intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Giải pháp nâng cao chất lượng đọc thành tiếng cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

64
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếng Việt là một môn học công cụ mà trong đó Tập đọc đóng vai trò khởi đầu. Đọc đúng giúp học sinh có khả năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của loài người, nhờ biết đọc, các em mới có điều kiện tiếp thu các môn học khác. Thông qua môn Tập đọc, học sinh có công cụ học tập và giao tiếp, không những giúp học sinh phát triển tư duy mà còn bồi dưỡng cho các em tình cảm tốt đẹp, góp phần phát triển nhân cách toàn diện. Trên cơ sở đọc tốt, học sinh mới có thể nói tốt, viết tốt, thực hành tốt các hoạt động của các môn học khác, góp phần phát triển 5 mặt giáo dục trong nhà trường tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Giải pháp nâng cao chất lượng đọc thành tiếng cho học sinh lớp 2

  1. Së gi¸o dôc ®µo t¹o thanh Hãa Phßng gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Ho»ng Hãa S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Tªn ®Ò tµi: Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt lîng ®äc thµnh tiÕng cho häc sinh líp 2 Hä vµ tªn : Tµo ThÞ Thóy Chøc vô : Gi¸o viªn ®¬n vÞ c«ng t¸c : Trêng TiÓu häc Ho»ng Long SKKN thuéc m«n : T©p ®äc N¨m häc: 2010 - 2011 PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN MỞ ĐẦU 1
  2. 1. Lý do chọn đề tài:  Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực  quan trọng thúc đẩy sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện  để phát huy nguồn lực con người.  Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phụ  thuộc rất lớn vào nguồn  nhân lực mà nguồn nhân lực lại do ngành chúng ta đào tạo. Một trong những   yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ  chính là độ  ngũ giáo viên. Mỗi giáo viên phải tăng cường cập nhật hóa, đổi  mới phương pháp giáo dục sao cho phù hợp từng môn học, từng bài học,  từng đối tượng học sinh thì mới nâng cao được chất lượng giáo dục đảm  bảo theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước đề ra.  Vậy trong quá trình dạy học, làm thế  nào để  phát huy tối đa sự  tự  giác,  tích cực chủ  động, linh hoạt, sáng tạo của học sinh trong tư  duy và trong   cuộc sống đời thường. Muốn làm được điều này, người giáo viên trên bục  giảng phải biết tận dụng khả năng vốn có của bản thân, biết phát huy những  kĩ năng sư phạm, biết luôn trau dồi, học hỏi và đặc biệt phải biết tận dụng,   chắt lọc những tinh hoa văn hóa của dân tộc vào từng môn học, từng bài học  nhằm hướng dẫn học sinh tiếp thu những tri thức, những tinh hoa văn hóa  của dân tộc vào giao tiếp, ứng xử cộng đồng sao cho phù hợp với các chuẩn  mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa để  đáp  ứng vào việc phát triển khoa học  kỹ thuật phục vụ đời sống.  Như  ta đã biết, Đảng ta đã nhấn mạnh hiện nay việc đẩy mạnh công  nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đưa nước ta vào hội nhập với nền kinh   tế  của thế  giới ngoại giao. Như  vậy, rõ ràng kĩ năng giao tiếp không kém  phần quan trọng. Vậy làm thế nào để một con người trong thời đại mới vừa   có kiến thức, vừa có kĩ năng giao tiếp tốt? Giao tiếp là một trong những kĩ   năng quan trọng của một con người, nó thể hiện nhân cách, văn hóa của một  con người hay nói rộng hơn là của cả một dân tộc.  Tiếng Việt là một trong những môn học bắt buộc trong chương trình  Tiểu học môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển  ở  HS kĩ năng giao   tiếp, kĩ năng sử  dụng tiếng mẹ  đẻ  (nghe, nói, đọc, viết) nhằm từng bước  giúp các em làm chủ  dần công cụ  ngôn ngữ  để  học tập, để  rèn luyện khả  2
  3. năng giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc, tự  tin trong các môi trường xã   hội thuộc phạm vi hoạt động của lứa tuổi và để tiếp tục học lên cấp học cao  hơn.  Tiếng Việt là một môn học công cụ  mà trong đó Tập đọc đóng vai trò   khởi đầu. Đọc đúng giúp HS có khả  năng hiểu biết, tiếp thu được nền văn  minh của loài người, nhờ biết đọc, các em mới có điều kiện tiếp thu các môn  học khác. Thông qua môn Tập đọc, HS có công cụ  học tập và giao tiếp,   không những giúp HS phát triển tư  duy mà còn bồi dưỡng cho các em tình   cảm tốt đẹp, góp phần phát triển nhân cách toàn diện. Trên cơ sở đọc tốt, HS   mới có thể  nói tốt, viết tốt, thực hành tốt các hoạt động của các môn học   khác, góp phần phát triển 5 mặt giáo dục trong nhà trường tiểu học.  Vậy làm thế nào để HS đọc đúng, đọc lưu loát tiến tới đọc diễn cảm?  Để trả lời câu hỏi này, người giáo viên cần phải làm gì? HS cần phải làm  gì?  Trong thực tế giảng dạy, mỗi giáo viên chúng ta đã có bao giờ đặt ra câu   hỏi đó và tìm ra cách trả lời câu hỏi đó chưa?  Thực trạng HS Tiểu học chúng ta đã biết đọc đúng, đọc trôi chảy, đọc  diễn cảm một văn bản hay chưa?  Trong năm học vừa qua, được trực tiếp giảng dạy HS lớp 2, đối tượng   HS mới được làm quen với loại văn bản giản đơn ở giai đoạn học kỳ II của   lớp 1, bản thân tôi trăn trở, suy nghĩ và muốn làm một vấn đề gì đó góp phần   vào việc giúp học sinh đọc tốt. Chính vì vậy tôi đã tiến hành thực nghiệm để  tìm giải pháp "Nâng cao chất lượng đọc thành tiếng cho học sinh lớp 2". Với   kinh nghiệm ít  ỏi, tôi mong sao những ý kiến nhỏ  của tôi sẽ  góp phần giúp  HS đọc đúng, đọc diễn cảm, nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt  ở Tiểu học.  2. Mục đích yêu cầu:  Như  ta đã biết, chương trình Tiếng Việt tiểu học nói chung, phân môn  Tập đọc nói riêng lấy nguyên tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản. Như vậy,  kĩ năng giao tiếp đuợc đánh giá vô cùng quan trọng, song trên thực tế  hiện  3
  4. nay đa số học sinh  ở các cấp học nói chung chưa chú trọng đến vấn đề  giao  tiếp. Hầu như  các em chỉ  chú trọng đến việc học kiến thức (cụ  thể  là học   nghiêng về các môn tự nhiên: Toán, Lý, Hóa). Chính vì thế nhiều học sinh khi  ra cuộc sống đời thường, mặc dù các em rất giỏi về  kiến thức công nghệ,  điện tử hiện đại song khả năng giao tiếp thể hiện chuẩn mực văn hóa thì lại  rất non yếu. Thế nguyên nhân này xuất phát từ  đâu? Xét một cách toàn diện  thì có rất nhiều nguyên nhân, song đi vào cụ  thể  thì nguyên nhân chủ  yếu ta   cũng dễ dàng nhận thấy đó là việc học sinh rất ngại học môn Tiếng Việt, đó  cũng là một nguyên nhân vô cùng bức xúc mà đòi hỏi những người làm công  tác giáo dục, đặc biệt là người giáo viên trực tiếp giảng dạy phải trăn trở,   băn khoăn tìm cách tháo giỡ  tình trạng này. Trong phạm vi có hạn của một  người giáo viên Tiểu học, tôi thiết nghĩ: Một con người dù có trưởng thành   đến  đâu  thì   cũng  phải   qua  một  bước  ngoặc  lớn của  cuộc  đời  đó   là mái  trường Tiểu học. Như vậy giáo dục Tiểu học là nền tảng quan trọng xuyên  suốt cuộc đời một con người. Thế  thì ta lại càng chứng tỏ  rằng giáo dục kĩ  năng giao tiếp cho học sinh phải lấy nền tảng từ khi HS học ở cấp Tiểu học.   Mục đích nghiên cứu của đề tài này là: Điều tra tình hình giảng dạy của giáo   viên và thực trạng tình hình học tập môn Tiếng Việt nói chung, phân môn  Tập đọc nói riêng  ở  Tiểu học để  thấy rõ được nguyên nhân ảnh hưởng tới   ngôn ngữ giao tiếp của HS.  Thông qua việc dạy khảo sát thực tế  môn Tập đọc lớp 2, bản thân tôi  mốn phân tích thực trạng để tìm ra các biện pháp giúp HS đọc đúng, đọc trơn  tiến tới đọc diễn cảm một văn bản. Từ đó các em mới cảm thụ được cái hay,  cái đẹp của một văn bản, nhằm nâng cao hiệu quả  dạy và học Tập đọc nói   riêng, môn Tiếng Việt nói chung để góp phần vào việc rèn kĩ năng giao tiếp   văn hóa, nền tảng của việc đào tạo con người phát triển toàn diện đáp  ứng   được nhu cầu giáo dục trong thời đại mới. Qua đó, đề  xuất một số  ý kiến   góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Tập đọc cũng như  cách thức   kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp   2.  4
  5. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.  1.1. Cơ sở lý luận:  Ta biết rằng, dạy học có ý nghĩa rất to lớn  ở  Tiểu học. Đọc trở  thành   một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với người đi học. Đầu tiên trẻ em phải học   đọc, sau đó các em phải đọc để  học. Đọc để  giúp các em chiếm lĩnh được  ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học tập  các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ  học tập. Đọc tạo điều  kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là khả  năng không thể  thiếu được của một con người thời đại văn minh. Chính vì  vậy, trường tiểu học có nhiệm vụ dạy cho học sinh một cách có kế hoạch và   hệ thống. Tập đọc với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt ở Tiểu   học có nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.  Trong cuốn "Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga" Viện sĩ  M.R.Lơvốp đã định nghĩa "Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình  chuyển dạng     thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng  với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ  viết thành các đơn vị nghĩa không có âm (ứng với đọc thầm)". Định nghĩa này   thể hiện một quan niệm đầy đủ về đọc, xem đó là quá trình giải mã hai bậc:  Chữ viết ­ âm thanh và chữ viết (âm thanh ­ nghĩa). Như vậy đọc không chỉ là  đánh vần, phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ  viết, cũng không  phải là quá trình nhận thức để  có khả  năng thông hiểu những gì được đọc.  Đọc chính là một sự tổng hợp của hai quá trình này.  Như vậy, Tập đọc rõ ràng nó là một phân môn thực hành.  Nhiệm vụ  của phaâ môn Tập đọc là hình thành năng lực đọc cho HS,  năng lực đọc được tạo neê từ  bốn kĩ năng bộ  phận cũng là bốn yêu cầu về  chất lượng của đọc: đọc đúng, đọc nhanh, (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý  thức và đọc hay. Bốn kĩ năng của đọc được hình thành trong hai hình thức  đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng  như  cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại nếu không hiểu điều  mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được.  5
  6. Nhiệm vụ thứ hai của dạy học là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành  thói quen làm quen với sách cho HS. Thông qua việc dạy học, phải làm cho   HS thích đọc và thấy được khả  năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả  cuộc đời. Như  vậy dạy đọc có ý nghĩa to lớn vì nó có cả  nhiệm vụ  giáo   dưỡng, giáo dục và phát triển.  Để  tổ  chức dạy Tập đọc  ở  Tiểu học có hiệu quả  thì rõ ràng phải suy  nghĩ về phương pháp dạy học Tập đọc. Phương pháp dạy Tập đọc phải dựa  trên những cơ sở khoa học. Nó phải dựa vào những kết quả  nghiên cứu của  ngôn ngữ  học, văn học, sư  phạm học, tâm lí học để  xây dựng, xác lập nội  dung và phương pháp dạy học.  Để  tổ  chức dạy học cho HS, chúng ta cần hiểu rõ quá trình đọc diễn ra  như thế nào và bản chất của kĩ năng đọc là gì?  Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mất thiết với   nhau, là việc sử  dụng một bộ  mã gồm 2 phương diện. Thứ  nhất đó là quá   trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ  ­ âm để  phát ra một cách trung  thành những dòng văn tự  ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này gọi là quá  trình đọc thành tiếng. Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác  và ngày càng nhanh các kí hiệu văn tự  thành kí hiệu âm thanh. Vì vậy chất   lượng của đọc thành tiếng trước hết  được đo bằng hai phẩm chất:  Đọc  dúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó là hai kĩ năng đầu tiên của đọc.  Trong phạm vi nghiên cứu của đề  tài này, tôi cũng chỉ  muốn đề  cập tới  hai kĩ năng đầu tiên của đọc bởi đối tượng đang trực tiếp giảng dạy chính là   đối tượng học sinh mới trải qua giai đoạn học vần và mới làm quen với văn   bản đơn giản, ngắn gọn (ở lớp 1). Hết chương trình lớp 1.  HS có nhiệm vụ phải đọc trơn tiếng (âm tiết). Như vậy Tập đọc ở lớp 2  với tư  các là một phân môn Tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học   vần đạt đuợc, nâng lên đầy đủ, hoàn chỉnh hơn.  Vậy mục tiêu chính của phân môn Tập đọc lớp 2 là gì?  Như ta đã biết mục tiêu của phân môn Tập đọc lớp 2 là:  * Phát triển các kĩ năng đọc, nghe và nói cho HS. Cụ thể là:  a) Đọc thành tiếng:  ­ Phát âm đúng 6
  7. ­ Ngắt nghỉ hơi hợp lí  ­ Cường độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí)  ­ Tóc độ vừa phải (đạt yêu cầu khoảng 50 tiếng/ phút)  b) Đọc thầm và hiểu ND:  ­ Biết đọc không thành tiếng, không mấy máy môi ­ Hiểu được nghĩa của từ ngữ trong văn cảnh, nắm được ND câu, đoạn  hoặc bài đã học.  c) Nghe:  ­ Nghe và nắm được cách đọc đúng câu, đoạn, bài ­ Nghe, hiểu các câu hỏi của thầy cô  ­ Nghe hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.  d) Nói:  ­ Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm về bài Tập đọc.  ­ Biết cách trả lời các câu hỏi về bài đọc  * Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư  duy, mở rộng sự  hiểu biết của HS về cuộc sống.  * Bồi dưỡng tư  tuởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, tình  yêu cái đẹp, yêu cuộc sống, hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng Việt.  ­ Từ những mẫu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong SGK hình thành   lòng ham muốn đọc sách, khả  năng cảm thụ  văn bản, văn học, cảm thụ  vẻ  đẹp của Tiếng Việt và tình yêu Tiếng Việt.  * Như vậy: Chương trình Tập đọc lớp 2 được xây dựng thông qua hoạt   động giao tiếp. Để  thực hiện được mục tiêu phát triển các kĩ năng sử  dụng  Tiếng Việt ở HS giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập và   giao tiếp một cách đúng đắn, mạch lạc. Như  vậy chương trình Tiếng Việt  Tiểu học nói chung, phân môn Tập đọc nói riêng lấy nguyên tắc giao tiếp  làm định hướng cơ bản. Phaâ môn Tập đọc rèn cho HS các kĩ năng đọc (đọc  thành tiếng, đọc hiểu, đọc diễn cảm) nghe và nói thông qua hệ thống bài tập  đọc theo chủ điểm.  1.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:  * Điều tra tình hình giảng dạy của giáo viên và tình hình học tập của học   sinh.  7
  8. a. Tình hình giảng dạy của giáo viên.  Năm học 2010 ­ 2011 tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 2A,   ngay từ khi nhận lớp, bước vào đầu năm học tôi đã chú trọng tìm hiểu HS và  đã trực tiếp khảo sát phân loại đối tượng HS, tôi đã xác định rõ nhiệm vụ  của người giáo viên Tiểu học là một ông thầy tổng thể ­ là một ông thầy yêu   cầu phải giáo dục HS phát triển một cách toàn diện. Song điều đó không  phải dễ, không phải ông thầy nào cũng làm được điều đó. Điều này nó phản   ánh rõ nét qua việc khảo sát ban đầu chất lượng HS. Hầu như số HS đạt từ  loại khá trở  lên ở  môn Toán cao hơn môn Tiếng Việt. Chính vì vậy ngay từ  đầu năm, tôi đã đặt ra câu hỏi: Tại sao lại có sự chênh lệch này? Chắc chắn   là có nguyên do, cái nguyên do này không phải chỉ  có trường tôi mà tôi nghĩ  trong quá trình giảng dạy, đa số giáo viên chúng ta chưa chú trọng trong việc   rèn luyện cho HS diễn đạt tư duy của các em thành ngôn ngữ.  Trong các tiết học Tiếng Việt, đặc biệt phân môn Tập đọc, hầu hết giáo   viên mới dừng ở mức độ gọi HS đọc, nêu câu hỏi để HS trả lời chứ chưa chú  trọng tới việc các em phát âm có đúng hay không? ngắt nghỉ hơi giữa các dấu  câu và các cụm từ dài đã chính xác chưa? Các em đã biết nhấn giọng ở những  từ  ngữ  gợi tả  hay chưa? Và cứ  thế  gọi HS đọc rồi nhắc nhở  chung chung,   phiến diện chứ  chưa đi sâu vào việc rèn luyện cho các em đọc dúng (đúng  chính âm, đúng phụ  âm, đúng thanh điệu), đọc trơn, đọc trôi chảy, lưu loát,  biết ngắt nghỉ đúng, biết đọc rõ lời nhân vật đối với một số bài là truyền kể  để  sau khi đọc xong các em có thấu hiểu được nội dung của một bài Tập   đọc.  Là người giáo viên trực tiếp đứng lớp, ta phải hiểu rõ được một đều là:  Chỉ khi nào HS đọc tốt được một bài Tập đọc (tức là biết đọc đúng, đọc lưu  loát, đọc diễn cảm) thì lúc đó phần nào các em mới hiểu bài Tập đọc đó nói  về vấn đề gì, nội dung ra sao, nó hàm ẩn điều dạy bảo khuyên răn, nhắc nhở  các em điều gì?  Xuất phát từ tình hình thực tế đó, tôi nghĩ: Cần phải có biện pháp cụ thể  để  giúp HS có kĩ năng đọc tốt, HS có đọc tốt thì mời viết được, HS có đọc   8
  9. tốt thì mới có khả  năng học tốt các môn học khác và hơn thế  nữa, đọc tốt  giúp các em có theê vốn ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp.  b) Tình hình học tập của học sinh.  Lớp 2A tôi phụ trách có 38 em  Bước đầu vào năm học, sau khi được nhận lớp, tìm hiểu rõ đối tượng  HS qua giáo viên các lớp dưới, kết hợp với những buổi học trên lớp, được sự  đồng ý của chuyên môn trường, tôi đã tiến hành khảo sát trình độ  HS để  nhằm phân loại đối tượng.  Qua khảo sát môn Tiếng Việt mà cụ  thể  là phân môn Tập đọc, tôi chú  trọng đánh giá chất lượng: "Đọc  thành  tiếng " của học sinh vì chất lượng   đọc thành tiếng của HS được đo bằng hai phẩm chất: đọc đúng, đọc nhanh  (đọc trôi chảy, lưu loát), kết quả khảo sát đầu năm như sau:            XL Yếu Giỏi Khá TB (đánh vần ­ ghép   Tổng HS tiếng) 28 em  3 em  5 em  17 em 3 em 2. Một  số  giải  pháp "Nâng cao chất lượng đọc thành tiếng cho học sinh  lớp 2 " * Luyện thành tiếng.  Như  ta đã biết, Tập đọc là một phân môn thực hành, nhiệm vụ  quan   trọng của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh.  Để  đọc thành tiếng tốt thì điều quan trọng là luyện phát âm chính xác,  luyện ngắt nghỉ câu, luyện ngắt nhịp thơ.  1. Luyện phát âm.  Tiếng Việt không phải là một môn thực thể nhất định màg luôn biến đổi  với những sắc thái địa phương khác nhau, ở từng địa phương, tồn tại những   thổ ngữ đa dạng và phức tạp. Nhưng trong sự đa dạng phải có sự thống nhất   và chúng ta phải lấy sự  phát âm chuẩn (phát âm theo tiếng Hà Nội) làm cơ  sở. Chính vì vậy, để luyện phát âm cho học sinh chính xác thì trước hết giáo  9
  10. viên phải phát âm chính xác thì mới có thể khắc phục lỗi phát âm địa phương   cho HS.  * Cách khắc phục lỗi phát âm là:  Qua thực tế dạy HS tôi thấy, lỗi phát âm sai của HS là do phương ngữ,   ngoài ra còn do thói quen. Đối với HS lớp tôi dạy nói riêng và HS Thanh Hóa   ta nói chung, hầu như  các em không phân biệt được thanh hỏi, thanh ngã,  không   phân   biệt   được   tiếng   có   chứa   nguyên   âm   đơn   với   tiếng   có   chứa   nguyên âm đôi. Vấn đề đặt ra là phải luyện cho HS khắc phục những tồn tại   này.  * Hướng dẫn HS đọc  đúng tiếng có chứa thanh hỏi và tiếng có chứa thanh  ngã:  Trước hết, giáo viên phải đọc chính xác, sau đó hướng dẫn HS lắng  nghe để  tìm ra sự  khác nhau về  âm thanh của tiếng có chứa thanh hỏi với  tiếng có chứa thanh ngã bằng cách đưa ra một số cặp từ:  VD: Lẻ (loi) / (lặng) lẽ, (se) sẽ / (chia) sẻ , (nông) nổi / Nỗi (niềm).  Trên cơ sở đó, hướng cho HS phát hiện tiếng có chứa thanh ngã phát âm  ra nhẹ  hơn, âm thanh vang hơn, ngân hơn. Luyện cho HS phát âm tiếng có  chứa thanh ngã đứng riêng (như  VD trên) sau đó mới luyện cho HS phát âm  hai tiếng có chứa thanh hỏi và thanh ngã đứng liền nhau.  VD: Luyện đọc (lông) vũ trước sau đó luyện đọc cổ  vũ sau, luyện đọc  võ sĩ trước rồi mới luyện đọc dũng cảm sau.  * Hướng dẫn HS phân biệt tiếng có nguyên âm đôi và tiếng có chứa  nguyên âm đơn:  Đối với trường hợp HS phát âm sai tiếng có chứa nguyên âm đôi iê, ươ,  uô với tiếng có nguyên âm đơn, giáo viên phải đọc mẫu và hướng dẫn, HS  lắng nghe xem khi giáo viên đọc, trọng tâm của tiếng rơi vào (i) hay (ê) hay  rơi cả vào (i) và (ê) VD: Tiên (phong), (con) kiến, (quả) chuối, bước (chân) ...  Khi giáo viên đọc mẫu, HS phải phát hiện được: Nếu nhấn giọng vào "i"  sẽ  đọc thành "tin", nhấn giọng và "u" sẽ  đọc thành "chúi", nhấn giọng vào  "ư" sẽ  đọc thành "bức", nhưng ngược lại nếu đọc nhấn giọng vào các âm  đứng sau thì phát âm cũng sẽ sai. VD: Nhấn giọng vào "ê" sẽ đọc thành "tên",  10
  11. nhấn giọng vào "ô" sẽ đọc thành "chối". Như vậy khi dọc trọng tâm phải rơi   vào tả  "iê", "uô", "ươ" thò mới đọc đúng các loại tiếng có chứa nguyên âm  đôi.  Một điều lưu ý nữa, khi hướng dẫn học sinh đọc đúng tiếng có chứa  nguyên âm đôi, giáo viên phải nói rõ rằng: Khi đọc tiếng có chứa nguyên âm  đôi, độ  mở  miệng rộng hơn tiếng có nguyên âm đơn  ở  phần vấn. Tôi thiết   nghĩ rằng, đối với đối tượng HS lớp 1 vì bản thân các em vừa mới học song   phần vần, phần tiếng, ghép âm vần để  tạo thành tiếng, nếu giáo viên chúng  ta chịu khó, nhiệt tình trong việc luyện phát âm cho các em ngay từ  khi các   em đang còn ở giai đọan trứng nuớc của việc rèn đọc đúng và chỉ khi các em  đã hiểu rõ được bản chất của vấn đề thì dù cho các em có thói quen phương   ngữ thế nào các em vẫn có thể khắc phục được lỗi sai.  Như  vậy, rõ ràng là giáo viên phải kiên trì tập luyện cho các em đúng  cách, cho các em luyện đọc nhiều, lấy nhiều ví dụ  có liên quan, so sánh sự  khác biệt về  âm thanh, về  nghĩa của các tiếng đó ... thì chắc chắn việc rèn  đọc đúng các tiếng có chứa âm thanh hỏi, thanh ngã và các tiếng có chứa  nguyên âm đôi sẽ đạt kết quả cao.  2. Luyện ngắt nghỉ câu văn dài.  Giờ  Tập đọc phải hướng đến giáo dục HS yêu Tiếng Việt bằng cách  nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự  giàu đẹp của âm thanh, sự  phong phú của ngữ  điệu trong biểu đạt nội dung. Khi đọc các bài Tập đọc  theo hình thức là một văn bản, chỗ  ngắt giọng phải phù hợp với ranh giới  ngữ  đoạn, đọc sai chỗ  ngắt giọng phản ánh sự  hiểu sai nghĩa. Vì vậy ngắt   giọng đúng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng vừa là mục đích giúp   HS chiếm lĩnh nội dung bài đọc.  Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy HS thường mắc lỗi ngắt giọng ở những   câu dài, câu có cấu trúc phức tạp hoặc có trường hợp mắc lỗi ngay  ở cả câu   ngắn nhưng các em chưa nắm được quan hệ  ngữ  pháp giữa các từ. Lúc này   các em thường ngắt giọng để lấy hơi một cách tùy tiện.  VD: Một hôm, / trong lúc đi chơi, / cậu nhìn thấy một bà cụ  tay/ cầm một   thỏi sắt mải / miết mài vào một tảng / đá ven đuờng //  (Bài có công mài sắt có ngày nên kim)  Hoặc: Trường mới xây / trên nền ngôi trường lợp lá cũ.// 11
  12. (Bài ngôi trường mới) Ở  những trường hợp trên bị  xem là sai ngắt giọng vì đã tách danh từ  ra   khỏi định ngữ, tách cụm C ­ V làm bổ ngữ tạo nên ý nghĩa của câu hòan toàn  sai lệch so với ý nghĩa vốn có của nó. Từ những phân tích trên, giáo viên cần  chú ý đến những câu dài, những câu tuy không dài nhưng không xác lập chỗ  ngắt giọng cũng cần phải luư  ý. Giáo viên cần phải hướng dẫn HS những   chỗ  cần ngắt giọng trong bài, phải dự  tính được chỗ  HS có thể  ngắt giọng  sai để hướng dẫn các em hiểu đúng nghĩa, nội dung của câu văn, từ  đó giúp   các em biết ngắt giọng một cách có ý thức.  Trở lại với ví dụ trên, nếu ngắt nhịp sai "Trường mới xây / trên nền ngôi   trường lợp lá cũ // " thì nội dung của câu văn được hiểu sai là: Cái "ngôi  trường mới xây" chứ  không phải là "Ngôi trường mới" được "xây trên nền  ngôi trường lợp lá cũ" theo ý đồ của tác giả. Như vậy nếu ngắt giọng sai rõ  ràng dẫn đến việc người nghe hiểu sai về nội dung cần chuyển tải của câu  văn, hiểu sai ý đồ  của tác giả  và rõ ràng "sai một li đi một dặm". Như  vậy  trong trường hợp này, hướng dẫn cho HS phải ngắt giọng đúng là:  Trường mới/ xây trên nền ngôi trường lợp lá cũ //  Đêt luyện đọc câu văn dài, ngoài việc ngắt giọng phù hợp, giáo viên còn   hướng dẫn HS cách ngừng, nghỉ khi gặp cấu câu. Đối với dầu phẩy thì thời   gian ngắt nghỉ  ngắn bằng 1/2 khi có dấu chấm. Thời gian ngắt nghỉ   ở  dấu   phẩy ngắn hơn thời gian ngắt nghỉ ở dấu chấm phẩy. Đối với HS lớp 2 chưa  cần yêu cầu các em phải phân tích, phải hiểu saâ về  cấu trúc câu song đối  với giáo viên thì lại cần phải nắm được điều này thì mới có thể  giúp HS   hiểu đuợc cách ngắt nghỉ một cách dễ dàng. Chẳng hạn, trong câu văn dài có  sử  dụng dấu phẩy thì phải biết đuợc: Xét về  mặt cấu trúc, dấu phẩy có   nhiều chức năng khác nhau. Khi gặp dấu phẩy ngăn cách hai bộ  phận câu  đẳng lập thì thời gian ngừng, ngắt lâu nhất sau đó đến dấu phẩy ngăn cách   giữa các thành phần phụ, thời gian dừng ít nhất  ở  dấu phẩy ngăn cách bộ  phận song song hoặc có tính chất liệt kê sự vật cùng loại.  3. Luyện ngắt nhịp thơ.  12
  13. Qua khảo sát thực trạng cho thấy, khi đọc thơ HS mắc lỗi ngắt nhịp sai   là do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo cảm nhận về vần. Ví dụ với thơ  4 tiếng, các em sẽ  ngắt nhịp 2/2, với thơ  5 tiếng các em sẽ  ngắt nhịp 2/3  hoặc 3/2. với thơ 7 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/ 4/ 4 hoặc 2/2/3. Thơ lục bát  sẽ được ngắt nhịp chẵn 2/2/2 và 4/2 Trong thực tế giảng dạy, tôi đã phát hiện HS đã ngắt nhịp sai như sau:  Ngày hôm  / qua ở lại  Trong hạt / lúa mẹ  trồng      (Bài ngày hôm qua đâu rồi? ) Hoặc:  Như con / chim chích /   Nhảy trên / đuờng làng  (Bài Lượm)  Đọc như thế, vô tình HS đã tách đại từ chỉ ngôi hoặc giới từ với danh từ  đứng sau nó, GV cần hướng dẫn HS ngắt nhịp đúng là:  Như con chim chích /   Nhảy trên đuờng làng //  Hoặc trường hợp HS đọc theo thói quen tự do nên đã tách từ chỉ loại với  danh từ nó đi kèm "ba gian ngà"  và tách "tiếng võng" như sau:  Ba gian / nhà nhỏ /   Đầy tiếng / võng kêu /  (Tiếng võng kêu)  Hoặc:  Những ngôi / sao thức / ngoài kia /  Chẳng bằng / mẹ đã / thức vì / chúng con //  (Bài mẹ)  Chính vì vậy, khi dạy Tập đọc là những bài thơ, giáo viên cần dự  tính  chỗ ngắt giọng sai của HS để xác định chỗ cần luyện ngắt giọng cho các em.  Cụ thể các câu thơ vừa đưa ra làm ví dụ ở trên, rõ ràng GV cần phải hướng   dẫn rõ cách ngắt nhịp đúng thì mới thể  hiện đúng nội dung tác giả  muốn  diễn tả.  13
  14. Ví dụ  bài: Ngày hôm qua đâu rồi,  ở  đây tác giả  muốn giới thiệu cho   người đọc về ngày hôm qua vẫn còn ở lại với chúng ta nếu chúng ta làm việc  chăm chỉ  thì kết quả   ấy chính là khẳng định dấu vết còn lại của Ngày hôm  qua nên giáo viên cần hướng dẫn HS đọc vắt nhịp đúng như sau:  Ngày hôm qua ở lại  Trong hạt lúa mẹ trồn // Hoặc trong bài Mẹ cần hướng dẫn đọc đúng như sau:  Những ngôi sao / thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con //  Ngắt nhịp đúgn như vậy mới toát lên được nội dung cần diễn tả của nhà  thơ rằng: Người mẹ được so sáng với hình ảnh những ngôi sao thức trên bầu  trời đêm. Có nghĩa là công lao của người mẹ, tình cảm của người mẹ  dành  cho con mà đến những vì sao sáng cả  thâu đêm cũng không thể  sánh được.   Hoặc trường hợp HS đọc "Mẹ là/ ngọn gió/ của con/ suốt đời//" thì giáo viên  phải hướng dẫn các em khi đọc không được tách động từ ­ hệ từ là với danh   từ đi sau nó mà phải đọc "Mẹ / là ngọn gió của con suốt đời //" Ngoài việc hướng dẫn HS luyện phát âm, luyện ngắt giọng, trong phần   luyện đọc tiếng, giáo viên còn phải chú trọng đến việc hướng dân HS đọc  sao cho phù hợp với nhân vật và luyện đọc thuộc lòng đoạn văn, bài thơ. Đối  với việc đọc giọng phù hợp nhân vật, GV phải yêu cầu HS nắm được tính   cách của từng nhân vật, nắm được kiểu câu đó thuộc loại câu gì (xét theo   mục đích nói thì các em mới thể hiện được giọng đọc đúng). Chẳng hạn khi   gặp câu kể thì giọng đọc bình thường, câu hỏi thì đọc cao giọng ở cuối câu,   nhấn giọng vào từ  cần nghi vấn, câu cầu khiến thì nhấn giọng vào từ  cần  câu khiến, câu cảm thì giọng đọc phải thể hiện được cảm xúc, vui buồn tuỳ  thuộc vào văn cảnh. Đối với việc luyện đọc thuộc lòng thì yêu cầu HS phải hiểu được nội   dung bài học hoặc đoạn văn đó. Như  vậy, sau khi luyện đọc thành tiếng,   luyện đọc diễn cảm thì hướng dẫn học sinh đọc thuộc lòng. Đây là bước rất   quan trọng nhằm rèn cho HS đọc được bài thơ hoặc đoạn văn hay dựa vào trí  nhớ. Những điều lưu ý khi đọc thuộc lòng là: Nhiều học sinh không hiểu nội   14
  15. dung bài thơ nên đọc vẹt, đọc khôg đúng nhịp và điều này dẫn đến đọc sai thì  diễn đạt nội dung thơ sai. Vì vậy, giáo viên phải tổ  chức cho HS luyện đọc  dưới nhiều hình thức. Luyện đọc thầm cá nhân, luyện đọc thành tiếng trong  nhóm, luyện đọc thành tiếng theo kiểu nối tiếp câu, nối tiếp khổ thơ... hoặc   thì đọc giữa các nhóm, các dãy... thi đọc hoặc cá nhân trước lớp. Sau mỗi cá   nhân đọc, nhóm đọc, giáo viên tổ  chức cho HS trong lớp bình xét cá nhân  hoặc nhóm đọc tốt, đọc hay, đọc diễn cảm, để khuyến khích học sinh luyện   đọc có chất lượng và hơn thế  nữa tạo cho tiết học không khí sôi nổi, đỡ  nhàm chán. 4. Luyện đọc trơn. Như   ở  phần trên tôi đã nêu thực sự  thực trạng của HS lớp chủ  nhiệm   năm nay, số HS chưa đọc trơn tiếng từ, chưa đọc trôi chảy câu văn chiếm. 10.5% HS của lớp. Chính vì vậy dù tôi đã trăn trở  đưa ra các giải phát âm  chuẩn, rèn ngắt nghỉ  hơi đúng giữa các cụm từ  hoặc  ở  các câu văn dài song  với thực trạng cụ thể ở lớp mình tôi không thể bỏ qua một bước nan giải đối  với đối tượng HS quá yếu về  đọc này. Vì thế, ngay từ  đầu năm tôi đã phải  đặc biệt quan tâm tới việc rèn đọc trơn, đọc trôi chảy cho HS. Sau một số  buổi học đầu năm, khi nắm bắt rõ đối tượng HS đọc còn phải đánh vần từng  tiếng, tôi ghi chép cụ thể rèn đọc đặc biệt đối với các em vào đối tượng HS  vào sổ  theo dõi riêng. Từ  đó tôi bắt tay vào rèn đọc đặc biệt với các em.  Ở  tất cả  các tiết Tập đọc, tôi phải đều gọi số  HS này lên đọc, có trường hợp  gặp   tiếng   khó   các   em   không   thể   ghép   tiếng   này   để   lên   đọc   được.   VD:  “Nguệch ngoạc”, “Con hươu”, “mải miết”, “đêm khuya”. Song tôi vẫn phải  kiên trì quay trở về phần luyện đánh vần ở giai đoạn lớp 1 đánh vần mẫu để  các em đánh vần theo, rồi luyện đọc ghép 2 tiếng, 3 tiếng và rồi tăng dần lên  ghép từ, luyện đọc từ, đọc cả  cụm từ  theo hình thức đọc trơn chứ  không   được đọc rời rạc từng tiếng nữa. Một biện pháp tiếp theo nữa là tôi trực tiếp   giao nhiệm vụ cho các em học sinh đọc tốt kèm đối tượng HS này. Tôi phần   chỗ  ngồi, xen kẽ  cứ  1 HS học tốt xen 1 HS học kém để  các em giúp nhau   luyện đọc trong nhóm, để các em có điều kiện bổ sung sửa sai cho khác nhau.   Ngoài việc rèn đọc cho các em trong tiết Tập đọc, khi học các tiết học khác  15
  16. tôi không quyên gọi số  HS này lên đọc. Có thể  tôi yêu cầu các em chỉ  cần   đọc 1 lệnh của bài toán hoặc đọc 1 ý nhỏ của 1 bài ở môn Tự nhiên và xã hội   chẳng hạn và cứ  thế. Năm tháng trôi qua, tôi thấy những biện pháp giúp các   em rèn đọc của tôi đã không bị hoài phí. Kết quả thi giữa kỳ I, số HS đọc ê, a   ngắc ngứ, đánh vần từng tiếng, chỉ còn 1 em chiếm 3.5%. Thực ra hết nửa kỳ I mà tôi đã khắc phục để đưa được số HS thoát khỏi  cảnh đọc đánh vần, đọc ê, a, ngắc ngứ, tôi thấy phần nào đã đưa tôi lên với   sự  thành công khi thực hiện các biện pháp đã nêu trên. Có 3,5% trên tổng số  28 em HS của lớp, 1 HS còn lại này quả là khó khăn trong việc khắc phục lỗi   đọc nhát nghệ, nhát gừng. Nhưng tôi không thể  chịu bó tay, tôi lại tiếp tục  tìm thêm giải pháp, ngoài việc rèn đọc  ở  lớp, tôi giao cho các em này, đối  tượng nào đọc đã có tiến bộ  hơn thì yêu cầu về  nhà luyện đọc cả  bài Tập  đọc đã học và giao thêm các bài chưa đọc. Còn đối tượng đang đọc ngắc ngứ  thì tôi chỉ  yêu cầu về  luyện đọc 1,2 câu hoặc nhiều hơn thế  nữa là 1 đoạn  hay một khổ thơ ngắn. Kết quả đã có những biểu hiện tiến bộ dần. Thế rồi   qua đợt Kiểm tra định kỳ  cưối kỳ 1, hầu như số học sinh lớp tôi không còn   em nào mắc phải lỗi đánh vần trong phân môn tập đọc. Hầu như  các em đã  đọc trơn được cả từ hoặc các cụm từ dài và cho đến thời điểm này tôi đã thở  phào nhẹ  nhõm với những gì mình đã làm được những gì cho HS của lớp   mình. 100% số  HS của lớp đã biết đọc trơn mặc dù trong số  HS mới được  rèn đọc, các em chưa thể đọc hay, đọc diễn cảm được. 3. Kiểm tra đánh giá chất lượng đọc thành tiếng sau khi thực hiện   các giải pháp Sau khi thực hiện một số giải pháp để  rèn đọc thành tiếng cho HS của  lớp, sau 3 đợt Kiểm tra định kỳ (giữa kỳ I, cuối kỳ I, giữa kỳ II) theo đề của   PGDĐT, tôi thấy chất lượng đọc thành tiếng của HS rất khả  quan. Song vì   bản thân tôi đang thực hiện SKKN này vào thực tế  giảng dạy nên tôi đã   mạnh dạn ra thêm một bài kiểm tra đọc tiếng riêng cho đối tượng HS lớp tôi.  Vì đề  của PGD yêu cầu HS đọc một trong các bài tập đọc em đã học trong   chương trình nên tôi vẫn còn băn khoăn với một vài em hay có thói quen đọc   16
  17. vẹt (tức là đọc theo, đọc nhưng không biết mình đang đọc gì?). Vì thế tôi đã  mạnh dạn tìm và sưu tầm một số  văn bản là văn xuôi, không nằm trong   chương trình SGK Tiếng Việt 2 (hình thức thể  loại giống nhau, số  lượng   câu, chữ  tương  ứng) in thành 28 bản dưới hình thức là phiếu thăm để  kiểm  tra một cách khách quan theo mức độ  yêu cầu của chuẩn kiến thức và kỹ  năng đọc với HS lớp 2. Mục đích của tôi là kiểm tra xem số lượng HS trong  lớp, từng đối tượng HS, các em đọc được đạt ở mức độ nào? * Cách tiến hành kiểm tra như sau: Tổ chức cho HS thi vào một buổi học trái buổi + Nêu nội dung, yêu cầu, mục tiêu của buổi kiểm tra + HS lần lượt lên bốc thăm phiếu đã ghi sẵn bài nội dung bài tập đọc rồi  về chỗ chuẩn bị phần nhiệm vụ của mình như đã giao trong phiếu + Gọi lần lượt HS lên đọc bài tập đọc theo yêu cầu (tránh trường hợp 2  HS liên tiếp đọc một đoạn giống nhau) * Cách đánh giá tôi in sẵn theo mẫu sau: (Thang điểm 10 như hướng dẫn   của chuyên môn quy định đọc thành tiếng cho 6 điểm) + Đọc đúng tiếng, đúng từ (đọc trơn trôi chảy, lưu loát, phát âm đúng): 3  điểm (Đọc sai dưới 3 tiếng: 2,5 điểm, đọc sai 2 hoặc 3, 4 tiếng được 2 điểm, đọc   sai 5 hoặc 6 tiếng: 1,5 điểm, đọc sai 7 hoặc 8 tiếng: 1điểm, đọc sai 9 hoặc 10   tiếng 0,5 điểm, đọc sai trên 10 tiếng: 0 điểm) +  Ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu hoặc cụm từ: 2 điẻm. (Mắc lỗi về  ngắt nghỉ  hơi  ở  1 hoặc 2, 3 dấu câu: 1 điểm, không ngắt nghỉ  hơi đúng  ở  3 đến 4 dấu câu: 0,5 điểm, không ngắt nghỉ  hơi ở  5 dấu câu trở  lên: 0 điểm.) + Tốc độ, cường độ đạt yêu cầu (khoảng 50 tiếng/phút): 1 điểm  (Đọc quá 1 đến 2 phút: 0,5 điểm, đọc quá 2 phút phải đánh vần ê, a ngắc  ngứ: 0 điểm) Dưới đây là một mẫu văn bản mà tôi đã in sẵn để làm phiếu KT đánh giá   chất lượng đọc thành tiếng của HS 17
  18. PHẦN THỨ 3 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ 1. Kết quả thu được Bằng các biện pháp thiết thực trong quá trình dạy phân môn tập đọc vừa  nêu trên, HS lớp tôi trực tiếp giảng dạy học ngày càng tiến bộ về môn Tiếng  Việt nói riêng, các môn học khác nói chung so với mặt bằng chung của khối   2. Đối chứng với đầu năm, kết quả  phần “đọc thành tiếng” thu được như  sau: Xếp loại Giỏi Khá Trung bình  Yếu  Thời gian Khảo sát đầu năm 3 5 17 3 Cuối kì I  5 8 14 1 Giữa kì 2 6 10  12 1 Với kết quả trên đây cho thấy việc rèn đọc tiếng cho HS là một việc làm  rất quan trọng để  góp phần nâng cao chất lượng các môn khác, người giao   viên trong quá trình giảng dạy phải luôn tự  tìm tòi, phát huy sự  sáng tạo,   không cứng nhắc dập khuôn với những gì có sẵn mà phải biết vận dụng linh   hoạt những kiến thức có trong sách vào thực tế giảng dạy đối tượng HS của  mình. Không những tôi chỉ gặt hái được kết quả cao ở phần đọc tiếng, mà từ  kết quả HS đọc, được tiếng tốt dần đến kết quả các môn học khác của lớp  tôi cũng tương đối cao hơn so với lớp còn lại trong khối. 2. Kết luận Để nâng cao chất lượng đọc cho HS lớp 2, trước tiên phải chú trọng đến   việc rèn đọc tiếng. Để việc rèn đọc tiếng mang lại hiệu quả thiết thực, giáo  viên cần lưu ý một số vấn đề sau: ­ Khảo sát để  nắm vững đặc điểm, thực trạng đọc đúng, đọc trơn, lỗi   phát âm của HS địa phương hay cụ  thể  là HS lớp mình chủ  nhiệm tìm ra   điểm yếu của HS khi học phân môn Tập đọc. Từ đó có biện pháp tìm ra giải   pháp khắc phục lỗi sai sao cho phù hợp cho từng đối tượng HS. 18
  19. ­ Luyện đọc phải lấy HS làm trung tâm. Luyện đọc phải được cụ  thể  hoá ở  từng bài, từng cá nhân mắc lỗi chứ không thực hiện chung chung như  và sách hướng dẫn của HS nêu. Luyện cho HS từ  dễ đến khó, phải kiên trì  thực hiện của 1 quá trình. ­ Ngoài việc khắc phục lỗi đọc đánh vần ê ­ a ngắc ngứ, lỗi phát âm  không chuẩn do phương ngữ, giáo viên còn phải chú trọng cho HS luyện ngắt  nghỉ hơi đúng giữa các cụm từ, các câu văn dài, ngay cả  ở  các câu văn ngắn  nhưng khó xác định chỗ  ngắt giọng. Đối với bài Tập đọc là thơ, phải chú ý  luyện ngắt nhịp thơ, nhấn giọng từ  cần thiết. Song không phải cứ  đến giờ  Tập đọc là giáo viên yêu cầu HS phải đọc như  thế này, đọc như  thế  kia mà  phải để HS tự tìm ra cách đọc, cách thể hiện giọng sao cho phù hợp với nội   dung từng bài, từng nhân vật. Bên cạnh đó, giáo vieê phải luyện cho HS biết   cách ngắt giọng biểu cảm, biết ngừng hoặc nhấn giọng ở các chìa khóa trong  câu văn, câu thơ đó nhằm nâng cao sự biểu đạt văn chương của bài Tập đọc  rõ ràng khâu luyện đọc thành tiếng không thiếu phần quan trọng. Nếu HS  không đọc được hoặc đọc không đúng thì chắc chắn sẽ dẫn đến chẳng hiểu   gì nội dung văn bản, nội dung bài thơ  mà tác giả  muốn gửi gắm tới người   đọc. Tin rằng, nếu trong giờ  Tập đọc chúng ta biết linh hoạt tổ  chức cách  thức giúp HS rèn đọc thì chắc chắn giờ Tập đọc sẽ mang lại hiệu quả cao.  3. Đề xuất, kiến nghị:  Để nâng cao chất lượng đọc trong phân môn Tập đọc, tôi có một số  đề  xuất như sau:  a) Đội ngũ giáo viên ­ Mỗi giáo viên khi nhận lớp phải nắm rõ đối tuợng HS của lớp nình,  phải có kế  hoach phân loại đối tượng HS ngay từ  đầu năm học, ghi rõ lực   học, chuyển biến của các em từng tuần, từng tháng, từng kì để có kế hoạch  bồi dưỡng, giúp đỡ các em.  ­ Mỗi giáo viên phải nắm rõ đặc điểm phương ngữ nơi mình dạy, từ đó   có kế  hoạch luyện đọc đúng, đọc trơn, ngắt nghỉ  hơi đúng sao cho phù hợp   19
  20. với từng đối tuợng HS, từng bài cụ thể, không dừng lại ở mức độ luyện đọc  chung chung như hướng dẫn trong SGK.  b) Đối với cán bộ chuyên môn:   Khi đánh giá giờ dạy Tập đọc của giáo viên cần phải biết linh hoạt, căn  cứ    vào hiệu quả  tiết dạy đó HS được rèn luyện như  thế  nào, đối với đối  tượng đọc yếu thì giáo viên đã xử lý ra sao, đối với đối tượng đọc tốt hơn thì  giáo viên đã xử  lý ra sao? Rõ ràng trong một tiết dạy, không phải giáo viên   chỉ  dùng đơn thuần  một hình thức tổ  chức dạy học mà phải tùy theo từng   đối tượng để xử lý linh hoạt các hoạt động học tập, cốt sao sau khoảng thời   gian cho phép rèn đọc tiếng, học sinh được luyện đọc nhiều, số  HS đọc trôi  chảy, đọc dúng, đọc diễn cảm tốt thì tiết học đó đã đạt hiệu quả cao vì nếu   HS đọc tốt chắc chắn các em sẽ hiểu nội dung bào tốt hơn. Cán bộ phụ trách   chuyên môn không nên cứng nhắc đánh giá tiết dạy Tâp đọc theo kiểu là phải  đi đúng trình tự  các bước, phải ghi chép bảng theo đúng yêu cầu. Tóm lại  điều cốt lõi sau khi học xong tiết Tập đọc học sinh phải đọc được, hiểu  được nội dung văn bản, đó mới là vấn đề  thiết yếu của mục tiêu phân môn  Tập đọc lớp 2.  c) Đối tượng cấp trên.  ­ Đối với các cấp phụ  trách chuyên môn cần tăng cường tổ  chức hội   thỏa chuyên đề ở phân môn này hoặc tổ chức thi đọc cho HS vì trong thực tế  học sinh của vùng chúng ta sinh sống hiện tượng phát ngôn theo phương ngữ  vẫn chiếm phần đa.  ­ Đối với các cấp có thẩm quyền, cần cố  gắng tạo điều kiện cung cấp  tài liệu, tranh ảnh phục vụ cho phân môn Tập đọc nói riêng, môm Tiếng Việt  nói chung để kết quả dạy học môn Tiếng Việt đạt cao hơn đáp ứng mục tiêu  dạy học Tiếng Việt Tiểu học trong thời đại mới  d) Đối với phụ huynh HS.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2