intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp quản lí hoạt động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2, 3 trường Tiểu học Tình Thương

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

66
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn về công tác quản lí hoạt động học của học sinh và thực hiện các biện pháp quản lí hoạt động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập đạt hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp quản lí hoạt động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2, 3 trường Tiểu học Tình Thương

  1. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong trường tiểu học, hoạt động dạy học là hoạt động trọng tâm,   chiếm hầu hết thời gian, khối lượng công việc của thầy và trò trong một năm  học. Hoạt động dạy học là nền tảng quan trọng để thực hiện thành công mục  tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường và quyết định kết quả đào tạo của nhà  trường. Hoạt động dạy học thể  hiện tính hai mặt: hoạt động dạy của giáo  viên và hoạt động học của học sinh. Đây là hai hoạt động trung tâm của quá  trình dạy học, hai hoạt động mang tính chất khác nhau, song thống nhất với  nhau trong mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò. Quản lý hoạt động học của  học sinh, đặc biệt là quản lí hoạt động học của những học sinh còn khó khăn  trong học tập, không phải chỉ trên bình diện khoa học giáo dục mà còn đòi hỏi  tinh thần trách nhiệm và sự  kiên trì nhẫn nại của người giáo viên đối với sự  nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Trong những năm qua, chất lượng giáo dục  ở  trường Tiểu học đã có   nhiều chuyển biến song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thực tế  giáo dục  ở cấp Tiểu học. Sự  phân định trách nhiệm và quy chế phối hợp giữa  các bộ  phận tham gia hoạt động giáo dục trong nhà trường chưa chặt chẽ.   Công tác phối hợp ba môi trường giáo dục chưa phát huy hết hiệu quả. Nhiều  học sinh còn bị  hổng kiến thức, thiếu tinh thần vượt khó, chưa hứng thú học  tập, lười biếng, chán nản, hay nghỉ học … Thực trạng này diễn ra nhiều hơn ở  các trường, lớp thuộc các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt là vùng   đồng bào dân tộc thiểu số. Điều đó gây ra nhiều hậu quả cho bản thân học sinh,   gia đình, nhà trường, xã hội ở hiện tại và tương lai. Bởi vậy, quản lý hoạt động  học tập của học sinh là khâu quan trọng, trực tiếp quyết định chất lượng học  tập   của   học   sinh,   đặc   biệt   là   đối   với   học   sinh   còn   khó   khăn   trong   học  tập. Nếu quản lý hoạt động học của học sinh tốt thì sẽ  nâng cao hiệu quả  hoạt động dạy và học. Như vậy, việc nghiên cứu công tác quản lý hoạt động  học tập của học sinh, trong đó chú trọng các giải pháp giúp đỡ  học sinh còn  khó khăn trong học tập là vấn đề  cấp thiết để  nhà trường nâng cao   chất  lượng giáo dục, góp phần thực hiện được mục tiêu đổi mới căn bản giáo dục  toàn diện, phát triển giáo dục làm cơ sở cho công cuộc đổi mới đất nước.  Từ  những lí do nêu trên, với trách nhiệm của một giáo viên chủ  nhiệm  lớp, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề  tài   Biện pháp quản lí hoạt  động học của   những học sinh còn khó khăn trong học tập  ở  lớp 2; 3 trường Tiểu học Tình   Thương . Đề tài này không phải là vấn đề mới, nó đã xuất hiện trong một số  đề  tài nghiên cứu của bản thân và đồng nghiệp nhưng nội dung bàn về  các  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 1
  2. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . biện pháp quản lí hoạt động học của học sinh còn khó khăn trong học tập là  người dân tộc thiểu số không nhiều và không cụ thể. Vì lẽ đó, tôi hi vọng đề  tài đưa ra được những biện pháp hữu hiệu để  vận dụng nhằm mang lại kết   quả  cao cho chất lượng dạy học  ở những đơn vị  có nhiều học sinh dân tộc  thiểu số. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. *Mục tiêu : ­ Giáo viên có nhận thức đúng đắn về công tác quản lí hoạt động học của   học sinh và thực hiện các biện pháp quản lí hoạt động học của những học sinh  còn khó khăn trong học tập đạt hiệu quả. ­ Nâng cao chất lượng giáo dục *Nhiệm vụ:  Xây dựng cơ  sở  lý luận về  việc quản lí hoạt động học của học sinh;   nghiên cứu thực trạng của đơn vị và đưa ra một số biện pháp giúp đỡ học sinh   còn khó khăn trong học tập thông qua việc nâng cao hiệu quả  quản lí hoạt  động học của học sinh lớp 2, lớp 3 ở trường Tiểu học Tình Thương. 3. Đối tượng nghiên cứu. Biện pháp giúp đỡ  học sinh còn khó khăn trong học tập thông qua việc  quản lí hoạt  động học của học sinh. 4. Giới hạn của đề tài. Phạm vi nghiên cứu của đề  tài là những học sinh còn khó khăn trong  học tập  ở  lớp 2 năm học 2014­ 2015, lớp 3 năm học 2015­2016 và lớp 2 năm   học 2016 ­2017 (trường Tiểu học Tình Thương, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk  Lăk) Vấn đề nghiên cứu được thực hiện song song với các biện pháp quản lí  hoạt động học của học sinh nói chung đã thực hiện trong năm học trước và  đặc biệt chú ý nghiên cứu, thực hiện thêm các biện pháp quản lí hoạt động   học của những học sinh còn khó khăn trong học tập nói riêng. 5. Phương pháp nghiên cứu. a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp b. Nhóm nghiên cứu thực tiễn Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 2
  3. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . ­ Phương pháp trải nghiệm thực tế ­ Phương pháp khảo sát, điều tra ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm ­ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia ­ Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm II. PHẦN NỘI DUNG  1. Cơ sở lý luận Hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự  phát triển tâm lí của học sinh tiểu học. Vì trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học   là lứa tuổi thực hiện bước chuyển từ  hoạt động vui chơi là hoạt động chủ  đạo sang học tập là hoạt động chủ đạo. Hoạt động học tập đem đến cho trẻ  nhiều điều mà trước đây trẻ chưa bao giờ  có được hoặc không thể  tiếp cận   được. Nhà trường và hoạt động học tập đặt ra cho trẻ những vấn đề mới của   cuộc sống.Trẻ  không chỉ  phải tự  lập lấy vị  trí của mình trong môi trường  mới, mà còn phải thích  ứng với việc chấp nhận những người lớn ngoài gia  đình là thầy, cô giáo sẽ đóng vai trò hàng đầu trong cuộc sống của trẻ.  Bên cạnh đó, tuổi tiểu học là tuổi của sự  phát triển hồn nhiên bằng  phương thức lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức   về  các môn học, trẻ  em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường   trường học và môi trường xã hội. Cùng với sự   ảnh hưởng khá lớn của môi  trường giáo dục gia đình và quan hệ  bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường  học, học sinh tiểu học lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi.  Sự  lĩnh hội trên tạo ra những biến đổi cơ  bản trong sự  phát triển tâm lí của   học sinh tiểu học. Chúng không chỉ  đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc  sống nhà trường và hoạt động học, mà còn chuẩn bị cho các em những bước  ngoặt quan trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên.  Ở  trường Tiểu học, học sinh từng ngày, từng giờ  tự  hình thành cho  mình những năng lực của người học  ở  trình độ  sơ  đẳng nhưng cơ  bản, như  sử  dụng tiếng Việt, năng lực tính toán, năng lực làm việc trí óc. Học tập là  một hoạt động nhận thức, khi có nhu cầu hiểu biết học sinh sẽ tích cực học  tập. Nhu cầu hiểu biết đó chính là động cơ nhận thức của học sinh trong học   tập. Học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ  thể  trong hoạt động dạy học.  Không gian hoạt động học tập của học sinh là từ  trong lớp, ngoài lớp đến ở  nhà. Thời gian hoạt động học của học sinh bao gồm giờ học trên lớp, giờ học   ở  nhà và thời gian thực hiện các hình thức học tập khác. Trong việc quản lý  hoạt động học tập của học sinh, chúng ta cần bao quát được cả  không gian,  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 3
  4. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . thời gian và các hình thức học tập để  điều hòa cân đối chung, điều khiển   chúng hoạt động phù hợp với tính chất và quy luật hoạt động dạy học. Tuy   nhiên, đối với những học sinh còn khó khăn trong học tập thì người giáo viên  phải vận dụng các biện pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của học sinh từng  vùng, từng khu vực và từng nhóm học sinh.  Sinh thời, Bác Hồ  đã từng nói:  “Giáo dục phải theo hoàn cảnh, điều kiện”, đây chính là yêu cầu  cần quan  tâm đến các đối tượng học sinh. Đối tượng học sinh còn khó khăn trong học   tập vẫn luôn tồn tại trong giáo dục. Tuy nhiên về  số  lượng học sinh này   nhiều hay ít và mức độ  tiến bộ  của các em nhanh hay chậm trong quá trình  giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của những người làm công  tác giáo dục. Tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục giống   nhau, nhưng mỗi học sinh có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có  điều kiện hoàn cảnh  sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình khác nhau, có  động cơ và thái độ học tập khác nhau thì năng lực học tập, khả năng tiếp thu   kiến thức của mỗi học sinh cũng khác nhau. Bởi vậy, để  nâng cao trình độ  cho những học sinh còn khó khăn trong học tập cần tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể  từng đối tượng học sinh mà có biện pháp thích hợp.  2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu Học sinh trường Tiểu học Tình Thương hầu hết là con em của đồng bào  các dân tộc thiểu số   ở  buôn Tur A, buôn Tur B và buôn Kala, xã Đray Sáp,  huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Trong đó buôn Tur A, buôn Tur B la hai buôn  đặc biệt khó khăn của xã. Nhiều học sinh ở buôn Tur A là con em của các bệnh  nhân phong đang diều trị  tại khoa điều trị  phong Ea Na. Vì vậy có thể  nói đa  phần học sinh của trường có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Yếu tố  khách  quan này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Các em ít được  sự  quan tâm của gia đình, điều kiện học tập thiếu thốn. Vì vậy, khi tiếp cận  với các phương pháp học theo hướng đổi mới, đòi hỏi tính chủ  động cao có  nhiều em chưa theo kịp được các bạn trong các hoạt động học tập. Bên cạnh  những học sinh có nhận thức đúng đắn về  các hoạt động học tập, cụ  thể  là  thái độ học tập, xây dựng bài trên lớp, tự học, tự chuẩn bị bài ở  nhà, tham gia   thảo luận nhóm, ý thức tự  giác làm bài kiểm tra,… số  học sinh chưa tự  giác   học, thiếu tự tin khi tham gia các hoạt động học tập còn nhiều. Vì vậy, để hoạt  động học của học sinh kể cả những học sinh còn khó khăn trong học tập đạt   hiệu quả cần có sự quản lý chặt chẽ, phù hợp với từng đối tượng học sinh của   giáo viên, nhà trường và sự nỗ lực hết mình của các em học sinh. Trong những năm học vừa qua, chất lượng đội ngũ giáo viên của trường  có   nhiều   chuyển   biến.   Tập   thể   giáo   viên   có   ý   thức   trách   nhiệm,   có   kinh  nghiệm và tâm huyết với nghề. Giáo viên chủ  động   xây dựng kế  hoạch và  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 4
  5. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . thực hiện các biện pháp giúp đỡ  học sinh còn khó khăn trong học tập, bồi   dưỡng học sinh có năng khiếu thường xuyên. Quan tâm xây dựng nề nếp học  tập của lớp. Trong giảng dạy, tích cực vận dụng các phương pháp theo hướng  đổi mới, điều này cũng thường được lấy làm chủ  đề  cho các buổi sinh hoạt   chuyên môn và đã có những  hiệu quả  nhất định. Tuy nhiên, do trình độ  giáo  viên không đồng đều, một số  giáo viên là người dân tộc thiểu số, có tuổi đời  cao nên việc đổi mới phương pháp giảng dạy gặp nhiều khó khăn. Một số giáo   viên chưa mạnh dạn trong việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực, chưa  thường xuyên khai thác, tận dụng trang thiết bị  dạy học, việc thực hiện đổi  mới trong kiểm tra đánh giá chưa linh hoạt. Số giáo viên có trình độ đào tạo tin  học để đáp ứng giảng dạy theo công nghệ thông tin còn khiêm tốn. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học của học sinh bao gồm các tài   liệu, các thiết bị giáo dục, các phòng học, các cơ sở vật chất phục vụ giáo dục   thể  chất, môi trường sư  phạm có  ảnh hưởng hết sức quan trọng đến chất  lượng dạy học. Các thiết bị  giáo dục phục vụ  yêu cầu giảng dạy, học tập,   sách báo, tài liệu tham khảo đều tập trung tại thư  viện của trường và được   giáo viên, học sinh tích cực khai thác. Trường có 1 phòng máy vi tính cho học   sinh học tin học và tham gia thi giải toán, thi tiếng Anh qua mạng internet. Tuy   nhiên với yêu cầu đổi mới trong công tác dạy học và với nhu cầu tự  nghiên  cứu, học tập của giáo viên, học sinh ngày càng lớn thì số lượng các thiết bị của   trường cần phải được bổ sung rất nhiều. Trường chưa có đủ  các phòng chức  năng, thiếu điều kiện để  các giáo viên có năng lực áp dụng giảng dạy theo   công nghệ  thông tin. Một số  phòng học xuống cấp, thiếu diện tích. Sân chơi   của học sinh chưa đảm bảo an toàn; thiếu công trình vệ sinh và hệ thống nước  sạch phục vụ học sinh.  Để  tạo được những chuyển biến về  chất lượng trong các hoạt động   giáo dục, trong những năm qua, nhà trường đã đẩy mạnh các hoạt động bồi  dưỡng cán bộ  giáo viên bằng nhiều hình thức khác nhau vì mục tiêu chiến  lược  và  hiệu   quả.  Tổ  chức   triển  khai  thực  hiện  nghiêm  túc  các   văn  bản  hướng dẫn chỉ đạo của các cấp tới từng giáo viên.Thực hiện giao quyền chủ  động cho tổ khối, giáo viên trong việc xây dựng kế hoạch dạy học và tổ chức  các hoạt động học cho học sinh. Khuyến khích những giáo viên có sáng tạo  trong công tác dạy học. Động viên, khen thưởng kịp thời những giáo viên, học  sinh đạt thành tích cao trong dạy học. Huy động các nguồn lực trong và ngoài  nhà trường, phối hợp với cha mẹ  học sinh cùng tham gia vào việc giáo dục  học sinh. Tổ chức cho học sinh học tập lẫn nhau thông qua các nhóm học tập,   đôi bạn cùng tiến. Phát động đọc sách, báo tại thư viện  của trường, của lớp;  tổ  chức các tiết hoạt động tập thể  theo khối, lớp.  Tuy nhiên, hoạt động của  Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên chưa thật sự  chú trọng vào các hoạt động  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 5
  6. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . học của học sinh, chưa tổ  chức được nhiều cuộc thi, giao lưu trao đổi kinh  nghiệm về học tập cho học sinh giữa các lớp với nhau. Chính vì vậy học sinh   chưa thật sự nỗ lực hết sức của bản thân, ít có sự thi đua trong các phong trào  học tập. Mặc dù, hàng năm trường có tổ chức giao lưu tiếng Việt của chúng  em, thi tìm hiểu về môi trường, tìm hiểu về các tệ  nạn xã hội,…nhưng mức  độ  tham gia của học sinh còn hạn chế, phần nhiều học sinh còn đứng ngoài   các phong trào này.  3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp Giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện các giải  pháp giúp đỡ học sinh còn khó khăn trong học tập qua việc quản lí hoạt động  học của học sinh. Giáo viên có kế  hoạch quản lí hoạt động học của các đối  tượng học sinh đạt hiệu quả.Cụ thể là giáo dục học sinh có tinh thần, thái độ,   động cơ  học tập đúng đắn. Hình thành được nền nếp học tập cho học sinh,  phát huy tính tự giác, chủ động trong học tập của học sinh còn khó khăn trong   học tập và giúp các em thực hiện các hoạt động học tập ngày càng có chất   lượng hơn. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. * Nắm bắt tình hình lớp, phân loại các đối tượng học sinh. Vào đầu năm học, giáo viên chủ  nhiệm tiến hành điều tra cơ  bản về  tình hình lớp. Cụ thể là tìm hiểu về đặc điểm tâm lý, tư tưởng, đạo đức, năng  lực, sức khỏe, khả  năng học tập và hoàn cảnh gia đình của từng em.Qua đó  giáo viên sẽ  thấy được mặt mạnh, mặt yếu của từng em và dự  đoán chiều  hướng phát triển của từng học sinh cũng như  tập thể  lớp. Đồng thời xây  dựng các phương thức tác động đến từng cá nhân học sinh, đặc biệt quan tâm   đến đối tượng học sinh còn khó khăn trong học tập. Giáo viên chủ nhiệm vận  dụng một số phương pháp tìm hiểu sau: + Nhận bàn giao lớp từ giáo viên chủ nhiệm năm học trước để nắm rõ   tình hình phấn đấu, rèn luyện và học tập của từng em trong lớp. Quan tâm,  tìm hiểu kĩ các vấn đề  liên quan đến những học sinh còn có khó khăn trong   học tập. + Khảo sát chất lượng đầu năm để  nắm bắt lại tình hình học tập của  học sinh sau thời gian nghỉ hè, ghi chép cụ  thể  những khó khăn của học sinh   bộc lộ qua các hoạt động làm bài kiểm tra khảo sát. + Quan sát hoạt động của học sinh trong từng hoạt động, trong từng giờ  học, giờ chơi, trò chuyện với học sinh … Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 6
  7. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . + Trong các buổi họp cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm trao đổi các   nội dung cần tìm hiểu (lập phiếu hỏi cụ thể những nội dung cần tìm hiểu đối   với học sinh còn khó khăn trong học tập). Từ những thông tin thu được, giáo viên có cơ sở để xây dựng kế hoạch  xử lý khoa học, hiệu quả trong các tình huống sư phạm và tác động một cách   tích cực tới từng em học sinh.  * Giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập cho học sinh  Động cơ  học tập không có sẵn hay tự  phát, mà được hình thành dần   dần trong quá trình học tập của học sinh dưới sự  tổ  chức, hướng dẫn của   giáo viên. Tính tò mò và ham hiểu biết là đặc điểm rõ nét nhất trong tình cảm  trí tuệ của học sinh tiểu học. Tuy nhiên, đối với học sinh còn khó khăn trong  học tập, giáo viên cần biết hướng dẫn, khơi gợi tính tò mò cho các em. Các  em sẽ  tập so sánh những điều hiểu biết (có thể  chỉ  rất đơn giản) trong sách   vở, lời giảng của thầy cô giáo với những điều thu nhận được trong thực tế  cuộc sống. Từ  đó nảy sinh nhiều thắc mắc muốn tìm hiểu những điều sâu  sắc hơn. Đó là cơ sở để giáo viên xây dựng động cơ học tập cho học sinh. Cũng như  những học sinh khác, học sinh còn khó khăn trong học tập   cũng muốn được giải đáp đầy đủ  những vấn đề  thắc mắc nhưng lại không  giám hỏi, hay không biết đặt ra vấn đề  để  tìm hiểu. Vì vậy, giáo viên cần  nghiên cứu kĩ các phương pháp giảng dạy đối tượng học sinh này đồng thời   gần gũi, trò chuyện với các em để động viên các em mạnh dạn hơn. Giáo viên   cần thường xuyên trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm trong dạy học, bồi   dưỡng trình độ  chuyên môn bằng nhiều hình thức như  thao giảng, dự  giờ,  tham gia sinh hoạt chuyên đề, tập huấn nghiệp vụ, nghiên cứu chương trình  và tài liệu hướng dẫn đối với vùng miền để vận dụng tổ chức những tiết học  thật nhẹ nhàng, hấp dẫn tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh. Cụ thể,   người  giáo viên cần phải  tăng hứng thú học tập cho học sinh bằng cách   chuẩn bị giáo án thật tốt, các phương tiện dạy học phải hấp dẫn với lời nói  nhẹ nhàng, lối cuốn, hình ảnh trực quan sinh động...Ví dụ  như  ở  môn Tiếng  Việt, kết quả  môn Tiếng Việt của các học sinh  ở  các trường có nhiều học  sinh dân tộc thiểu số  thường không cao. Tại sao vậy? Học sinh dân tộc học  tiếng Việt bằng ngôn ngữ thứ hai, môi trường giao tiếp hàng ngày của các em   không phải là tiếng Việt. Trong khi đó, phương pháp dạy môn tiếng Việt của   một số  giáo viên còn chưa thu hút được học sinh. Giáo viên vào lớp thì chỉ  như một người cung cấp cho học sinh những kiến thức mới,  giải nghĩa từ khô  khan, khó hiểu, những bài văn khuôn mẫu và  những yêu cầu cứng nhắc đã  làm cho học sinh cảm thấy “sợ” học Tiếng Việt, nhất là với những học sinh  còn khó khăn trong học tập. Chưa kể đến việc có khi để giải nghĩa một số từ  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 7
  8. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . ngữ mới, do quá chú trọng tiêu chí ngắn gọn, giản đơn hóa mà trong sách giáo  khoa chỉ giải nghĩa mơ  hồ, chung chung và khó nhận diện. Nếu giáo viên chỉ  giải nghĩa theo đó thì sẽ rất khó để học sinh còn khó khăn trong học tập hiểu   được vấn đề. Ví dụ: Trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, tập 2,  giải nghĩa từ   sơn   ca như sau: ­ Sơn ca: loài chim nhỏ  hơn chim sẻ, hót rất hay; khi hót thường bay  bổng lên cao.  Theo cách giải nghĩa này thì học sinh còn khó khăn trong học tập rất  khó nhớ  được đặc điểm và khó nhận biết được khi thấy con chim này ngoài  thực tế, vì các em sẽ nhầm tưởng con chim nào cứ nhỏ hơn chim sẻ, biết hót  đều là chim sơn ca cả. Thay vì phải giải thích khó hiểu như thế thì giáo viên  chỉ  cần cho học sinh quan sát hình  ảnh một con chim sơn ca và cho các em   xem một clip sơn ca đang hót thì các em sẽ rất thích thú, bởi ngoài việc các em  được biết hình dáng con sơn ca như thế nào các em còn được nghe giọng hót  của nó và biết giọng hót đó hay như thế nào.  Để kích thích được động lực học tập của các em đối với môn học thì người giáo viên bên việc cung   cấp cho học sinh những kiến thức mới  cần đưa đến cho học sinh những câu chuyện hay, những hình ảnh cụ  thể gắn với những kiến thức đó. Đồng thời kết hợp với với hình ảnh minh họa sống động hơn như các đoạn  clip về các kiến thức liên quan mà trên mạng internet bây giờ rất nhiều. Ví dụ  : Trong môn Tự  nhiên và Xã hội, lớp 3, khi mô tả  cho học sinh   việc trái đất quay quanh mặt trời vừa tự quay quanh nó rồi mặt trăng lại quay  quanh trái đất, thì với học sinh còn khó khăn trong học tập khó có thể  hình  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 8
  9. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . dung được. Nếu giáo viên cho các em xem clip về hiện tượng này thì các em  vừa có thể hiểu rõ vấn đề vừa cảm thấy thích thú khi học môn học này.  Bên cạnh đó, đặt ra các tình huống có vấn đề  để học sinh bị kích thích  mà mày mò, khám phá tìm câu trả lời cũng là một phương pháp để  kích thích   hứng   thú   học   tập   của   học   sinh   rất   hiệu   quả.   Những   bài   toán   nhận   thức   thường được đưa ra cho học sinh khi chuyển sang tìm hiểu vấn đề  mới, làm  cho các em phải suy nghĩ, nhờ  đó rèn luyện khả  năng tư  duy của học sinh.  Học sinh cảm thấy niềm vui của nhận thức mình tiếp nhận được thông qua  hoạt động tự tìm hiểu. Tuy nhiên, giáo viên cần chú ý đặt vấn đề có nội dung   chứa đựng điều cần sự  tìm tòi giải đáp nhưng phải vừa sức với tiềm năng  nhận thức của các em. Ví dụ: Khi dạy bài toán  Một phần hai  ở  lớp 2, giáo viên hướng dẫn  học sinh bằng tình huống như sau:    ­ Có 1 tờ  giấy hình vuông, nếu đem chia đều cho hai bạn, ta sẽ  chia  như    thế  nào?  (Trước khi cho học sinh thực hiện, giáo viên cần phải tăng  cường tiếng Việt bằng cách giải thích cho các em hiểu như  thế  nào là  chia  đều?) Tùy vào từng đối tượng học sinh, khi các em thực hiện sẽ có thể có các   kết quả như sau: Giáo viên nhận xét và hướng dẫn học sinh đưa ra kết luận: ­ Chia hình vuông thành hai phần bằng nhau.  1 1 ­ Lấy một phần, được một phần hai  hình vuông.  2 2 ­ Một phần hai viết là   Không những thế, để  tăng cường động lực và hứng thú học tập cho học sinh người giáo viên cần   phải chú ý đến một số biện pháp như: tạo ra và duy trì không khí dạy học thoải mái trong lớp; giải phóng sự  lo sợ của học sinh…… Bởi học sinh rất khó tiếp nhận kiến thức trong khi các em còn tâm lý lo sợ, khi các em  không có động cơ và hứng thú học tập và đặc biệt là thiếu không khí thoải mái. Do đó với vai trò của mình,   giáo viên phải là người góp phần quan trọng trong việc tạo ra những điều kiện tốt nhất để cho học sinh học  tập, rèn luyện và phát triển. Cụ  thể  như khởi động tư  duy bằng một vài trò chơi hay câu đố  đầu giờ, khai   thác và phối hợp các phương pháp dạy học một cách có hiệu quả, đặc biệt chú trọng tới các phương pháp   dạy học tích cực sẽ gây hứng thú học tập cho học sinh.  Ngoài ra, thông qua giờ dạy của mình, giáo viên cần   tích hợp giáo dục các em về tinh thần, thái độ học tập bằng cách kiểm tra đánh giá việc chuẩn bị bài trước   khi đến lớp. Tổ  chức tốt các hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp theo chủ  điểm  sinh động, phong phú. Giáo viên nên dùng các tiết sinh hoạt tập thể  để  tổ  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 9
  10. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . chức hoạt động theo chủ đề như về tình bạn, ước mơ, sáng tạo, bảo vệ  môi  trường, …Xen kẽ  với các hoạt động đó là các hoạt động đố  vui để  học với  các kiến thức phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, tạo nhiều điều  kiện cho những học sinh còn khó khăn trong học tập được tham gia một cách  tự nhiên. Giáo viên quan tâm hướng dẫn, giáo dục học sinh có ý thức xây dựng   môi trường giáo dục lành mạnh; tổ  chức cho học sinh tìm hiểu về  chủ  đề  từng tháng nhằm xây dựng cho các em ý thức học tập; đẩy mạnh phong trào   thi đua trồng cây xanh, chăm sóc bồn hoa, cây cảnh, tạo vẻ  mỹ  quan cho   trường, góp phần xây dựng nhà trường ngày càng thêm Xanh – Sạch – Đẹp.  Tăng cường kiểm tra công tác giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục truyền   thống quê hương, truyền thống cách mạng.  * Hướng dẫn học sinh thực hiện nội quy, nề nếp học tập  Ngay từ  đầu năm học, sau khi được hiệu trưởng quán triệt Điều lệ  trường tiểu học, nội quy nhà trường, giáo viên chủ  nhiệm dựa vào nội quy  nhà trường tổ chức cho học sinh lớp mình thảo luận để xây dựng nội quy phù  hợp với thực tế  của lớp. Nội dung bản nội quy hướng vào những vấn đề:  Quy định về tính chuyên cần, tinh thần thái độ học tập, các hình thức tổ chức  học tập, sử dụng, bảo vệ và chuẩn bị đồ dùng học tập, ý thức giữ vệ sinh,...  Bảng nội quy được gắn  ở  lớp để  học sinh dễ nhớ và thực hiện. Nhằm thu hút  được sự  chú ý của học sinh và giúp các em  dễ  nhớ nội dung bảng nội quy, chúng tôi đã   minh họa bằng “cây” nội quy với những từ  ngữ  ngắn gọn, dễ  hiểu, dễ  nhớ  và có tính  thẫm  mĩ.  Đầu  giờ  mỗi  buổi  học, tổ  chức   cho học sinh đọc và giải thích cụ thể về một  nội dung có trong bảng nội quy. Hoạt động   này lặp lại mỗi ngày sẽ giúp những học sinh  còn khó khăn trong học tập hiểu, nhớ được   nội dung của bảng nội quy và cố  gắng thực  hiện theo khả năng của mình. Việc theo dõi, kiểm tra, nhận xét tình hình thực hiện nội quy học tập của học sinh phải được tiến hành   thường xuyên. Giáo viên chủ nhiệm tiếp nhận thông tin để giáo dục học sinh kịp thời. * Thực hiện các phong trào thi đua học tập Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 10
  11. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . Giáo viên cần kết hợp với  Đoàn thanh niên và Đội thiếu niên Tiền  phong Hồ Chí Minh tích cực hưởng ứng các đợt thi đua theo chủ điểm với các  nội dung thi đua cụ thể nhằm thu hút học sinh vào học tập và các hoạt động  vui chơi giải trí bổ ích.  Động viên, khen thưởng đối với học sinh có ý nghĩa giáo dục rất cao.Vì  vậy, thông qua các đợt thi đua, cần chú ý động viên tinh thần học tập của học   sinh bằng các hình thức khen thưởng. Học sinh lớp 2, lớp 3 thường chú ý thi   đua với bạn, cố  gắng học tập để  đạt kết quả  tốt. Đối với học sinh còn khó   khăn trong học tập thì khả năng tham gia các phong trào thi đua của các em có   phần hạn chế. Tuy vậy, các em vẫn có thái độ  phấn khởi khi được nhận lời   khen và tỏ ra buồn nản khi không được khen. Thái độ của thầy cô giáo và cha  mẹ đối với kết quả học tập của các em có ảnh hưởng rõ rệt đến sự  cố  gắng  học tập của các em hoặc cũng có thể  làm cho các em nản chí trong quá trình  học, tùy theo cách đánh giá đó như thế nào. Bởi vậy, bằng thái độ vui mừng khi  học sinh hoàn thành nhiệm vụ, những lời khen, những phần thưởng khi học   sinh tự  giải quyết được vấn đề  hoặc những lời động viên, khích lệ  khi học   sinh thực hiện nhiệm vụ chưa tốt sẽ giúp học sinh cố  gắng nỗ  lực hơn trong  những lần sau. Cũng chính vì thế  mà các giáo viên chủ  nhiệm cần chú ý theo  dõi và đặt ra các tiêu chuẩn khen thưởng trong lớp với nhiều mức độ và nhiều   hình thức khen thưởng, tiến hành thường xuyên định kỳ  tuần, tháng, học kỳ,  cuối năm; đồng thời cần chú ý nêu gương những học sinh có nhiều cố  gắng   trong học tập. * Giúp đỡ học sinh giải quyết những khó khăn trong việc học tập các môn   học. Ngay từ đầu năm học, giáo viên chủ nhiệm khảo sát để tổng hợp, phân  loại chất lượng, lưu ý ở đối tượng học sinh còn khó khăn trong học tập. Lập   kế hoạch, chia thời khóa biểu thực hiện phụ đạo cho từng học sinh. Với đặc  điểm riêng của trường, cần tập trung  ở  2 môn Tiếng Việt – Toán ; các môn  khác, giao chỉ tiêu khắc phục hạn chế cho từng giáo viên bộ môn.  Thực hiện một số hình thức, biện pháp phụ đạo, bồi dưỡng như sau: ­ Chủ động gặp cha mẹ học sinh trao đổi về việc học tập của học sinh,  cùng với cha mẹ học sinh tìm biện pháp khắc phục. ­Cập nhật tiến độ tiếp thu của học sinh, phân tích nguyên nhân và điều  chỉnh các biện pháp phù hợp hơn. ­Xây dựng  kế hoạch dạy học phù hợp với trình độ  của từng đối tượng  học sinh. Nếu học sinh chưa đạt chuẩn thì phải dạy dưới chuẩn,   hổng kiến  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 11
  12. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . thức ở đâu thì có kế hoạch ôn tập, bổ sung ở đó. Cụ thể, cần  thực hiện tốt các   biện pháp sau: + Thực hiện chương trình theo hướng dẫn của các công văn 9832, 9890,  896; các văn bản hướng dẫn giảng dạy các môn học cho các vùng miền. Chú  ý tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học. Trong giảng  dạy luôn chú ý đến các phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số tại địa   phương, không yêu cầu quá cao đối với các em, chú trọng đọc thông viết  thạo. + Vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm   phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện học tập của học sinh, tạo nhiều cơ hội   cho học sinh luyện tập thực hành, trao đổi và rút kinh nghiệm. Khi tổ  chức   các hoạt động, cần đưa ra những hướng dẫn rõ ràng, lặp lại các hướng dẫn   và làm mẫu rồi mới giao việc cho các em, chú ý giao việc vừa sức và phù hợp  với từng đối tượng học sinh. Đánh giá đúng mức việc làm của các em, khen   ngợi kịp thời những tiến bộ dù rất nhỏ của các em. Điều này sẽ  giúp các em   thêm tự  tin trong học tập. Để  làm được điều đó, cần chú trọng công tác lập   kế hoạch bài dạy, nghiên cứu xây dựng hệ hống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt phù   hợp đối tượng học sinh. Có kế  hoạch dạy học cụ  thể cho học sinh còn khó   khăn trong học tập. Giải pháp giúp cụ thể ở một số trường hợp thường gặp:  ?   Đối với phân môn Tập đọc: Khi dạy những học sinh còn khó khăn  trong việc học phân môn này (chưa đọc được bài tập đọc theo yêu cầu), giáo   viên có thể hướng dẫn lại cho em cách đánh vần từng tiếng như ở lớp 1. Mỗi   tiết học chỉ  cần đọc được một vài câu là được. Tất nhiên là số  câu đọc của   các em sẽ tăng dần lên. Ở phần tìm hiểu bài, chỉ  cho nhắc lại những câu trả  lời ngắn của bạn, cho trả lời những câu hỏi dễ  hoặc thay câu khó bằng câu  hỏi lựa chọn, ( Ví dụ câu hỏi 4 trong bài   Hũ bạc của người cha, giáo viên nên  thay câu hỏi Vì sao? bằng câu hỏi  Anh phản ứng như vậy là vì anh tức giận   hay vì anh quý và tiếc tiền mình làm ra?) ?  Đối với phân môn Kể  chuyện: Giáo viên cần tìm mọi cách để  giúp  cho tất cả  các em đều phải kể  được chuyện (chí ít cũng được một đoạn  ngắn). Đối với những em còn khó khăn trong học tập thường rất rụt rè, ít nói  nên phải kiên trì giúp đỡ các em kể cho bằng được. Giáo viên có thể gợi ý cho   các em trả lời từng câu. Ví dụ dạy bài Có công mài sắt có ngày nên kim, giáo  viên chỉ  vào hình vẽ  số  1 và hỏi: “Ngày xưa có một cậu bé như  thế  nào?”  (Ngày xưa có một cậu bé làm việc gì cũng mau chán). Hỏi tiếp: “Khi học bài   cậu học như thế nào?” (Khi học bài cậu chỉ  đọc vài dòng đã ngáp ngắn ngáp  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 12
  13. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . dài rồi bỏ  dở). Hỏi tiếp: “Lúc tập viết cậu thế  nào?” (Lúc tập viết cậu chỉ  nắn nót được mấy chữ đầu, rồi lại viết nguệch ngoạc). Nếu học sinh không  trả lời được thì cho học sinh khác trả lời rồi yêu cầu học sinh đó nhắc lại câu   trả lời của bạn. Sau mỗi câu trả  lời, chú ý khen ngợi để  khích lệ, động viên   các em.  ?  Đối với phân môn Tập viết: Tập viết là phân môn có tính chất thực  hành. Ở lớp 2, lớp 3 các em tập viết các chữ cái viết hoa, tiếp tục luyện viết  chữ  thường và cách viết nối nét giữa chữ  hoa và chữ  thường. Theo mẫu chữ  hiện hành, chữ hoa đẹp nhưng rất khó viết, các nét cong mềm mại và thay đổi  liên tục trong một con chữ. Với học sinh còn khó khăn trong học tập, việc các   em nhớ được mặt chữ đã là rất khó, còn để hướng dẫn các em viết đúng được   thì người giáo viên cần phải thật kiên nhẫn và dành nhiều thời gian hơn cho   những học sinh này trong tiết tự luyện. Ngoài việc hướng dẫn kĩ cho học sinh   về quy trình viết chữ, giáo viên nên tạo điểu kiện cho các em được luyện tập   nhiều hơn. Để các em quen tay khi đưa bút viết đúng nét, đúng độ cao, độ rộng   các con chữ, giáo viên nên chuẩn bị trước các mẫu chữ mờ và cho các em tập tô  nhiều lần trước khi viết (giáo viên có thể  tải phần mềm viết chữ  đúng mẫu  như  trong vở tập viết lưu trên máy tính để  chuẩn bị  bài viết mẫu cho các em  trong mỗi tiết học). ?  Đối với phân môn Chính tả: Nếu trong lớp học có học sinh còn khó  khăn về kĩ năng nghe ­ viết như không viết được, viết chậm, viết sai nhiều thì  khi dạy tiết chính tả  nghe – viết, giáo viên cần lưu ý đến các đối tượng học  sinh này, không được để các em ở ngoài lề tiết học. Một số giáo viên đã xử lí   bằng cách cho những học sinh này tự nhìn sách giáo khoa để chép bài trong lúc   giáo viên đọc bài cho cả  lớp nghe ­ viết. Đó là một biện pháp rất sai lầm, vì   như thế các em sẽ không bao giờ nghe – viết được. Trong trường hợp này, giáo  viên nên tách riêng em học sinh đó (vì nếu ngồi gần học sinh khác thì em sẽ  nhìn bài bạn và chép theo bạn). Song song với việc đọc bài cho cả  lớp, giáo   viên đọc chậm (nhỏ) từng từ cho riêng em viết, thậm chí có thể gợi ý cho học   sinh đánh vần từng tiếng để có thể tự viết được từng chữ. Đối với những học  sinh này, không yêu cầu các em phải viết hết bài như các bạn. ?  Đối với phân môn Luyện từ  và câu:  giáo viên nên sử  dụng phương  pháp trực quan kết hợp với phương pháp đặt câu hỏi gợi mở  để  giúp những   học sinh còn khó khăn trong học tập tự hoàn thành được các bài tập theo yêu   cầu.  Ví dụ:  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 13
  14. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . ­ Ở bài tập gọi tên các vật được vẽ ẩn trong tranh (tranh đố) các sự vật  được vẽ  trong tranh không biểu hiện rõ ràng mà  ẩn giấu trong tranh, phải  quan sát kĩ (kết hợp với tưởng tượng) mới nhận biết được. Giáo viên cần   phải gợi mở óc tưởng tượng của học sinh bằng những hình ảnh minh họa hay   câu hỏi dẫn dắt học sinh nhận ra hình  ảnh cụ  thể  để  từ  đó mới hiểu được  nghĩa và từ cần tìm. Như ở bài tập 1, Tiếng Việt 2, tập 1, trang 90, có một số  đồ  vật được vẽ ẩn, học sinh khó nhận biết được, giáo viên phải hướng dẫn   học sinh tìm từ  chỉ  đồ  vật đó bằng những câu hỏi gợi ý sau: Hai con chim  đang đậu trên đồ vật gì? (cái giá treo mũ áo). Bạn trai đang ngồi trên đồ  vật   gì? (cái kiềng). Cái kiềng dùng để làm gì? (cái kiềng để bắc bếp) …  ­ Ở bài tập chọn tên con vật thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây:  a. Dữ như…  c. Khỏe như… b. Nhát như….    d/ Nhanh như….   ( thỏ, voi, hổ (cọp), sóc)       (Bài  Từ  ngữ  về  loài thú. Dấu chấm, dấu phẩy, Tiếng Việt 2, tập 2,  trang 55)  Đối với các bài tập này, đối tượng học sinh còn khó khăn trong học tập  bị lúng túng, giáo viên nên cho các em quan sát một số tranh  ảnh có thể hiện  đặc điểm, hoạt động các con vật ( tranh vẽ voi đang kéo gỗ, hổ đang vồ  bắt  thú, chú sóc đang chuyền cành, chú thỏ  đang nấp vào bụi rậm tránh các con  vật dữ). Như vậy, từ những hình ảnh trên đã giúp học sinh có cơ sở sử dụng  từ  để  điền từ  đúng tạo thành những câu thành ngữ  thích hợp trên cơ  sở  thấy   được đặc điểm của các con vật. ?  Đối với phân môn Tập làm văn: Các bài tập làm văn ở lớp 2 và lớp 3   thường gồm các dạng như: nói – kể và viết. Nhưng bao giờ dạng bài tập nói   – kể cũng được thực hiện trước rồi mới đến dạng viết. Ví dụ: Bài tập 1: Kể  về  ông, bà (hoặc một người thân) của em. Bài tập 2: Dựa theo lời kể   ở  bài   tập 1, hãy viết một đoạn văn ngắn (từ  3 đến 5 câu) kể  về  ông, bà hoặc một  người thân của em. Như  vậy, kĩ năng cần giúp các em rèn luyện trước tiên  chính là nói – kể ngắn. Tuy nhiên, kĩ năng diễn đạt của học sinh còn khó khăn   trong học tập rất hạn chế  vì vốn từ  của các em còn nghèo và các em ít rèn   luyện. Việc yêu cầu học sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất  khó khăn với các em. Vì vậy giáo viên nên hướng dẫn học sinh liệt kê trước  một số  từ  “chốt” liên quan đến chủ  đề  của bài tập (thông qua phân môn  Luyện từ và câu và phân môn Tập đọc) Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 14
  15. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . Ví dụ: Dạy bài Kể về gia đình em . Trong các tiết luyện tập trước giáo  viên gợi ý để  học sinh nêu được các từ  như: ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em,   nông dân, cần cù, vui tính, học giỏi, yêu quý, tự hào,... và ghi vào bảng phụ để  chuẩn bị cho tiết dạy. Đến giờ tập làm văn có thể hướng dẫn những học sinh   còn khó khăn trong học tập nhìn vào các từ  trên bảng để  kể  thông qua hệ  thống câu hỏi gợi ý của giáo viên. ? Môn Toán: Trong lớp học có học sinh còn khó khăn trong học tập  không nhớ kiến thức lớp học dưới thì giáo viên lưu ý : trong phần bài mới cho  học sinh theo dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện tập giáo  viên cho những đối tượng này làm các bài tập mà kiến thức liên quan lớp   dưới, cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ.  Ví dụ: khi yêu cầu học sinh làm bài tập 35 x 4 =   4 x 1 = ….. ? với những học sinh gặp khó khăn khi thực hiện phép   tính (do không thuộc bảng nhân 4). Giáo viên cần yêu   4 x 2 =…… cầu học sinh tự  lập lại bảng nhân 4 rồi dựa vào đó để  4 x 3 = ….. thực hiện phép nhân. Cách làm này mất khá nhiều thời   gian nhưng học sinh có thể  tự  làm được các phép tính  4 x 4 = ….. mà không phải trông chờ  sự  giúp đỡ  của người khác.   4 x 5 =…… Nhiều lần như vậy các em sẽ nhớ được bảng nhân 4. 4 x 6 = ….. 4 x 7 = ….. 4 x 8 =…… 4 x 9 = ….. 4 x10 =….. ? Trò chơi học tập: Tạo cơ hội cho học sinh còn khó khăn trong học tập cùng tham gia trò chơi với  các bạn khác trong lớp. Khi xây dựng trò chơi cần chuẩn bị nội dung vừa sức với từng đối tượng học sinh.  Ví dụ như ở trò chơi đóng vai, chọn vai cho học sinh còn khó khăn trong học tập là nhân vật dễ thể hiện, có   ít lời thoại hoặc lời thoại ngắn, dễ nhớ.  Ở  trò chơi vận động thì cho học sinh còn khó khăn trong học tập  thực hiện những động tác dễ. Ở trò chơi tiếp sức đồng đội, xây dựng hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, khi tổ  chức trò chơi thì sắp xếp cho những học sinh còn khó khăn trong học tập thực hiện trước (trả lời những câu  hỏi dễ),…  + Chú ý dạy chậm và chắc để  các em có thể  hiểu bài ngay tại lớp.  Thường xuyên kiểm tra xem các em đã hiểu bài đến đâu, cần bổ  sung gì thì  bổ  sung ngay để  các em nắm được bài và thực hành tại lớp. Tăng cường  luyện tập, áp dụng các kiến thức ngay tại lớp thông qua các bài tập vừa sức.  + Tận dụng tối đa đồ dùng dạy học, sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng  mức độ trong tất cả các môn. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đây   là phương tiện mới mẻ và lôi cuốn được sự chú ý của học sinh dân tộc thiểu   số. Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 15
  16. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . + Lập kế hoạch phụ đạo học sinh còn khó khăn trong học tập ngoài giờ  (giờ ra chơi, buổi chiều, thứ bảy). Trong các buổi phụ đạo, cần chuẩn bị trước   nội dung (dạy gì và dạy như thế nào?), tập trung khó khăn ở đâu giúp đỡ ở đó,  không cần dạy theo bài. + Phân công học sinh có năng khiếu giúp đỡ  bạn  ở  trường,  ở  nhà, tạo  các nhóm học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh còn khó khăn trong học  tập, có động viên khen thưởng kịp thời cho những nhóm có học sinh học tiến   bộ. + Chủ động gặp cha mẹ học sinh để trao đổi về việc học tập của học   sinh, động viên cha mẹ học sinh theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ tạo điểu kiện cho  học sinh học tập  ở nhà, kiểm tra chuẩn bị cho con em trước khi đến lớp, đôn  đốc hoc sinh đi học chuyên cần.  +Thường   xuyên   vận   dụng   các   biện   pháp   duy   trì   sĩ   số   và   đảm   bảo  chuyên cần đã thực hiện có hiệu quả trong những năm qua. + Phối hợp với Đội thiếu niên xây dựng phong trào “đôi bạn cùng tiến”,  “nhóm bạn tự học ”, “nhóm bạn cùng nhau tới trường”, … có theo dõi, thống   kê, đánh giá từng tháng, học kỳ và cuối năm có sơ kết, tổng kết hoạt động để  đánh giá hiệu quả của biện pháp quản lý đề ra. * Phối hợp với cha mẹ học sinh cùng quản lý hoạt động học của học   sinh Cha mẹ học sinh có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và   phát triển tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ. Niềm tin, sự tôn trọng, sự  động  viên khích lệ và sự hiểu biết... của cha mẹ đối với con cái trong học tập cũng  như  trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày là những công cụ  hữu ích giúp trẻ  vượt qua được những khó khăn trong học tập và sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy,   người giáo viên phải biết thường xuyên liên lạc, kết hợp với gia đình để cùng  làm nảy sinh và duy trì nhu cầu học tập cho học sinh. Đối với các trường học vùng khó khăn như  trường Tình Thương, việc   phối hợp với gia đình học sinh nhiều lúc chỉ  để  đảm bảo cho các em có đủ  thời gian học tập cần thiết trong ngày. Có thể  xây dựng quy ước về sự  phối   hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giúp đỡ con em học tập là điều rất  khó. Tuy vậy, giáo dục học sinh  ở  trường và  ở  nhà là một quá trình thống  nhất, khi quá trình học tập  ở  nhà của học sinh được tổ  chức tốt, tiếp nối   củng cố  quá trình học tập trên lớp sẽ  nâng cao kết quả  học tập của các em  học sinh. Nên giáo viên chủ  nhiệm lớp cần khéo léo thực hiện quá trình này  dưới sự  chỉ  đạo của Ban giám hiệu và có những biện pháp giúp đỡ  gia đình   học sinh tổ chức tốt việc học tập ở nhà cho các em, nâng cao trách nhiệm của   Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 16
  17. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . họ đối với công tác này. Lưu ý giáo viên rằng việc tổ chức cho học sinh học   tập  ở  nhà không phải là ra bài tập cho các em làm mà là hướng dẫn các em   thực hành, vận dụng những điều đã được học trên lớp. Giáo viên cần thực hiện một số biện pháp sau đây: ­ Tổ  chức các buổi truyền thông đến cha mẹ  học sinh về  nội dung giáo  dục. ­ Hướng dẫn cha mẹ  học sinh biết đánh giá kết quả  học tập của con   em mình bằng cách: các bài kiểm tra giáo viên chỉ rõ những chỗ thiếu sót của   học sinh. Học sinh sửa bài và mang về  nhà cho cha mẹ  xem để  họ  biết con  mình gặp khó khăn ở đâu, họ sẽ giúp con họ ôn tập lại ở nhà tốt hơn. ­ Yêu cầu và hướng dẫn cha mẹ học sinh những công việc cần thực hiện  ở nhà như chỗ học, thời gian học, đôn đốc, kiểm tra hoạt động học tập của con   ở nhà. ­ Yêu cầu cha mẹ học sinh ký cam kết trách nhiệm giữa giáo viên chủ  nhiệm với gia đình về quản lý con em học tập. ­ Giáo viên cần tổ chức tốt các kỳ họp cha mẹ học sinh trong năm học  với mục đích chính là làm cho cha mẹ  học sinh nắm được tình hình học tập   của con em, thấy được trách nhiệm của gia đình. Mỗi năm có 3 kỳ  họp cha   mẹ  học sinh, dưới sự  chỉ  đạo của Ban lãnh đạo trường, giáo viên là người  trực tiếp làm việc với cha mẹ học sinh học sinh. Lần 1: Vào đầu tháng 9,  khi đã có kết quả khảo sát chất lượng đầu năm,   giáo viên đã nắm sơ bộ tình hình học sinh lớp mình phụ trách. Nội dung là phổ  biến các yêu cầu của nhà trường đối với việc học tập của học sinh, trao đổi giữa  giáo viên chủ  nhiệmvới cha mẹ  học sinh để  thống nhất việc giúp đỡ  các em  học tập, đánh giá kết quả học tập của các em ở nhà và ở trường. Lần 2: Vào cuối học kỳ  I, để  thông báo kết quả  học tập,  ưu điểm và  khuyết điểm của từng học sinh, chú ý các em học sinh còn khó khăn trong học   tập và những vấn đề  đòi hỏi gia đình cần phối hợp với nhà trường giúp các  em học tốt hơn trong học kỳ II. Lần 3:  Vào cuối năm học, thông báo kết quả  học tập cả  năm, những   học sinh học chưa hoàn thành chương trình lớp học và các biện pháp khắc   phục trong hè . Ngoài 3 kỳ họp định kỳ trên, hàng tháng giáo viên cần tranh thủ gặp gỡ  trực tiếp hoặc trao đổi với cha mẹ  học sinh qua điện thoại về  kết quả  học   tập và biện pháp khắc phục những thiếu sót của những học sinh cần quan   tâm. Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 17
  18. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . * Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác để quản lý hoạt động học   của học sinh còn khó khăn trong học tập. Giáo dục là quá trình có tính xã hội, do đó có nhiều lực lượng tham gia.  Mỗi lực lượng giáo dục đều có những vai trò và chức năng riêng, giáo viên  chủ nhiệm cần khai thác thế mạnh của các lực lượng đó, chủ động phối hợp  tổ chức giáo dục học sinh có kết quả nhất. Phối hợp với Đội TNTP về công tác xây dựng Đội, thực hiện các phong  trào của Đội và tham gia các hoạt động ngoài giờ  lên lớp. Giáo viên chủ  nhiệm cần tìm hiểu về  Đội. Thống nhất nội dung phối hợp với Tổng phụ  trách Đội, lưu ý các nội dung có liện quan đến các hoạt động học tập. Hướng  dẫn, tạo điều kiện cho tất cả học sinh tham gia và theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra  học sinh còn khó khăn khi thực hiện. Phối hợp với các giáo viên bộ môn về việc hướng dẫn học sinh học tập   các môn học; phối hợp rèn luyện đạo đức, ý thức học tập cho học sinh và   phối hợp đánh giá, xếp loại học sinh. Giáo viên chủ  nhiệm cần tìm hiểu về  tình hình học tập của các em đối với các môn học đó.Cần chia sẻ  thông tin,   trao đổi nội dung và phương pháp giảng dạy, giáo dục học sinh.Tổ chức cho  học sinh có năng khiếu kiểm tra bài và giúp đỡ  học sinh còn khó khăn thong  học tập trong các giờ tự học.Tham khảo ý kiến giáo viên bộ môn khi xếp loại   học sinh. Quy định những yêu cầu và biện pháp thống nhất trong việc giáo dục  mục đích, động cơ thái độ học tập từ các giờ lên lớp đến các hoạt động ngoài   giờ. Phối hợp các giáo viên cùng dạy một lớp để  xây dựng cho học sinh thói  quen tự học ( chú ý 3 khâu: hình thức tự học, phương pháp tự học, bố trí thời   gian tự học hợp lý ). Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác như: Đoàn Thanh niên, Hội   chữ thập đỏ, Y tế,… về việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tình cảm cho   học sinh; chăm sóc, bảo vệ, giáo dục học sinh; hỗ  trợ  các nguồn lực thực   hiện các chương trình giáo dục. Giáo viên chủ  nhiệm cần tìm hiểu kĩ về  các  tổ  chức đó; xin chủ  trương và xây dựng kế  hoạch phối hợp, trao đổi, thống   nhất cách thức phối hợp.Trong quá trình thực hiện cần kiểm tra, đánh giá, ghi  nhận và tận dụng các mối quan hệ. * Thực hiện công tác kiểm tra hoạt động học tập của học sinh còn khó   khăn trong học tập thường xuyên. Giáo viên cần tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả  hoạt  động học tập của học sinh đảm bảo tính khách quan, tính toàn diện, tính  thường xuyên, hệ thống và đảm bảo tính phát triển. Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 18
  19. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . Xây dựng kế  hoạch kiểm tra theo phân phối chương trình và tổ  chức   kiểm tra, phân tích, đánh giá kết quả  hoạt động học của học sinh.Giáo viên   phân tích đánh giá kết quả  học tập của học sinh về  những vấn đề  sau (có  thống kê các số liệu cụ thể và lưu trữ ): + Tình hình thực hiện nền nếp học tập, tinh thần thái độ  học tập, sự  chuyên cần, kỷ luật học tập. + Kết quả học tập: tình hình học tập của học sinh, chú ý đến kết quả  học tập của học sinh còn khó khăn trong học tập.  Giáo viên phải thường  xuyên nhận xét, chữa bài và sửa lỗi cẩn thận đối với học sinh còn khó khăn  trong học tập. Có sổ tay theo dõi, nhận xét đánh giá những học sinh này từng   tuần, từng tháng.  + Những vấn đề cần đăc biệt chú ý khác. Trên cơ  sở  phân tích tình hình học tập của học sinh, điều chỉnh việc  giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh nhằm ngày càng nâng cao   chất lượng học tập của học sinh. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các biện pháp được nêu ra trong đề  tài có mối liên hệ  với nhau, đan  xen, phối hợp, hỗ  trợ  cho nhau.Trong đó, biện pháp giáo dục  tinh thần, thái  độ, động cơ  học tập  là biện pháp đóng vai trò nền tảng cho các biện pháp  khác, bởi vì bản thân mỗi học sinh là một chủ thể của hoạt động nhận thức,  do đó người học sinh cần phải tự giác, chủ động tham gia vào hoạt động học  tập thì  mới có hiệu quả.  Dưới sự  tổ  chức, hướng dẫn của giáo viên, động cơ  học tập của học  sinh  dần  dần  được  hình  thành  và   phát  triển.Vì  vậy,  người  giáo   viên   chủ  nhiệm phải nắm rõ tình hình của lớp để  xây dựng kế  hoạch giáo dục.Vào   đầu năm học, giáo viên tổ  chức hướng dẫn học sinh xây dựng và thực hiện  nội quy, nề  nếp học tập.Việc xây dựng nội quy, nề  nếp phải dựa trên tình   hình thực tế của lớp.Trong quá trình thực hiện các hoạt động học tập, cần tổ  chức các phong trào thi đua để khích lệ tinh thần cho học sinh. Thông qua các   hoạt động học tập, các phong trào thi đua, giáo viên phân loại được các đối  tượng học sinh và thực hiện các biện pháp giúp đỡ  học sinh còn khó khăn  trong học tập có thể vượt qua được những khó khăn trong các hoạt động học   tập (đây là biên pháp quan trọng để quyết định cho sự thành công của đề tài).  Một khi tất cả  các đối tượng học sinh có thể    tiếp thu được các kiến thức  mới theo khả năng của mình thì các em sẽ tự tin hơn, hứng thú hơn trong học  tập. Tuy vậy, giáo dục là quá trình có tính xã hội, giáo viên chủ  nhiệm cần   khai thác thế  mạnh của các lực lượng giáo dục khác như  các đoàn thể  trong  Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 19
  20. Biện pháp quản lí hoạt  động học của những học sinh còn khó khăn trong học tập ở lớp 2; 3  trường Tiểu học Tình Thương . và ngoài nhà trường, cha mẹ  học sinh,… để  phối hợp tổ  chức giáo dục học  sinh có kết quả nhất. Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động học tập là biện pháp hỗ trợ  tích   cực cho việc quản lí tốt các hoạt động học tập của học sinh. Đổi mới công  tác kiểm tra đánh giá sẽ có tác dụng tích cực đối với hoạt động dạy của giáo  viên và hoạt động học của học sinh.Thông qua kiểm tra, đánh giá sẽ tạo điều  kiện thuận lợi cho học sinh hình thành động cơ, thái độ, thói quen, tinh thần   trách nhiệm cao trong học tập, giúp học sinh cố  gắng vươn lên. Đồng thời   qua kiểm tra, đánh giá giúp giáo viên có cơ  hội kiểm nghiệm việc đổi mới  phương pháp dạy học, trên cơ sở đó sẽ lựa chọn phương pháp tối ưu nhất. Tóm lại, 8 biện pháp quản lý hoạt động học đối với học sinh còn khó  khăn trong học tập mà tác giả nêu ra có vai trò hết sức quan trọng nhằm nâng  cao chất lượng và hiệu quả hoạt động học của học sinh lớp 2 và lớp 3 trong  trường. Mỗi biện pháp có một vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng riêng. Tuy  nhiên, trong quá trình vận dụng, chúng có mối quan hệ  mật thiết với nhau,   thúc đẩy nhau cùng phát triển.Thực hiện tốt các biện pháp quản lý trên sẽ góp  phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh người dân tộc thiểu số ở trường  Tiểu học Tình Thương. d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm  vi và hiệu quả ứng dụng.  Qua nghiên cứu cơ  sở  lý luận và phân tích thực trạng các biện pháp   quản lý hoạt động học của học sinh lớp 2 và học sinh lớp 3 trường Tiểu học   Tình Thương, chúng tôi đề  ra 8 biện pháp quản lý cơ  bản nhằm góp phần   nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Trong quá trình thực hiện, tôi được  sự  tạo điều kiện của Ban lãnh đạo trường Tiểu học Tình Thương, sự  đồng  thuận của các giáo viên cùng giảng dạy trong tổ chuyên môn khối 2, 3.Từ đó  việc áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động học của học sinh được các  giáo viên trong tổ cùng vận dụng thực hiện. Để  kiểm chứng về  hiệu quả  của việc thực hiện các biện pháp đã đề  xuất, tôi   tiến hành khảo nghiệm qua điểm kiểm tra hai môn Toán và Tiếng  Việt của học sinh trong các lớp tôi chủ nhiệm. Kết quả cụ thể như sau: Nguyễn Thanh Thúy – Trường Tiểu học Tình Thương 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2