếp  hình ảnh một cách hợp lí. Từng học sinh trong nhóm sẽ tự lựa chọn cho mình  những cảnh vật yêu thích để đưa vào bức tranh và chuẩn bị nội dung thuyết  trình, giới thiệu( mô tả ) về hình ảnh, đối tượng đã lựa chọn.  ­ Chia nhóm, HD học sinh cách ghi nội dung vào bảng nhóm. VD:  Cây  đa Hoa  đào Mặt  Dòng  trời sông Quê  Chim  hương  chóc em  Người đi  vàoxuâ chợ tết nvàmù a xuân Hoa mận Cánh đồng  lúa 8
  9. ­ HS thực hiện trò chơi. ­ Các nhóm trình bày kết quả: GV hướng dẫn HS dựa vào kết quả thảo luận  nhóm dùng thước chỉ và nêu lần lượt từng nội dung (như trình bày bài văn  miệng). VD: Mùa xuân trên quê hương em thật đẹp!  Ông mặt trời sau một giấc ngủ đông dài giờ đã tỉnh giấc.  Chị đào, chị mận thi nhau đua nở.  Cô Hồng Nhung nổi bật, rạng rỡ bởi chiếc áo cánh màu đỏ thắm.  Dòng sông Mã hiền hòa nằm phơi mình sưởi ấm dưới ánh nắng dịu dàng của  mùa xuân.  Xa xa, những dãy núi trập trùng, nhấp nhô; những dải mây đang trôi bồng  bềnh tạo cho quê hương em một vẻ đẹp nên thơ và hùng vĩ.  Đêm đêm, tiếng suối chảy róc rách nghe như một bản nhạc.  Hai bên đường, chim chóc gọi nhau về tụ hội tạo nên một bản nhạc mùa  xuân diệu kì. …. ­ Học sinh nhận xét kết quả các nhóm bạn. ­ GV nhận xét phần trình bày của các nhóm, khen ngợi học sinh biết diễn đạt  trôi chảy, dùng từ hay…  ­ GV chốt nội dung kiến thức sau trò chơi: Bức tranh quê hương có rất nhiều  cảnh đẹp làm ta thêm yêu, thêm quý. Thông qua trò chơi các em đã biết lựa  9
  10. chọn những hình ảnh đặc sắc để đưa vào bức tranh của mình. Khi nói đến  quê   hương, chúng ta có thể kể đến rất nhiều cảnh vật như : cây đa, giếng nước,  dòng sông, con suối, ruộng lúa, đồi núi, nhà cửa, con đường, hàng  cây… nhưng quê hương vào mùa xuân thì phải gắn với các loài hoa trong đó nổi bật  là hoa đào, hoa mai, hoa mận, quất; cảnh người qua lại tấp nập trên đường… Dựa vào nội dung đã trình bày các em hãy viết thành một bài văn hoàn chỉnh  tả lại quê hương em khi mùa xuân đến( theo đề bài dưới đây).  Hoạt động 2: Hoạt động cá nhân: Làm bài viết: 25 ­ 30 phút. ­ GV treo bảng phụ ghi sẵn đề bài. ­ Nhắc nhở học sinh trước khi làm bài viết. ­ Học sinh viết bài. ­ Nhận xét, đánh giá. 1.2. Một số lưu ý khi thực hiện:  ­ Trò chơi có thể tiến hành theo hình thức nhóm đôi, nhóm lớn hoặc cá nhân. ­ GV nên chuẩn  bị 1 bảng mẫu  để minh họa trong phần chốt nội dung sau  trò chơi và  chuẩn bị 1 số câu văn hay gắn với nội dung đã liệt kê để giới  thiệu cho học sinh tham khảo trước khi làm bài viết. ­ Trò chơi là hoạt động khởi động nhằm giảm bớt căng thẳng, tạo hứng thú  cho học sinh trong học tập  song lại là bước chuẩn bị quan trọng cho phần bài  viết nên giáo viên phải hướng tập trung học sinh vào vấn đề cần tả theo yêu  cầu của đề.  ­ Chỉ đưa ra đề bài hoàn chỉnh khi kết thúc hoạt động 1 để học sinh thực hiện  việc tìm hiểu đề một cách tự nhiên như đang tham gia trò chơi, không bị áp  lực bởi bài văn viết. ­ Trong phần trình bày kết quả thảo luận có thể để mỗi học sinh trình bày  một nội dung tức là mỗi học sinh sẽ nêu miệng câu văn tả về cảnh đẹp mình  10
  11. thích  hoặc 1 học sinh đại diện nhóm trình bày tất cả nội dung theo sự thảo  luận của nhóm. ­ Khi học sinh trình bày giáo viên cần chú ý sửa cách dùng từ, diễn đạt để hạn  chế lỗi trong bài văn viết ở hoạt động 2. ­ Phân môn tập làm văn có quan hệ chặt chẽ với các phân môn khác như: tập  đọc, chính tả, luyện từ và câu, THXH, đạo đức… nên giáo viên cần chú ý tích  hợp kiến thức khi giảng dạy và rèn kỹ năng sống cho học sinh. 2. Định hướng một số nội dung kiến thức cần bồi dưỡng để rèn kỹ năng   viết văn miêu tả cho học sinh . Bài văn miêu tả hay bao gồm nhiều nội dung, nhiều yếu tố. Mỗi giáo  viên khi dạy học sinh viết văn miêu tả cần chú ý các nội dung cơ bản sau: Bài văn miêu tả  phải thể  hiện được trọng tâm, nhấn mạnh được đặc  điểm mà bản thân đặc biệt quan tâm, yêu thích. Lựa chọn và sử  dụng đa dạng các loại từ  gợi tả như: từ láy, từ  gợi tả  hình ảnh( từ tượng hình), từ gợi tả âm thanh( Từ tượng thanh), từ gợi tả mức  độ  giúp cho việc miêu tả  trở  nên sinh động, gợi cảm, hấp dẫn, cuốn hút  người đọc, người nghe và làm nổi bật trọng tâm bài miêu tả. Hiểu rõ tác dụng dấu câu áp dụng vào văn viết. Nắm vững các dạng cấu trúc câu: câu kể, câu cảm, câu ghép. Vận dụng phù hợp hình thức liên kết câu trong đoạn như  : thay thế  từ  ngữ, lặp từ ngữ. Sử dụng hợp lí các biện pháp so sánh, nhân hoá… Trong khuôn khổ sáng kiến này, biện pháp chỉ đạo của tôi tập trung vào  5 nội dung chủ yếu thông qua các hình thức dạy học sau:  2.1. Lựa chọn từ ngữ. Từ  là yếu tố  cấu thành câu. Muốn có câu văn hay trước hết học sinh   phải  phải biết lựa chọn từ ngữ phù hợp. Lựa chọn từ ngữ không phải là việc  11
  12. làm mới mẻ  mà là việc làm thường xuyên song làm thế  nào để  học sinh có   vốn từ phong phú và sử  dụng vốn từ một cách hợp lí, chính xác, có hệ  thống   là vấn đề tôi đặt ra trong sáng kiến này. Theo tôi có 3 cách( hình thức tổ chức   hoạt động) để  khai thác kho tàng ngôn ngữ  phong phú của Tiếng Việt đang   tiềm ẩn trong học sinh, đó là: Cách 1: Tổ chức trò chơi theo hình thức đồng loạt.            VD: Đề bài: Em hãy tả lại một em bé đang tuổi tập nói tập đi. Phương án 1: Chơi trò chơi “ Truyền điện” theo hình thức nối tiếp.  Mỗi học sinh nêu miệng một từ tả về em bé đang tuổi tập nói, tập đi.  Học sinh sau không được nêu lại từ  học sinh trước đã nói, nếu không nêu  được sẽ  bị  điện giật và bị  loại khỏi cuộc chơi. GV quy định thời gian chơi,   hết giờ dừng cuộc chơi, chỉ rõ từ đúng, sai và cung cấp thêm từ cho học sinh. Phương án 2:  Trò chơi “ Quả bóng tuyết”:  HS   ngồi   vòng   tròn   truyền   nhau   viết   từ   vào   giấy   như   cách   1   trong  khoảng thời gian nhất định. Hết thời gian giáo viên treo kết quả  lên bảng,   nhận xét và bổ xung như phương án 1. Cách 2: Lựa chọn từ ngữ theo hình thức cá nhân. GV yêu cầu mỗi học sinh tự viết từ ra giấy nháp( phiếu học tập) của   mình như cách 2 sau đó đọc trước lớp, các học sinh khác nhận xét từ đúng, sai  và bổ  xung từ còn thiếu. Giáo viên nhận xét, đánh giá, cung cấp thêm từ  cho  học sinh như cách đã nêu. Cách 3: Lựa chọn từ ngữ bằng hình thức tổ chức trò chơi theo nhóm: Giáo viên quy định thời gian chơi, phổ biến luật chơi, chia lớp thành các   nhóm( nhóm đôi hoặc nhóm lớn). Yêu cầu học sinh thảo luận ghi   từ  vào  bảng, trình bày trên bảng lớp, nhận xét, đánh giá như đã nêu và cung cấp, mở  rộng thêm vốn từ cho học sinh . VD: Các từ thường sử dụng để miêu tả em bé tuổi tập nói tập đi là:  12
  13.  Mũm mĩm, mập mạp, ngộ nghĩnh, dễ thương, lon ton, ngọng nghịu, líu lo, bi   bô,rất xinh, xinh lắm…  Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh tìm từ ngữ: ­ Từ ngữ phải phù hợp với nội dung, đối tượng miêu tả. ­ Hướng dẫn học sinh sử dụng kết hợp từ tượng thanh, từ t ượng hình, từ láy,  từ chỉ mức độ khi miêu tả. ­ Khi tìm từ, học sinh thường chỉ biết liệt kê từ một cách tự nhiên chưa có hệ  thống. Để  giúp học sinh rèn kỹ  năng hệ  thống vốn từ giáo viên nên sử  dụng  bảng sau: Từ thường dùng để tả đối tượng theo yêu cầu của đề. ( VD: Tả  em bé tuổi tập nói tập đi) Từ tượng hình: Mũm mĩm, mập mạp, ngộ nghĩnh, dễ thương, lon ton… Từ tượng thanh Ngọng nghịu, líu lô, bi bô, ê a… Từ chỉ mức độ Rất xinh, xinh lắm… 2.2. Lựa chọn hình ảnh. Lựa chọn hình  ảnh là việc định hướng giúp học sinh biết đưa vào bài   viết của mình những chi tiết phù hợp khi miêu tả. Nếu định hướng không tốt  học sinh sẽ tả sơ sài hoặc lạc đề vì tả không đúng đối tượng.  Phương pháp lựa chọn hình ảnh cũng tiến hành như  3 cách lựa chọn từ  ngữ đã nêu trên.  Kết thúc hoạt động giáo viên phải giúp học sinh nhận biết được hình  ảnh chính cần đưa vào bài văn miêu tả   ứng với mỗi đề  cụ  thể  và hình  ảnh   phụ minh họa làm sinh động bài viết. VD: Đề  bài : Em hãy tả  cảnh nhộn nhịp của  trường em trong  giờ ra   chơi. 13
  14. Với đề trên để giúp học sinh tả đúng trọng tâm, tức là đưa vào bài viết  những hình ảnh hợp lí khi miêu tả, GV có thể tổ chức cho học sinh hoạt động   đồng loạt, nhóm, cá nhân, tổ  chức trò chơi và trình bày kết quả  theo bảng   minh họa sau: HS  chơi  HS nhảy  cướpc dây HS đá  ờ cờ cầu HS  đọc  Cảnh nhộn nhịp của  truyệ HS  sân trường em giờ ra  n tập                            chơi thể  dục Hoa lá  trên sân Trường Ông mặt  Chim chóc  trời ghé  nhảy nhót  xem các  cùng các  bạn học  bạn HS sinh vui  chơi Kết thúc hoạt động giáo viên phải giúp học sinh định hình được những  hình ảnh cần đưa vào bài văn tả cảnh sân trường em giờ ra chơi là hoạt động  của  học sinh( hình ảnh chính), ông mặt trời, hoa lá, cỏ cây, chim chóc… ( chỉ  là hình ảnh phụ  làm sinh động hơn cho bài viết). 1.3. Sử dụng hình ảnh đối lập khi miêu tả. Sử dụng hình ảnh  đối lập khi miêu tả là biện pháp đưa ra các hình ảnh   trái ngược nhau để miêu tả sự thay đổi, sự phát triển… của đối tượng nhằm  14
  15. làm tăng giá trị gợi tả, gợi cảm, biểu cảm của đối tượng và làm cho bài viết  có sức thuyết phục cao hơn. Để minh họa cho việc sử dụng hình ảnh đối lập,  tôi xin trình bày một số ví dụ cụ thể sau: VD1: Sử dụng hình ảnh đối lập để miêu tả về dòng sông.  Vào thu, nước sông trong vắt. Dòng sông hiền hòa nằm phơi mình giữa  cánh đồng lúa xanh mướt. Từ xa nhìn lại, dòng sông là một dải lụa mềm . Hè  về, nước sông đục ngầu. Dòng sông giống một con trăn khổng lồ  đang giận  dữ, vỗ nước oàm oạp vào bờ như muốn nuốt chửng, cuốn trôi vạn vật.  Trong đoạn văn trên, tôi đã sử dụng các hình ảnh đối lập:  Nước sông trong vắt ­ nước sông đục ngầu Dòng sông hiền hòa – Dòng sông giận dữ Dòng sông là một dải lụa mềm ­ Dòng sông là một con trăn khổng lồ để  miêu tả  sự  thay đổi của con sông theo mùa. Các hình  ảnh đó có tác dụng   gợi tả rất cao làm tăng sức thuyết phục của bài văn. VD2:  Sử dụng hình ảnh đối lập để miêu tả về cây bàng.  Mới hôm nào cây bàng chỉ có vài chiếc lá lác đác mọc trên những chiếc  cành khẳng khiu. Vậy mà giờ  đây mỗi cành bàng là một cánh tay lực lưỡng.   Mỗi tán bàng là một chiếc ô khổng lồ che mát cả một góc sân trường. Sử dụng các hình ảnh đối lập: Cây bàng lác đác vài chiếc lá ­ Mỗi tán bàng là một chiếc ô khổng lồ Cành khẳng khiu ­ mỗi cành bàng là một cánh tay lực lưỡng để miêu tả sự phát triển rất nhanh chóng của cây bàng theo thời gian.  VD3: Sử dụng hình ảnh đối lập để miêu tả về một người mẹ liệt sĩ. Bông hoa rực rỡ của làng Hồng Dương ngày ấy giờ đây đã trở thành   một người mẹ khắc khổ, lam lũ vì phải chống chọi với những khó khăn,  nghiệt ngã của cuộc đời. Thay vào nước da trắng hồng, mịn màng là một làn  15
  16. da khô ráp điểm những chấm đồi mồi. Trên đôi mắt sáng long lanh của mẹ  luôn hằn chứa cái nhìn tuyệt vọng và nỗi đau mất mát…. Các hình ảnh đối lập: Bông hoa rực rỡ của làng Hồng Dương ­ người mẹ khắc khổ, lam lũ Nước da trắng hồng, mịn màng ­ làn da khô ráp điểm những chấm đồi mồi Đôi mắt sáng long lanh ­  cái nhìn tuyệt vọng và nỗi đau mất mát nhằm nhấn mạnh sự vất vả, lam lũ và ca ngợi sự hi sinh của người mẹ liệt  sĩ. Việc đưa ra các hình ảnh đối lập đó sẽ gây xúc động, tạo được cảm xúc  cao với người đọc. * ­ Một số lưu ý khi sử dụng hình ảnh đối lập: ­ Hình ảnh đối lập phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng miêu tả. ­ Hình ảnh đối lập phải phù hợp với thời gian, không gian. ­ Hình ảnh đối lập phải mang dấu ấn đặc trưng điển hình, tiêu biểu của đối  tượng miêu tả và tạo được cảm xúc với người đọc. 1.4. Sử dụng câu cảm khi miêu tả. Câu cảm là loại câu bộc lộ cảm xúc, tình cảm của người viết. Sử dụng   câu cảm  khi miêu tả tức là thông qua câu cảm để  bộc lộ cảm xúc, tình cảm   của mình với đối tượng được tả. Cảm xúc tự  nhiên, chân thành  ấy dễ  cảm   hóa người đọc, người nghe ngay từ câu mở đầu bài viết hoặc đọng lại trong  phần kết của bài viết. Vì vậy, tôi đã chỉ  đạo giáo viên rèn kĩ năng viết câu  cảm thán cho học sinh khi viết văn miêu tả để làm tăng giá trị bài viết. VD1: Mùa xuân trên quê hương em thật là đẹp! ( Câu cảm dùng để giới thiệu) VD2: Ôi, Mùa hè đã đến! ( Câu cảm bộc lộ cảm xúc tự nhiên) VD3: Hoa phượng đẹp quá! ( Cảm giác thích thú) VD4: Mùa xuân trên quê hương em là vậy đó! Mùa xuân tuyệt đẹp! Em yêu  mùa xuân! ( Tình cảm yêu mến, dùng để kết thúc bài). 16
  17. 1.5. Sử  dụng các biện pháp nghệ  thuật so sánh, nhân hoá, đảo ngữ, điệp  ngữ khi viết văn. 1.5.1. Cách tiến hành:  Khi học sinh đã nắm vững yêu cầu của đề  tức là xác định được đối   tượng, nội dung cần tả; để  bài văn có điểm nhấn, tôi chỉ  đạo giáo viên thực  hiện hoạt động rèn kỹ  năng sử  dụng các biện pháp nghệ  thuật so sánh, nhân  hoá, đảo ngữ, điệp ngữ cho học sinh để đưa vào bài văn viết. Cách tiến hành   như sau: VD: Đề bài tả về cây cối. Cách 1: Hoạt động cá nhân trên phiếu học tập hoặc giấy nháp theo nội   dung yêu cầu sau: Tả cây cối  Các biện pháp  Câu nghệ thuật  dùng để miêu tả Biện   pháp   nghệ  Mỗi chiếc rễ  là một con rắn khổng lồ  bám chặt lấy   thuật so sánh mặt đất để giúp cây chống trọi với những trận gió lớn. Mỗi tán lá là một chiếc ô nhỏ che mát cho chúng em. Mỗi búp lá là một ngọn nến màu xanh. … Biện   pháp   nghệ  Mỗi lần nhìn thấy em, cây lại giơ  những cánh tay nhỏ  thuật nhân hoá bé ra để vẫy chào. Được em chăm sóc, cây thì thầm nói: “ Cảm  ơn bạn   nhỏ” …. Biện   pháp   nghệ  Mùa hè đến, rực đỏ khắp sân trường màu hoa phượng. thuật đảo ngữ … Biện   pháp   nghệ  Ôi, hoa phượng! Hoa phượng đã nở  rồi. Hoa phượng   thuật điệp ngữ đẹp biết bao. Hoa phượng chính là hoa học trò. Hoa   17
  18. phượng là người bạn thân thiết của chúng mình đấy!... Cách 2: Hoạt động nhóm hoặc tổ chức trò chơi. Giáo viên chia nhóm(đội) chơi, giao nhiệm vụ  như  đã trình bày trong  phiếu ở cách 1.  Yêu cầu học sinh các nhóm( đội) ghi kết quả vào phiếu. Nhận xét, đánh giá, sửa chữa, bổ xung. 1.5.2. Những điểm cần lưu ý: Khi sử dụng các biện pháp nghệ  thuật so sánh,  nhân hóa, đảo ngữ, điệp ngữ giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ: ­ Hình ảnh so sánh phải hợp lí tức là có sự liên quan,  nét tương đồng giữa đối  tượng so sánh và đối tượng được so sánh. ­ Biện pháp nhân hóa dùng cho đối tượng miêu tả là đồ vật, con vật, cây cối,   sự vật( không dùng cho người). ­ Sử dụng biện pháp đảo ngữ, điệp ngữ khi muốn nhấn mạnh một nội dung   nào đó nhằm làm tăng sức biểu cảm. ­ Khi tổ chức hoạt động theo nhóm/ trò chơi Gv có thể chia nhỏ nội dung thảo  luận cho các nhóm/ đội   tức là mỗi nhóm sử  dụng một hoặc hai biện pháp   nghệ  thuật so sánh/ nhân hóa/ điệp ngữ/ đảo ngữ  hoặc  tất cả  các nhóm/đội  cùng thực hiện chung một nhiệm vụ giống nhau như hoạt động cá nhân. IV. Kiểm nghiệm: Với biện pháp cụ thể đã nêu trên, trong quá trình chỉ đạo chuyên môn ở  trường Tiểu học Tân Lập tôi đã giúp giáo viên, học sinh nhà trường giảng  dạy, học tập môn tập làm văn đạt hiệu quả  cao hơn. Kết quả  khảo sát giáo  viên, học sinh cuối học kì 2 cụ thể như sau:       a, Học sinh: Tổng số HS khá giỏi khối 4,5: 39 em, trong đó: Các yêu cầu khi viết văn miêu tả Số lượng Tỉ lệ Sử dụng từ ngữ chính xác, hay. 30/39 76.9% Lựa chọn hình ảnh phù hợp 32/39 82.1% Sử dụng hình ảnh đối lập trong bài viết 23/39 58.9% Sử dụng câu cảm thán  để làm tăng sức  27/39 69.2% 18
  19. biểu cảm trong bài viết Sử  dụng  các   biện  pháp  nghệ  thuật  so  sánh, nhân hoá, đảo ngữ, điệp ngữ  khi  39/39 100% viết văn.          Kết quả đánh giá chung chất lượng bài viết của học sinh. Giỏi Khá Tổng số SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ 39 23 58,9% 16 41,1% So với kết quả  khảo sát ban đầu, tỉ  lệ  giỏi tăng 38.4%. Kết quả  trên   chứng tỏ  việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy học của giáo  viên đã tác động trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. 100% học sinh  khá giỏi của trường Tiểu học Tân Lập khi viết văn miêu tả  đã biết đưa vào  bài viết của mình những từ  ngữ  hay, hình  ảnh phù hợp, độc đáo và sử  dụng  thành thạo các biện pháp nghệ  thuật so sánh, nhân hóa, đảo ngữ, điệp ngữ...   khi miêu tả đối tượng. Đặc biệt học sinh yêu thích môn học hơn và rất hứng  thú khi học môn tập làm văn. b, Giáo viên: Kết quả  kiểm nghiệm chất lượng giờ  dạy cuối học kì 2 năm  học 2012 – 2013. Tổng số Loại giỏi Loại khá Loại TB Loại Yếu SL TL SL TL SL TL SL TL 14 5 35.7% 7 50% 2 14.3% 0 0 Hiện nay, 100% giáo viên nhà trường đều áp dụng các biện pháp tôi đã  nêu vào tiết dạy tập làm văn. So với kết quả khảo sát ban đầu tỉ lệ giỏi tăng  35.7 %,  không còn tỉ lệ yếu,  tỉ lệ trung bình giảm đi rõ rệt. Giáo viên và học   sinh tự tin hơn, không còn bị  áp lực, căng thẳng khi giảng dạy, học tập môn  tập làm văn. 19
  20. PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT. Qua cách làm trên, tôi nhận thấy, mỗi giáo viên muốn dạy tốt môn tập  làm văn nói chung và dạy tập làm văn miêu tả  nói riêng cần phải chú ý hai   yếu tố  cơ  bản đó là: phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học và nội dung  dạy học.  Về  phương pháp, hình thức dạy học giáo viên phải vận dụng sáng tạo   chuyên đề trò chơi học tập ở Tiểu học để xây dựng các trò chơi học tập phù   hợp với từng nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ  trách.  Về  nội dung, để  rèn kỹ  năng viết văn miêu tả  cho học sinh giáo viên  phải chú ý rèn các kỹ năng: lựa chọn từ ngữ, lựa chọn hình ảnh, sử dụng hình  ảnh đối lập, câu cảm thán, các biện pháp nghệ  thuật nhân hóa, so sánh, đảo  ngữ, điệp ngữ khi miêu tả. Ngoài các yếu tố trên, giáo viên phải chú ý khắc phục các lỗi viết văn   của học sinh cả  về  nội dung và hình thức trình bày như  lỗi về  chính tả, lỗi  viết câu, lỗi về  ngữ pháp, lỗi về bố  cục, lỗi diễn đạt, lỗi trình bày… để  bài   văn đạt hiệu quả cao. Trong sáng kiến này tôi chỉ đề  cập đến đối tượng là học sinh khá giỏi  khối 4,5 ở trường Tiểu học Tân Lập và thể loại là văn miêu tả nhưng tôi nghĩ   sáng kiến có thể  mở rộng để áp dụng cho mọi đối tượng học sinh ở các vùng   miền khác nhau. Việc rèn kĩ năng viết văn nói chung( văn miêu tả nói riêng) cho học sinh   khá giỏi không bị  hạn định thời gian nên với mỗi đề   văn miêu tả  giáo viên  nên luyện kĩ các thao tác: Lựa chọn hình ảnh ­ Lựa chọn  từ ngữ ­ Lưạ chọn   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
66=>0