intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 4 - 5

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

176
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngôn ngữ văn học hết sức cô đọng và giàu hình tượng, để hiểu sâu sắc những vấn đề được tác giả tâm huyết thể hiện qua ngôn ngữ văn học nhiều khi không phải dễ ngay cả đối với nhiều người lớn chúng ta nói gì đến các em học sinh Tiểu học khi mà vốn sống, vốn ngôn ngữ của các em tích luỹ chưa được nhiều. Cảm thụ văn học là một vấn đề khá mới mẻ đối với học sinh Tiểu học khi mà lần đầu tiên bước chân vào nhà trường các em được làm quen. Chuyên đề sáng kiến này sẽ chia sẻ một vài kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 4 - 5 của tác giả. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh giỏi lớp 4 - 5

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN HẬU LỘC PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẬU LỘC  BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC LÀM BÀI CẢM THỤ VĂN HỌC CHO HỌC SINH GIỎI  LỚP 4 ­ 5 Họ và tên:   Bùi Quang Diệu Chức vụ:   Giáo viên Đơn vị công tác:   Trường Tiểu học Ngư Lộc 1 SKKN thuộc môn:  Tiếng Việt N¨m häc: 2010 - 2011 1
  2. A­ ĐẶT VẤN ĐỀ I ­ LỜI MỞ ĐẦU: “Dạy văn là dạy cách làm người”, trong chương trình môn Tiếng Việt  ở  Tiểu học thông qua việc dạy học các tác phẩm văn học của các tác giả tiêu  biểu nước ngoài và Việt Nam đã góp phần bồi dưỡng tâm hồn, năng lực  cảm thụ cho học sinh. Tuy nhiên, ngôn ngữ văn học hết sức cô đọng và giàu  hình tượng, để hiểu sâu sắc những vấn đề được tác giả tâm huyết thể hiện   qua ngôn ngữ văn học nhiều khi không phải dễ ngay cả đối với nhiều người  lớn chúng ta nói gì đến các em học sinh Tiểu học khi mà vốn sống, vốn ngôn   ngữ của các em tích luỹ chưa được nhiều. Cảm thụ văn học là một vấn đề  khá mới mẻ  đối với học sinh Tiểu học khi mà lần đầu tiên bước chân vào  nhà trường các em được làm quen. Là một giáo viên nhiều năm được nhà  trường phân công đảm nhận bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt khối 4   ­ 5, tôi rất tâm huyết với vấn đề này và luôn băn khoăn, trăn trở làm sao để  nâng cao chất lượng và hiệu quả  cảm thụ  văn học cho học sinh của mình.  Sáng kiến: “Bồi dưỡng năng lực làm bài cảm thụ văn học cho học sinh   giỏi lớp 4 ­ 5” là kết quả  của những trải nghiệm trong quá trình dạy học  của bản  thân tôi. Rất mong được sự  đóng góp ý kiến của các bạn đồng  nghiệp! II ­ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:  1. Thực trạng: Các tác phẩm văn học được chọn dạy  ở Tiểu học là các tác phẩm ngắn,   đoạn văn, đoạn thơ  và chủ  yếu được tiến hành qua tiết Tập đọc với thời   lượng không nhiều (chỉ từ 35 ­ 40 phút). Đây là một hạn chế không nhỏ tới  việc giáo viên bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, khiến học   2
  3. sinh khó mà lĩnh hội, tiếp thu đầy đủ ý nghĩa, giá trị sâu sắc của các tác phẩm  văn học. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là giúp các em  hiểu sâu sắc về  ý nghĩa của tác phẩm, về  nhân vật trong tác phẩm... thông  qua hình tượng nhân vật, ngôn từ mà tác giả sử dụng. Qua việc giúp học sinh  hiểu từ ngữ trong tác phẩm sẽ giúp các em cảm nhận tác phẩm một cách đầy  đủ. Mặt khác, từ  việc học sinh hiểu đó, các em sẽ  tích luỹ  được rất nhiều  vốn từ giúp cho việc vận dụng chúng trong giao tiếp hay sản sinh các bài văn,  làm cho ngôn từ  được chọn lọc, câu nói, bài viết sẽ  cô đọng, súc tích hơn.  Điều này cũng chính là góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt... Qua thực tiễn dạy học, tôi nhận thấy: Việc dạy ­ học của giáo viên và  học sinh chủ yếu được tiến hành qua tiết Tập đọc thông qua việc tìm hiểu   tác phẩm với các câu hỏi trong sách giáo khoa bằng lối hỏi đáp. Điều này bị  hạn chế  về  mặt thời gian, dẫn đến chất lượng, hiệu quả  dạy học không  cao; không mở rộng được phạm vi tiếp cận các tác phẩm văn học hay ngoài  nhà trường trong khi học sinh rất có nhu cầu và thực tế các em đã tiếp cận  với nhiều tác phẩm khác.  2. Kết quả, hiệu quả của những thực trạng trên: Từ thực trạng dạy học như trên, tôi nhận thấy: Khả năng hiểu tác phẩm,  tích luỹ vốn ngôn ngữ văn học và vận  dụng chúng trong quá trình học tập  và giao tiếp của học sinh không cao. Để  nắm vững tình hình học tập của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi   cho việc nghiên cứu, triển khai sáng kiến, tôi đã tiến hành khảo sát chất lư­ ợng học sinh hai lớp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt do tôi phụ  trách năm học 2010 ­ 2011 sau hai tuần học, kết quả thu được như sau (các  em được chọn là những em vào diện học tốt nhất của các lớp): * Lớp 4: Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL(% SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) ) 3
  4. 15 HS 3 20 3 20 4 26,7 5 33,3  * Lớp 5: Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu SL TL(% SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) ) 20 HS 4 20 5 25 5 25 6 30 Từ  kết quả  thu được, để  nâng cao năng lực cảm thụ  văn học cho học   sinh, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu nội dung cảm thụ  văn học  ở  Tiểu học và   vận dụng vào quá trình dạy học của mình. B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I ­ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Tìm hiểu yêu cầu cảm thụ văn học ở Tiểu học: Hiểu một cách đơn giản, cảm thụ  văn học  ở  Tiểu học chính là sự  cảm   nhận những giá trị  nổi bật, những điều sâu sắc, tế  nhị  và đẹp đẽ  của văn  học thể  hiện trong tác phẩm (cuốn truyện, bài văn, bài thơ...) hay một bộ  phận của tác phẩm (đoạn văn, đoạn thơ...) thậm chí một từ  ngữ  có giá trị  trong câu văn, câu thơ. 2. Tìm hiểu chủ đề của các tác phẩm văn học trong chương trình lớp 4  ­ 5: Chủ  đề  tác phẩm thể  hiện nội dung tác phẩm. Nắm vững chủ  đề  tác   phẩm là cơ  sở  để  hiểu tác phẩm. Điều này là cần thiết và vô cùng quan  trọng trong việc hướng dẫn làm văn cảm thụ cho học sinh Tiểu học. 3. Nghiên cứu một số biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong các tác   phẩm văn học được giảng dạy ở Tiểu học: Tư tưởng, ý nghĩa của các tác phẩm văn học được thể hiện qua nội dung   của tác phẩm. Trong tác phẩm của mình, các tác giả  thường sử  dụng các  biện pháp nghệ thuật để thể hiện nội dung ấy. Các đề bài làm văn cảm thụ  thường yêu cầu học sinh nêu nội dung hoặc giá trị của các biện pháp nghệ  4
  5. thuật được sử  dụng trong các đoạn trích hoặc tác phẩm ngắn. Việc nắm  vững và tìm ra các biện pháp nghệ  thuật được sử  dụng trong đoạn thơ,   đoạn văn, bài văn, bài thơ sẽ là một chìa khoá quan trọng để các em làm tốt   bài văn cảm thụ. II – CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1. Hướng dẫn học sinh hệ thống các chủ đề văn học được dạy ở lớp   4­5: Để  làm được bài văn cảm thụ, người viết phải nắm vững nội dung, tư  tưởng của tác phẩm hay nói cách khác là nắm được chủ đề của tác phẩm. Việc  nắm vững chủ đề của tác phẩm văn học là một khó khăn đầu tiên mà học sinh  gặp phải khi tiến hành làm bài văn cảm thụ. Vì vậy, mở đầu phần hướng dẫn  học sinh làm bài cảm thụ văn học, tôi cho học sinh hệ  thống lại các chủ  đề  được giảng dạy ở lớp 4 và lớp 5:  Các bài văn ở lớp 4 ­ 5 thường  xoay quanh các chủ đề: ­ Vẻ đẹp và tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc. ­ Tình cảm con người: Tình cảm gia đình (tình mẹ con, cha mẹ  với con   cái, tình cảm anh chị  em...), tình cảm thầy trò, tình yêu thương đối với  những người xung quanh, với Bác Hồ, tình yêu cuộc sống. ­ Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên; những mơ ước của thiếu  nhi, khao khát khám phá, chinh phục thế giới. Cụ thể:  Lớp 4: Các bài văn được chia thành 10 chủ điểm: Thương người như  thể  thương thân; Măng mọc thẳng; Trên đôi cánh  ước mơ; Có chí thì nên; Tiếng sáo diều; Người ta là hoa đất; Vẻ đẹp muôn  màu; Những người quả cảm; Khám phá thế giới; Tình yêu cuộc sống. Lớp 5: Các bài văn được chia thành 10 chủ điểm:  Việt Nam ­ Tổ quốc em; Cánh chim hoà bình; Con người với thiên nhiên;  Giữ lấy màu xanh; Vì hạnh phúc con người; Người công dân; Vì cuộc sống  thanh bình; Nhớ nguồn; Nam và nữ; Những chủ nhân tương lai. 5
  6. 2. Hệ thống, cung cấp cho học sinh một số kiến thức liên quan đến  cảm thụ văn học ở Tiểu học: Việc học sinh nắm vững và hiểu rõ các kiến thức cơ bản khi làm văn cảm  thụ có vai trò quyết định tới việc làm bài của các em. Có hiểu rõ vấn đề thì   học sinh mới vận dụng hiệu quả chúng trong quá trình làm bài, mới có cách  cảm sâu sắc nhất. Kiến thức về vấn đề  này được dạy trong chương trình  Tiểu học không tập trung, tản mạn, lẻ  tẻ   ở  các khối lớp. Việc nắm vững   những kiến thức ấy theo hệ thống là một khó khăn lớn đối với học sinh. Vì  vậy, việc tiếp theo trong quá trình bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho  học sinh mà tôi làm là hệ thống hoá và cung cấp cho học sinh một số kiến  thức liên quan đến cảm thụ văn học ở Tiểu học. Các kiến thức mà tôi cung   cấp cho các em như sau: 2.1. Một số biện pháp nghệ thuật (tu từ) thường gặp ở lớp 4 ­ 5  (đối   với lớp 4, tôi cung cấp 4 biện pháp nghệ thuật đầu): a) So sánh:  So sánh là cách đối chiếu hai đối tượng khác loại không  đồng nhất nhau hoàn toàn mà chỉ  giống nhau một nét nào đó về  màu sắc,   hình dáng, ngữ nghĩa... Ví dụ:  Bướm bay như lời hát Con tàu là đất nước (Ngày em vào Đội ­ Xuân Quỳnh) ­ Tác dụng: Phép so sánh trong văn học có tác dụng tạo ra cảm giác mới  mẻ, giúp sự vật được miêu tả trở nên cụ thể, sống động... ­ Cách nhận biết: Trong câu văn có sử  dụng nghệ  thuật so sánh thường  có các từ: là, như, bằng, tựa, tựa như... và dấu hai chấm (:) dấu gạch ngang  (­). b) Nhân hoá: Nhân hoá là cách gọi hoặc tả đồ vật, loài vật, cây cối... bằng  những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người  (hoặc nói cách khác là   gắn cho đồ  vật, loài vật, cây cối… tình cảm, trạng thái, hoạt động... như con   người).  6
  7. Ví dụ:  Em chạy nhảy tung tăng Múa hát quanh ông trăng Em nhảy, trăng cũng nhảy Mái nhà ướt ánh vàng. (Trông trăng ­ Trần Đăng Khoa) ­ Tác dụng: Nghệ thuật so sánh giúp cho thế giới loài vật, đồ vật, cây cối...  trở nên gần gũi, sinh động, hấp dẫn, biểu thị được những tình cảm, suy nghĩ   của con người. c) Điệp ngữ: Các từ  ngữ  được nhắc lại nhiều lần theo chủ  định nhằm  nhấn mạnh một ý nào đó. Ví dụ:  Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay.       (Hạt gạo làng ta ­ Trần Đăng Khoa) Trong đoạn thơ  trên, từ  “có” được lặp lại ba lần nhằm nhấn mạnh giá  trị của hạt gạo quê hương thơm ngon: có hương vị  của đất (có vị phù sa),  của trời  (hương sen thơm)  và công sức lao động của con người   (lời mẹ   hát). * Chú ý:  Cần phân biệt các từ  ngữ  được lặp lại với chủ  định nhấn   mạnh một ý nào đó (điệp ngữ) với các từ ngữ được lặp lại ngẫu nhiên, liên   kết câu thông thường. Ví dụ: Thấy Ngựa đang ăn cỏ, Sói thèm rỏ dãi. Nó toan xông đến ăn thịt Ngựa,  nhưng lại sợ Ngựa chạy mất.          La Phông – ten 7
  8. Từ  “Ngựa”  được lặp lại nhằm liên kết câu, không phải là biện pháp  nghệ thuật điệp ngữ. d) Đảo ngữ:  Đảo trật tự  của các từ  ngữ  hoặc đưa vị  ngữ  đứng trước   chủ ngữ nhằm nhấn mạnh giá trị biểu cảm nào đó. Ví dụ 1:  Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu.        (Đường đi Sa Pa ­ Nguyễn Phan Hách) Trong câu văn trên, tác giả dùng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ: đảo  “lác  đác” (bổ  nghĩa cho vị  ngữ) lên trước chủ  ngữ  nhằm nhấn mạnh, làm nổi  bật vẻ đẹp nên thơ của sự biến đổi của cảnh sắc thiên nhiên ở Sa Pa. Ví dụ 2:   Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!      Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt        Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát      Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca.           (Tố Hữu) Trong đoạn thơ trên, tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ ­  đưa vị  ngữ  đứng trước chủ  ngữ  (Đẹp vô cùng Tổ  quốc ta  ơi) nhằm nhấn  mạnh vẻ đẹp của đất nước ta được tác giả  nêu ra ở  các dòng thơ  sau của  đoạn trích. Đồng thời với việc sử  dụng biện pháp nghệ  thuật này, tác giả  đã nói lên lòng tự hào dân tộc. đ) Ẩn dụ: Dùng cái này để nói đến cái khác. Ví dụ:                 Áo chàm đưa buổi phân li     Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. (Việt Bắc ­ Tố Hữu) Áo chàm chỉ người dân Việt Bắc. e) Chơi chữ: Chơi chữ là dựa vào hiện tượng đồng âm, tạo ra những câu  nói nhiều nghĩa, gây những bất ngờ thú vị cho người đọc, người nghe. Ví dụ:  ­ Kiến bò đĩa thịt bò. ­ Ruồi đậu mâm xôi đậu. 8
  9. 2.2. Các dạng bài tập cảm thụ cơ bản ở lớp 4 ­ 5: Dạng 1: Bài tập tìm hiểu tác dụng của cách dùng từ  đặt câu sinh   động: Ví dụ:  Hãy cho biết mỗi câu văn dài (nhiều vị  ngữ) dưới đây giúp em  cảm nhận được điều gì thú vị? (1) Những cơn gió sớm đẫm mùi hồi, từ  các đồi trọc Lộc Bình xôn xao  xuống, tràn vào cánh đồng Thất Khê, lùa lên những hang đá Văn Lãng trên  biên giới, ào xuống Cao Lộc, Chi Lăng. (Tô Hoài) (2) Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo  triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào những thôn xóm  Chin San. (Ma Văn Kháng) Gợi ý: (1): Mùi hồi ngào ngạt toả mạnh đi khắp nẻo, ngỡ như trên vùng   đất Lạng Sơn đâu đâu cũng đượm mùi hồi chín. (2): Hương thảo quả  thơm nồng, lan toả đi rất xa, từ  rừng qua núi, vào   đến tận thôn xóm Chin San. (1), (2): Chúng ta cảm nhận được một sự lan toả nhanh, mạnh, xa rộng,   không dứt, tưởng như  cả  đất trời được sưởi  ấm bởi hương thơm ngào  ngạt, nồng nàn; gợi lên một cuộc sống yên ổn, thanh bình, ấm áp và no đủ. Dạng 2: Bài tập phát hiện những hình ảnh, chi tiết có giá trị gợi tả: Ví dụ:  Nhớ về Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu có viết: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. 9
  10. Em có nhận xét gì về  hình ảnh những người dân Việt Bắc được gợi tả  qua đoạn thơ trên? Gợi ý: Hình ảnh người dân Việt Bắc được gợi tả qua đoạn thơ thật mộc  mạc, bình dị, thân thương; những con người cần cù, chịu khó, sống cuộc  sống bình yên giữa quê hương tươi đẹp. Dạng 3: Bài tập tìm hiểu và vận dụng một số  biện pháp tu từ  (nghệ   thuật): Ví dụ 1: Trong khổ thơ dưới đây, hình ảnh so sánh đã góp phần diễn tả  nội dung thêm sinh động, gợi cảm thế nào? Đã có ai lắng nghe Tiếng mưa trong rừng cọ? Như tiếng thác dội về Như ào ào trận gió.         (Nguyễn Viết Bình) Gợi ý: Hình ảnh, âm thanh “tiếng thác dội về”, “ào ào trận gió” đã góp  phần diễn tả được sự  mạnh mẽ, vang động của tiếng mưa rơi trong rừng   cọ; gợi cảm xúc mới lạ, thú vị. Ví dụ 2: Chỉ rõ điệp ngữ trong đoạn văn dưới đây và cho biết tác dụng của  nó? “Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái,   trắng long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê mận. Thoắt cái,  gió xuân hây hẩy, nồng nàn với những bông hoa lay  ơn màu đen nhung  hiếm quý.”                                                             (Nguyễn Phan Hách) Gợi ý:   Điệp ngữ  “thoắt cái”  gợi cảm xúc đột ngột, ngỡ  ngàng; nhấn  mạnh sự thay đổi rất nhanh của thời gian. Dạng 4: Bài tập về bộc lộ cảm thụ văn học qua một đoạn viết ngắn: Ví dụ:  “Em nghe thầy đọc bao ngày          Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà. 10
  11. Mái chèo nghe vọng sông xa           Êm êm nghe tiếng của bà năm xưa. Nghe trăng thở động tàu dừa           Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời. Thêm yêu tiếng hát, nụ cười           Nghe thơ em thấy đất trời đẹp ra.” (Nghe thầy đọc thơ ­ Trần Đăng Khoa) Hãy nêu cảm nhận của em khi đọc bài thơ này. Gợi ý:   ­ Bài thơ  “Nghe thầy đọc thơ” của Trần Đăng Khoa là một bài  thơ  rất hay, giàu hình tượng thẩm mĩ, làm xúc động người đọc, người  nghe. ­ Bài thơ nói lên sự  thích thú, say mê của tác giả  khi nghe thầy đọc thơ.  Niềm hứng khởi đó đã được tác giả thể hiện thành công qua các biện pháp   nghệ thuật. Hình ảnh “tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà” thật là sinh  động. Cách dùng từ  “đỏ  nắng”,  “xanh cây”  giúp ta hình dung được màu  sắc đang chuyển động, gây  ấn tượng mới lạ  đối với người đọc.  “Tiếng   thơ” vốn là điều chỉ  nghe và cảm nhận được nay dường như  có thể  nhìn   thấy được. Không chỉ  có thế, nghe thơ  tác giả  còn tưởng tượng đến mái  chèo, dòng sông, người bà yêu dấu năm xưa và nhất là  “nghe trăng thở  động tàu dừa” là một hình ảnh rất tinh tế, hấp dẫn được tôn lên bằng biện  pháp nghệ  thuật nhân hoá. Ánh trăng được cảm nhận từ  hơi thở  nhẹ  làm   tàu dừa lay động. “Tiếng thơ” của thầy đã làm cho cảnh vật được giao hoà  với nhau… Tất cả điều đó cho ta thấy rõ tác giả đã xúc động biết nhường   nào trước “tiếng thơ” của thầy. Vì thế cho nên:  “Nghe thơ em thấy đất trời đẹp ra.” ­ Tiếng thơ của người thầy đã mở ra cho tâm hồn nhà thơ biết bao nhiêu  hình ảnh, tình cảm, suy nghĩ đẹp. 2.3. Các bước làm một bài văn cảm thụ: 11
  12. Để làm tốt một bài tập cảm thụ văn học, các em thực hiện đầy đủ từng   bước các việc sau đây: a) Đọc kĩ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập (Phải trả lời được điều  gì? Cần nêu bật được ý gì?). b) Đọc và tìm hiểu về câu thơ (câu văn) hay đoạn trích được nêu trong đề  bài để  tìm ra chủ  đề  của nó, cách dùng từ  đặt câu; cách dùng hình ảnh, chi  tiết; cách sử  dụng các biện pháp nghệ  thuật như  so sánh, nhân hóa, điệp  ngữ,... qua đó phát hiện được nội dung thể hiện ý nghĩa đẹp đẽ sâu sắc của   câu thơ (câu văn) hay đoạn trích. Thông thường để tìm hiểu một đoạn văn, thơ em cần đọc kĩ đoạn trích,  xác định được nội dung chính của đoạn trích thông qua một số câu hỏi gợi   ý sau: ­ Tác giả viết bài (đoạn) văn (thơ) nhằm diễn tả gì? ­ Điều đó được thể  hiện qua những từ  ngữ, hình  ảnh, chi tiết nào và  những biện pháp nghệ  thuật nào được thể  hiện qua các từ  ngữ, hình  ảnh   đó? ­ Đoạn thơ (văn) gợi cho em suy nghĩ cảm xúc gì? c) Viết đoạn văn cảm thụ hướng vào yêu cầu của đề: ­ Đoạn văn có thể bắt đầu bằng một câu “mở đoạn” để dẫn dắt người đọc  hoặc trả lời thẳng vào câu hỏi chính. Tiếp đó, cần nêu rõ các ý theo yêu cầu   của đề (các hình ảnh, từ ngữ, chi tiết... làm toát nội dung của đoạn văn, đoạn  thơ). Cuối cùng, có thể kết đoạn bằng một câu ngắn gọn để gợi lại nội dung  cảm thụ. Với từng dạng bài cụ thể có thể trình bày theo các bước cơ bản sau: * Dạng bài phát hiện hình ảnh, chi tiết gợi tả thường có các bước sau: ­ Phát hiện, nêu ra các hình ảnh, chi tiết gợi tả. ­ Tái hiện vẻ đẹp, nêu ý nghĩa của hình ảnh, chi tiết thông qua biện pháp  nghệ thuật được sử dụng. ­ Nêu bật được tư tưởng, tình cảm của tác giả. 12
  13. ­ Cảm xúc của bản thân. * Dạng bài cảm thụ  hình tượng nhân vật (dạng nhỏ  của dạng bài cảm   thụ văn học qua đoạn viết ngắn): ­ Nêu các chi tiết về: + Ngoại hình + Hành động cña nh©n vËt (®îc thÓ hiÖn qua tõ ng÷, h×nh ¶nh nµo?). + Lời nói             ­ Nêu bật tính cách, phẩm chất,... của nhân vật. ­ Tư  tưởng chủ  đạo, ý nghĩa sâu xa của tác phẩm, của tác giả  được thể  hiện qua nhân vật. ­ Cảm xúc của bản thân. Ví dụ: Trình bày cảm nhận của em về “lòng thương người” ­ một nét tính  cách tiêu biểu của Dế Mèn trong câu chuyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” của  nhà văn Tô Hoài. Bài tham khảo: Nhân vật Dến Mèn trong mẩu chuyện “Dế  mèn bênh   vực kẻ yếu” của Nhà văn Tô Hoài đã để lại cho ta ấn tượng tuyệt đẹp.  Đó  là một con người giàu tình thương người. Khi nghe  “tiếng khóc tỉ  tê”  và  thấy chị Nhà Trò “gục đầu” bên tảng đá cuội, nếu là người khác chắc sẽ  thờ   ơ, bỏ  mặc nhưng Dế  Mèn đã “đến gần” và “gặng hỏi” cho thấy Dế  Mèn đã rất quan tâm đến mọi người. Hình ảnh chị Nhà Trò  “đã bé nhỏ lại   gầy   gò   quá”  với   đôi   cánh  “ngắn   chùn   chụt”  đã   làm   Dế   Mèn   rất   cảm  thương. Chú ta càng xúc động hơn trước cảnh ngộ bất hạnh của chị:  “Mẹ  mất”,  “sống thui thủi”  một mình,  “túng thiếu”  … lại còn bị  đe dọa bởi  món nợ truyền đời của bọn nhện. Cử chỉ  “xoè hai càng ra”, “dắt chị Nhà   Trò đi” và lời nói: “Em đừng sợ, hãy về với tôi đây…” càng thể hiện rõ hơn  phẩm chất đáng quý của Dế Mèn: giàu tình thương yêu, sẵn sàng che chở,  giúp đỡ  những người yếu đuối bất hạnh. Dế Mèn đúng là biểu tượng của   tình thương yêu, lòng nhân ái. Dế Mèn đã để lại trong lòng ta bao tình cảm  mến thương, cảm phục. 13
  14. * Với các dạng bài còn lại gồm 4 bước sau: ­ Phát hiện nghệ thuật. ­ Chỉ ra nội dung. ­ Nêu tư tưởng, tình cảm của tác giả. ­ Cảm xúc của bản thân. 3. Hướng dẫn học sinh vận dụng vào làm bài cảm thụ văn học: 3.1. Hướng dẫn học sinh nhận dạng đề: Việc học sinh nhận dạng đề đúng sẽ giúp các em tránh việc lạc đề, làm  bài lan man, không tập trung vào nội dung câu hỏi yêu cầu. Hướng dẫn học  sinh nhận dạng đề được tôi chia ra làm hai cấp độ: ­ Cấp độ  vận dụng trực tiếp: Sau mỗi biện pháp nghệ  thuật, dạng bài  tập được nêu trên, tôi cho học sinh tiến hành làm bài tập vận dụng ngay để  các em làm quen. Mức độ yêu cầu được giảm độ khó ở chỗ: các em đã biết   chắc biện pháp nghệ  thuật được sử  dụng trong đoạn văn, đoạn thơ, bài  văn, bài thơ nên việc của các em là tập trung khai thác giá trị của biện pháp  nghệ  thuật được tác giả  sử  dụng để  hoàn thành bài tập theo yêu cầu. Ví  dụ: * Sau khi hướng dẫn học sinh các kiến thức về biện pháp nghệ thuật so  sánh, tôi đưa ra các bài tập vận dụng sau: So sánh: ­ Bài tập vận dụng: + Nghệ thuật nào được sử dụng trong câu ca dao sau:  “Công cha như núi Thái Sơn    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Trả lời: Nghệ thuật được sử dụng trong câu ca dao trên là nghệ thuật so  sánh: “Công cha” được so sánh với “núi Thái Sơn”. “Nghĩa mẹ” được so  sánh với “nước trong nguồn chảy ra”. Dấu hiệu so sánh là từ  “như”. Các  hình ảnh so sánh này nói lên công lao to lớn và tình yêu thương vô bờ  bến  của cha mẹ đối với con cái. 14
  15. + Em cảm nhận được gì về tình cảm bà cháu được thể hiện qua phép so   sánh sau: “Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng”. (Quả ngọt cuối mùa ­ Võ Thanh An) Trả  lời:  Trong đoạn thơ  trên, người bà được so sánh với  “quả  ngọt   chín”. Hình ảnh so sánh này nói lên vai trò của người bà đối với con cháu. Quả  chín bao giờ cũng là thứ quả ngon, ngọt như sự hiểu biết của bà được tăng dần   lên theo thời gian và người bà ngày càng là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho   con cháu. Hai câu thơ trên cũng nói lên tình cảm thắm thiết của bà và cháu. Đó là   sự kính trọng của người cháu đối với người bà. *  Sau khi hướng dẫn học sinh các kiến thức về  biện pháp nghệ  thuật  nhân hoá, tôi đưa ra bài tập vận dụng sau: Nhân hoá: ­ Bài tập vận dụng:  Chỉ ra và nêu tác dụng của nghệ thuật nhân hoá trong đoạn thơ sau : “Bé ngủ ngon quá Đẫy cả giấc trưa Cái võng thương bé Thức hoài đưa đưa”. Trả lời: Trong đoạn thơ trên, hình ảnh nhân hoá được thể hiện qua hai câu   thơ: “Cái võng thương bé Thức hoài đưa đưa”. Tác dụng của biện pháp nghệ  thuật này giúp cho hình  ảnh cái võng trở  nên sinh động, gần gũi với thế  giới thần tiên của tuổi thơ. Cái võng như  một người bạn thân thiết cần mẫn nâng giấc ngủ cho bé thơ. * Sau khi hướng dẫn học sinh kiến thức về biện pháp nghệ  thuật chơi   chữ, tôi đưa ra bài tập vận dụng sau: Chơi chữ: ­ Bài tập vận dụng: 15
  16.     “Đêm đêm tiếng thậm tiếng thình        Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non.” (Qua Thậm Thình ­ Nguyễn Bùi Vợi) Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì trong câu thơ đầu? Nói rõ cái  hay của biện pháp nghệ thuật đó. Trả  lời:  Trong câu:  “Đêm đêm tiếng thậm tiếng thình”, tác giả  đã sử  dụng biện pháp nghệ thuật chơi chữ. Cụ thể:  “thậm, thình” vừa là những  tiếng gợi tả  âm thanh của tiếng chày giã gạo vọng lại từ  thời vua Hùng  vừa là hai tiếng trong địa danh “Thậm Thình” thuộc Phong Châu, Phú Thọ.  Tục truyền đây là nơi vua Hùng nghỉ chân và đặt kho chứa gạo. Hai câu thơ trên gợi lại hình ảnh, âm thanh tiếng chày giã gạo thủa dựng   nước qua thời gian như còn vọng về quanh quất, còn nghe thoảng đâu đây. ­ Cấp độ  tự  hiểu và vận dụng:   Ở  cấp độ  này, tôi chỉ  nêu bài tập và  không nói rõ trong đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ sử  dụng biện pháp  nghệ thuật gì; tư  tưởng, chủ đề  tác phẩm, ý đồ  nghệ  thuật của tác giả  ra  sao mà yêu cầu học sinh phải tự tìm hiểu và phát hiện ra để hoàn thành bài  tập theo yêu cầu. Cấp độ này khó hơn, yêu cầu với học sinh cao hơn, tổng   hợp hơn, với nhiều biện pháp nghệ thuật được sử dụng hơn.  Ví dụ 1:  Đoạn thơ: “Bè đi chiều thầm thì Gỗ lượn đàn thong thả Như bầy trâu lim dim Đằm mình trong êm ả”. (Bè xuôi sông La ­ Vũ Duy Thông) Nghệ  thuật nào đã được tác giả  sử  dụng trong đoạn thơ  trên? Nêu cảm   nhận của em khi đọc đoạn thơ? Trả lời: Nghệ thuật được tác giả sử  dụng trong đoạn thơ  trên là: Nhân  hoá:  “chiều thầm thì”  và so sánh bè gỗ  như  “đàn”  cá lượn  “thong thả”,   16
  17. như  “bầy trâu”  đang  “lim dim”  tắm mát trên dòng nước trong xanh  “êm  ả”.  Sự  kết hợp khéo léo giữa biện pháp nghệ  thuật nhân hoá, so sánh và  dùng các từ láy “thầm thì”, “thong thả”, “lim dim”, “êm ả” được dùng rất  đắt, có tác dụng đặc tả buổi chiều thanh bình, thơ mộng trên dòng sông La. Ví dụ 2:  “Nếu chúng mình có phép lạ Hái triệu vì sao xuống cùng Đúc thành ông mặt trời mới        Mãi mãi không còn mùa đông” (Nếu chúng mình có phép lạ ­ Định Hải) Đoạn thơ thể hiện những điều gì đẹp đẽ? Em có những cảm nhận gì khi   đọc đoạn thơ trên. Trả lời:  Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng nghệ thuật liên tưởng khá  thú vị: Biểu tượng “ông mặt trời” gợi lên một thế  giới  ấm no hạnh phúc,  đầy ánh sáng; trái ngược là biểu tượng “mùa đông” gợi sự  lạnh lẽo, đói  rét, nghèo khổ. Cách dùng các động từ “hái”, “đúc” thể hiện khát vọng của  tuổi thơ muốn chinh phục vũ trụ bao la và các hành tinh xa xôi. Đoạn thơ  thể  hiện sinh động  ước mơ  cao đẹp, đầy tính nhân văn của  tuổi thơ: Trên trái đất không còn đói rét, nghèo khổ  và bất công. Các em   ước mơ  về  một thế giới tốt đẹp, đầy ánh sáng văn minh,  ấm no và hạnh  phúc. 3.2. Sử  dụng các câu hỏi gợi mở  để  hướng dẫn học sinh tìm hiểu   đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ: Có rất nhiều bài tập cảm thụ mà thoạt nhìn học sinh khó nhận biết, phân   biệt được biện pháp nghệ thuật hay nội dung của bài, cũng như những hình  ảnh, từ ngữ,... được tác giả sử dụng. Vì vậy, giáo viên cần phải có những   câu hỏi gợi mở để học sinh trả lời, sau đó hướng dẫn các em tổng hợp các  ý và trình bày thành bài viết. Ví dụ 1: Với đề bài sau: 17
  18. Trong bài “Bầm ơi”, Tố Hữu có viết: “Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.” Nghệ thuật nổi bật ở đây là gì? Qua nghệ thuật ấy, em cảm nhận được  điều gì sâu sắc? Thoạt tiên mới đọc, học sinh sẽ  khó có thể  nhận biết được biện pháp  nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng vì ở đây tác giả sử dụng biện pháp nghệ  thuật so sánh ngầm. Với bài tập này, tôi đã đặt câu hỏi để  học sinh tìm  hiểu như sau: ­ Trong câu thơ  thứ  hai có những đối tượng nào?   (Có ba đối tượng:   những hạt mưa, bầm (mẹ) và tình thương). ­   Trong   các   đối   tượng   đó,   những   đối   tượng   nào   liên   hệ   với   nhau?  (Những hạt mưa và tình thương). ­ Câu thơ  này nói lên điều gì?  (Mưa càng nhiều hạt, người con càng   thương mẹ bấy nhiêu). ­ Như vậy, biện pháp nghệ thuật ở đây là gì? (Nghệ thuật so sánh). ­ Các đối tượng nào được so sánh với nhau?   (Những hạt mưa và tình   thương). Từ đó, học sinh có thể làm bài như sau: Trong bài “Bầm ơi”, nhà thơ  Tố Hữu có viết:  “Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu”. Bằng việc sử  dụng thành công biện pháp nghệ  thuật so sánh (mưa bao   nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu), tác giả đã thể hiện tình cảm yêu quý của  một người con đối với mẹ, làm cho người đọc hình dung được nỗi vất vả  của người mẹ: Giữa cái giá rét, mẹ  còn phải hứng chịu những hạt mưa   buốt lạnh. Từ đó càng làm cho ta thêm xúc động bởi những tình cảm đáng   trân trọng của người con dành cho người mẹ. Với việc sử  dụng hình  ảnh  so sánh những hạt mưa với tình cảm của người con, tác giả  đã thành công   18
  19. trong việc thể hiện tình cảm đó. Hỏi có mấy ai đếm được có bao nhiêu hạt   mưa rơi cũng như tình cảm dạt dào của con đối với mẹ? Ví dụ 2:  Kết thúc bài thơ  “Mẹ vắng nhà ngày bão”, nhà thơ Đặng Hiển  viết: “Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.” Theo em hình ảnh nào làm nên vẻ đẹp của đoạn thơ trên? Vì sao? Đối với bài tập này, học sinh không khó để nhận ra hình ảnh nào làm nên   vẻ  đẹp của đoạn thơ  là:  “Mẹ  về  như  nắng mới/ Sáng  ấm cả  gian nhà”  nhưng để  giải thích được lí do vì sao lại không phải là chuyện dễ, nhiều  học sinh rất lúng túng. Tôi đã hướng dẫn học sinh như sau: ­ Đoạn thơ thuộc chủ đề gì? (Tình cảm con người: Tình cảm gia đình). ­ Hình  ảnh nào nêu lên ý nghĩa của đoạn thơ  và gây  ấn tượ ng đẹp  trong lòng ngườ i đọc? (Mẹ về như nắng m ới/ Sáng ấm cả gian nhà). ­ Biện pháp nghệ thuật được sử  dụng trong hai câu thơ này là gì? (Biện   pháp nghệ thuật so sánh). ­ Em hãy nêu hình  ảnh so sánh? (Người mẹ  trở về  nhà khi cơn bão qua   được so sánh với hình  ảnh “nắng mới” hiện ra khi bầu trời xanh trở lại   sau cơn bão). ­ Sự so sánh đó giúp chúng ta hiểu được điều gì?  (Mẹ  cần thiết cho cả   gia đình chẳng khác nào ánh nắng cần thiết cho sự sống). Từ đó, học sinh có thể làm bài như sau: Hình  ảnh “Mẹ  về  như  nắng mới, sáng  ấm cả  gian nhà” đã làm nên vẻ  đẹp của đoạn thơ. Hình ảnh này gây ấn tượng đẹp trong lòng người đọc và  nêu bật được ý nghĩa của cả bài thơ. Người mẹ trở về nhà khi cơn bão qua  được so sánh với hình ảnh “nắng mới” hiện ra khi bầu trời xanh trở lại sau  cơn bão. Sự so sánh đó giúp chúng ta hiểu được một điều sâu sắc: Mẹ cần  19
  20. thiết cho cả gia đình chẳng khác nào ánh nắng cần thiết cho sự sống. Chính  vì vậy, khi mẹ trở về, cả gian nhà trở  nên “sáng ấm” bởi tình yêu thương  đẹp đẽ. Vai trò của người mẹ  trong gia đình thật quan trọng và đáng quý   biết bao! Ví dụ 3:  Miêu tả về dòng sông, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã viết áng thơ  sau: “Dòng sông mới điệu làm sao Nắng lên mặc áo lụa đào thướt tha Trưa về trời rộng bao la      Áo  xanh sông mặc như  là mới may.” Hãy chỉ ra cái hay trong cách nói "dòng sông mặc áo" của nhà thơ. Đây là dạng bài tập phát triển vốn ngôn ngữ  cho học sinh. Để  làm được   bài tập này, tôi hướng dẫn học sinh đọc kĩ đoạn thơ và suy nghĩ xem tác giả  tả dòng sông như ai (như một người thiếu nữ), từ đó dựa vào nội dung đoạn  thơ và tính tình của những thiếu nữ nói chung để nêu ra cách hiểu của mình.   Học sinh có thể nêu: Dòng sông được nhà thơ miêu tả giống như một thiếu   nữ điệu đà, thích làm đẹp.  Từ đó, học sinh có thể làm bài như sau: Cách  nói  “dòng sông  m ặc  áo”   là  cách  nói hay,  duyên  dáng và  nên  thơ.   Dòng sông được nhân hoá trở  nên điệu đà, thích làm đẹp, làm duyên  như  thiếu nữ. Tả  dòng sông, tác giả  tả  sắc nước biến hoá trong mọi thời   điểm trong một ngày với không gian rộng rãi, tĩnh tại như  việc thiếu nữ  luôn thay đổi y phục của mình. Qua cách quan sát, cách miêu tả  dòng sông  rất chính xác và tinh tế, tác giả đã tạo nên chất thơ cho dòng sông thật hiền  hoà và yên ả. Ví dụ 4: Đọc đoạn văn sau trong bài “Rừng miền đông”: “Đang vào mùa rừng dầu trút lá. Tàu lá dầu liệng xuống như  cánh diều  phủ vàng mặt đất. Mỗi khi có con hoẵng chạy qua, thảm lá khô vang động  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2