Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác một vài nét về nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
lượt xem 8
download
Văn học trung đại có đặc thù riêng như vậy nên khi tìm hiểu về nền văn học này là chúng ta giúp học sinh tìm về thế giới của người xưa, giúp các em bồi dưỡng nhân cách, biết yêu quý các giá trị phi vật thể, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu gia đình và tự hào dân tộc, có lý tưởng XHCN, lòng khoan dung, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, trí tiến thủ lập nghiệp không cam chịu nghèo nàn. Dạy văn học trung đại, giúp học sinh nắm được các giá trị nhân văn và nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác một vài nét về nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lời mở đầu: Văn học là bộ phận tinh tế của văn hóa, thể hiện khát vọng vươn tới các giá trị “chân, thiện, mỹ” của nhân dân. Đã có nhiều những tác phẩm có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ sâu sắc, có ý thức giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, tình cảm, nhân cách và bản lĩnh cho các thế hệ công dân của đất nước. Trong hệ thống giáo dục phổ thông, môn văn có một vị trí quan trọng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thì ph ương pháp luận của khoa học nhân bản có những đổi mới. Việc đổi mới sách giáo khoa ngữ văn THCS nhằm giúp học sinh hình thành, phát triển năng lực chủ yếu: năng lực hành động, thích ứng, giao tiếp , năng lực tự khẳng định. Đồng thời phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Ở bộ môn ngữ văn thời lượng giành cho việc giảng dạy tác phẩm văn chương là tương đối lớn. Trong số thời lượng ấy, số tiết dạy văn học Trung đại cũng chiếm một phần không nhỏ, được tìm hiểu ở toàn cấp học. Do đó việc nắm được mối quan hệ giữa giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học trung đại là vô cùng cần thiết. Văn học trung đại được tính từ thế kỉ X cho đến hết thế kỉ XIX, phát triển dưới các triều đại phong kiến. Văn học Việt Nam thời kì này đã kết tinh nghệ thuật ở phạm vi văn vần hơn văn xuôi. Bút pháp thiên vào lối chấm phá, điểm nhãn, gợi nhiều hơn tả trong nghệ thuật. Các tác giả văn học trung đại, đặc biệt là các tác giả tài năng, vừa tuân thủ vừa phá vỡ tính qui phạm, phát huy cá tính sáng tạo trong sáng tác. Nổi bật trên nền văn học thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Văn học trung đại có đặc thù riêng như vậy nên khi tìm hiểu về nền văn học này là chúng ta giúp học sinh tìm về thế giới của ng ười xưa, giúp các em bồi dưỡng nhân cách, biết yêu quý các giá trị phi vật thể, yêu quê hư ơng, yêu đất nước, yêu gia đình và tự hào dân tộc, có lý tưởng XHCN, lòng khoan dung, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, trí tiến thủ lập nghiệp không cam chịu nghèo nàn. Dạy văn học trung đại, giúp học sinh nắm được các giá trị nhân văn và nghệ thuật của tác phẩm văn học. Do đó, chuyên đề này tôi muốn đề cập đến một mảng nhỏ khi tìm hiểu văn học trung đại đó là: khai thác một vài nét về nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. II. Thực trạng của vấn đề ngiên cứu 1. Thực trạng: Hiện nay, nền văn hóa của nước ta cũng như các nước trên thế giới rất phát triển. Mạng lưới truyền thông cập nhật. Học sinh được tiếp thu, 1
- tiếp xúc với nhiều phương tiện nghe, nhìn: đài, báo, ti vi, internet, truyện tranh, phim hoạt hình, phim trực tuyến online… Trong quá trình dạy học sinh đại trà và bồi dưỡng học sinh giỏi tôi nhận thấy: số đông học sinh không mấy hứng thú khi ngồi nghe một giờ văn. Đặc biệt là văn học trung đại. Không chỉ bởi rào cản ngôn ngữ, khoảng cách về văn hóa giữa quá khứ và hiện tại mà còn khó khăn trong việc tìm kiếm tư liệu tham khảo, đặc biệt là sách tuyển chọn những tác phẩm nguyên gốc. Trong số các tác phẩm văn học trung đại chưa có một tác phẩm nào được học với số tiết nhiều nh ư Truyện Kiều. Chương trình ngữ văn THCS, "Truyện Kiều" được đưa vào giảng dạy với thời lượng 7 tiết, trong đó có một tiết dành cho việc tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm. Điều đó khẳng định giá trị của Truyện Kiều trong hệ thống các tác phẩm văn chương cũng như trong chương trình dạy và học ngữ văn. Đứng trước tình hình đó, nhiệm vụ của giáo viên là phải giúp học sinh có được hứng thú trong giờ học văn, giúp các em đồng cảm với nhân vật, với tác giả, từ đó cảm thông và yêu quý họ. Xây dựng hứng thú, thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học văn; có ý thức và biết cách ứng xử trong gia đình, trong trường học và ngoài xã hội một cách có văn hóa; khinh ghét những cái xấu xa, độc ác, giả dối được phản ánh trong các tác phẩm văn học. Đồng thời giúp các em giữ gìn được nền văn hóa dân tộc mà ngư ời nghệ sĩ đã gửi gắm lại qua nhiều thế hệ. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh nắm được hình thức nghệ thuật trong văn học trung đại, đặc biệt là các hình thức nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. 2. Kết quả của thực trạng: Đối với học sinh thì việc phân tích, tìm hiểu “Truyện Kiều” là một vấn đề tương đối khó, đòi hỏi phải có một kỹ năng học tập phù hợp, cụ thể với thực tiễn giảng dạy của đặc trưng bộ môn. Qua điều tra thực nghiệm về thái độ học tập của học sinh đối với các doạn trích "Truyện Kiều", tôi nhận thấy thái độ của học sinh như sau: Lớp 9A 9B Thích học 20 23 Không thích học 18 21 Có rất nhiều lí do khiến học sinh không hứng thú lắm với môn học, đặc biệt là văn học trung đại như: ngôn ngữ, nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ, cách tư duy của người xưa, quan niệm về cuộc sống… Học sinh cảm thấy xa lạ. khó hiểu nên lơ là học tập, và nếu có học thì thường là các em học đối phó cho qua. Vì những lý do trên mà tôi quyết định chọn chuyên đề này để tìm hiểu nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”. 2
- Đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ bé về kinh nghiệm giảng dạy “Truyện Kiều”, đồng thời giúp học sinh tìm hiểu, phân tích “Truyện Kiều” với cái nhìn toàn diện hơn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1.Tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận bàn bạc theo tổ, nhóm về nghệ thuật miêu tả trong một số đoạn trích truyện Kiều của Nguyễn Du dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Chỉ ra được yếu tố miêu tả tồn tại trong những hình ảnh, câu thơ nào, phân tích giá trị biểu đạt của những hình ảnh miêu tả đó. Từ đó tìm ra đặc trưng tiêu biểu trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du khi miêu tả thiên nhiên và miêu tả con người. 2. Học sinh biết phân tích làm nổi bật nét đặc sắc nghệ thuật miêu tả của nhà thơ qua việc phân tích những câu thơ, đoạn thơ ngắn, chỉ ra nét đặc sắc trong tài năng nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du bằng việc trình bày hiểu biết bằng những đoạn văn, bài văn nghị luận ngắn sử dụng các thao tác phân tích, bình luận, so sánh, đối chiếu. 3. So sánh với một số đoạn trích tả người, tả cảnh trong văn học hiện đại để thấy nét khác biệt và nhận thức sâu sắc hơn về ngòi bút miêu tả tài năng của Nguyễn Du. 4. Ra đề, chia nhóm yêu cầu học sinh viết bài văn phân tích các đoạn trích trong sách giáo khoa để từ đó hiểu đúng, ghi nhớ và biết cách phân tích chính xác nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du qua những đoạn trích cụ thể. II.BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Từ thực tế giảng dạy chuyên đề bồi dưỡng về truyện Kiều cho học sinh, tôi đã triển khai hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du qua các đoạn trích truyện Kiều trong sách giáo khoa ở các khía cạnh cụ thể: 3
- Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên: +Tả cảnh trực tiếp. +Tả cảnh ngụ tình. Nghệ thuật tả người: +Nhân vật chính diện ( bằng bút pháp ước lệ tượng trưng). +Nhân vật phản diện ( bút pháp hiện thực). + Miêu tả nhân vật qua cử chỉ, hành động + Miêu tả nội tâm nhân vật. Ở đề tài này tôi đã phát triển từ chuyên đề trên, bổ sung, mở rộng và khai thác rộng hơn về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du qua các đoạn trích truyện Kiều. Tôi xin trình bày cụ thể như sau. I. Giới thiệu khái quát về tác phẩm Truyện Kiều Biện pháp cụ thể: Trước hết, tôi cho họcn sinh tìm hiểu "Truyện Kiều" trong tiết học tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm để học sinh nắm được vị trí, nguồn gốc và giá trị tác phẩm. ? "Truyện Kiều" có vị trí như thế nào trong đời sống tinh thần của dân tộc ta? Có những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian nào liên quan đến "Truyện Kiều"? ? "Truyện Kiều" có nguồn gốc từ đâu? ? Giá trị của "Truyện Kiều" được đánh giá dựa trên những phương diện nào? Từ đó học sinh nắm được những kiến thức cơ bản như sau: 1. Vị trí. Trong đời sống nhân dân Việt Nam, “Truyện Kiều” chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nhiều nhân vật trong “Truyện Kiều” đã trở thành những mẫu người trong xã hội cũ, mang những tính cách tiêu biểu như: Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải... và đều đi vào thành ngữ Việt Nam. Khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ trong tác phẩm khiến cho quần chúng tìm đến “Truyện Kiều”, như tìm đến một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng lẩy Kiều, sân khấu dân gian có trò Kiều, tuồng Kiều, cải lương Kiều. Hội họa có 4
- nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung quanh cũng rất phong phú. Nhiều câu, nhiều ngữ trong “Truyện Kiều” đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay, “Truyện Kiều” đã là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút chiến. 2. Nguồn gốc Truyện Kiều. ả Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được bản gốc “Truyện Kiều” viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Du. Tuy nhiên, họ đã tìm ra được rất nhiều bản dịch ở các thời điểm khác nhau của “Truyện Kiều”. Tất cả các nhà nghiên cứu đều cho rằng Nguyễn Du viết “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân một tác giả Trung Quốc sống ở thế kỷ XV. Từ một tác phẩm văn xuôi chữ Hán, viết theo kiểu tiểu thuyết chương hồi, từ một câu chuyện tình bình thường, bằng tài năng nghệ thuật, qua lăng kính của người nghệ sĩ tài hoa, Nguyễn Du đã biến tác phẩm ấy trở thành một “Thiên cổ tình thư”. Ban đầu ông đặt tên cho nó là “Đoạn trường tân thanh”, sau này người ta quen gọi là “Truyện Kiều”. Có nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứu về Truyện Kiều cho biết số lượng câu trong Truyện Kiều có bản là 3260 câu, có bản là 3259 câu. Trong chuyên đề này chúng ta theo SGK ngữ văn 9: Truyện Kiều gồm 3254 câu. 3. Giá trị của Truyện Kiều . văn h Truyện Kiều đạt đến đỉnh cao cả về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Về giá trị nội dung: “Truyện Kiều” có hai giá trị lớn: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. “Truyện Kiều” là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng nói thương cảm trước số phận bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do công lý... Về giá trị nghệ thuật “Truyện Kiều” rất phong phú, xong đặc sắc nhất là ở hai phương diện chủ yếu: 5
- Nghệ thuật ngôn ngữ: ngôn ngữ “Truyện Kiều” đạt đến mức trong sáng mẫu mực. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn hai tác phẩm ngôn ngữ: ngôn ngữ bình dân ngôn ngữ ca dao, tục ngữ lời ăn tiếng nói của người dân; ngôn ngữ bác học mà chủ yếu là những lời Hán Việt mang đến cho “Truyện Kiều” thứ ngôn ngữ vừa hàm xúc, vừa trang nhã, vừa giản dị mà vẫn đẹp đẽ, giàu hình ảnh nhạc điệu. Vì thế ngư ời ta gọi “Truyện Kiều” là “ tòa lâu đài ngôn ngữ thơ ca” được kết lên từ những viên ngọc lấp lánh sáng trong. Nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật: ở lĩnh vực này Nguyễn Du thành công ở tất cả các bút pháp (tả cảnh, tả tình, tả người). Ông được mệnh danh là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc. Hướng đẫn HS phát hiện những câu thơ sử dụng nghệ thật miêu tả trong các đoạn trích Truyện Kiều. Chỉ ra và phân tích được giá trị của yếu tố nghệ thuật miêu tả trong những câu thơ vừa tìm được. Phân tích các đoạn thơ có sử dụng nghệ thật miêu tả bằng những bài viết ngắn. Phân tích đoạn trích trong SGK để làm sáng tỏ giá trị nội dung và tài năng nghệ thuật miêu tả của thiên tài Nguyễn Du qua các đoạn trích Truyện Kiều. II . Vài nét về nghệ thuật miêu tả trong "Truyện Kiều" Nguyễn Du. 1. Về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên . *Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh phát hiện những câu thơ sử dụng nghệ thuật miêu tả trong các đoạn trích "Truyện Kiều" Tôi đã cho học sinh tìm hiểu nhuư thế nào là tả cảnh thiên nhiên? Thế nào là tả cảnh ngụ tình? + Tả cảnh thiên nhiên trực tiếp: Tái hiện vẻ đạp của khung cảnh thiên nhiên, cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh và qua đó có thể nhận thấy tình cảm yêu mến đối với vẻ đẹp của quê hương đất nước. + Tả cảnh ngụ tình: Thông qua việc miêu tả cảnh thiên nhiên nhằm bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. 6
- a. Miêu tả thiên nhiên trực tiếp. Nghệ thuật tả thiên nhiên của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi giáo sư Nghiêm Toàn đã có nhận định như sau: “ Trong Đoạn trường tân thanh luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam Văn học sử trích yếu). Điều đó đã được thể hiện cụ thể rất rõ qua mỗi đoạn trích “Truyện Kiều” trong chương trình sách giáo khoa ngữ văn 9 THCS. Hãy xem một cảnh xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút miêu tả thiên nhiên trực tiếp : “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa b. Tả cảnh ngụ tình Với bút pháp này, đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ông được người đời sau khen ngợi như “máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghìn đời”. Nhiều khi, chỉ bằng một vài nét chấm phá, nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du đã đạt đến mức uyển chuyển, tinh tế. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: “Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dầu dầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. *Biện pháp 2: Chỉ ra và phân tích giá trị của các yếu tố nghệ thuật miêu tả trong những câu thơ vừa tìm được. a. Với nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên trực tiếp 7
- ? Em hãy xác định nghệ thuật miêu tả qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân"? Gợi ý: + Nghệ thuật gợi tả, ẩn dụ: cánh én đưa thoi, thiều quang + Nghệ thuật chấm phá, điểm nhãn, đảo ngữ: trắng điểm. Từ việc xác định được nét đặc sắc nghệ thuật trên, em hãy phân tích đoạn thơ để làm nổi bật tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du khi miêu tả cảnh thiên nhiên? Phân tích như sau: Bốn câu thơ mở đầu là bức tranh “đượm vẻ thiên nhiên” diễm lệ và tươi sáng. Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ dân tộc (trong đó có những câu thơ có thể gọi là “thuần Nôm”), đã lựa chọn những đường nét, những hình ảnh, những màu sắc, đưa vào một tổng thể cấu trúc hội họa hài hòa, mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua bay lại nh ư thoi đưa. Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vút qua, vút lại chao liệng như muốn nói thời gian đang trôi nhanh, ngày xuân, ngày vui trôi rất nhanh. Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba, là cuối xuân, gợi cái đậm của sức xuân. ánh sáng của mùa xuân rực rỡ, ấm áp làm cho bức tranh mùa xuân thêm trong trẻo, tươi sáng. Hai câu thơ dưới Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Hai từ “trắng điểm” là “nhãn tự”, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp trong sáng tinh khôi của thiên nhiên cỏ hoa. Bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: thảm cỏ xanh m ướt bao la, trải rộng tới chân trời là tấm phông nền thiên thanh cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Thúy Kiều đi dự lễ Thanh minh. Ở đây, cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. 8
- Thay vì “Cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Có thể Nguyễn Du phải đảo chữ vì tôn trọng luật bằng, trắc trong thơ lục bát, nhưng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm đ ược. Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã, hài hòa đến tuyệt diệu. Chỉ bằng hai mươi tư tiếng, Nguyễn Du đã phác họa lên trước mắt người đọc bức tranh mùa xuân có cả chiều cao, chiều rộng, mới mẻ, giàu sức sống. Đây là bức tranh xuân hoa lệ, là những vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời. b. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ? Em hãy xác định nghệ thuật miêu tả qua tám câu thơ cuối đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"? Gợi ý: + Nghệ thuật ẩn dụ liên tưởng: mỗi cảnh là một tâm trạng con người + Ngôn ngữ độc thoại điệp ngữ: buồn trông. + Sử dụng từ láy có giá trị gợi cảm cao. Từ việc xác định được nét đặc sắc nghệ thuật trên, em hãy phân tích đoạn thơ để làm nổi bật tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du khi miêu tả tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích? Phân tích như sau: Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là tám câu thơ tuyệt bút. Nó không chỉ là bức tranh ngoại cảnh mà còn là một bức tranh tâm cảnh. Mỗi cảnh vật là một tâm trạng khác nhau của Kiều: Nhìn ra phía xa xa nơi “cửa bể chiều hôm”, nàng cảm thấy nhớ quê hương, nhớ nhà da diết. Không biết đến bao giờ nàng mới được trở về quê hương yêu dấu, nơi có bao người thân của nàng. Nguyễn Du đã vận dụng thời gian nghệ thuật trong văn thơ cổ, “chiều hôm” đó là buổi chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống, thời gian này thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ, thê lương, là khoảng thời gian gợi buồn. Trong bức tranh thứ nhất này, có thuyền, có người nhưng thuyền chỉ ở “thấp thoáng” nơi “xa 9
- xa”, không ở gần để xẻ chia tâm sự với nàng.nNhìn lên “ngọn nước mới sa” cánh hoa trôi nổi trên dòng nước, không biết sẽ về đâu. Thúy Kiều liên tưởng đến số phận của nàng sau này không biết sẽ thế nào. Thành ngữ “bèo dạt mây trôi” được Nguyễn Du vận dụng rất khéo léo, sáng tạo làm tăng ấn tượng về sự long đong, vô định của sự vật được miêu tả. Ở đây là của Thúy Kiều hay là số phận chung của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. ớc mới Nhìn xuống mặt đất, nơi “nội cỏ dầu dầu”. Nội cỏ chứa đầy tâm trạng. Ngọn cỏ “dầu dầu” trải dài đến tận chân trời, tạo cảm giác rợn ngợp, tăng thêm sự lạnh lẽo, nhỏ bé, hiu quạnh và cô đơn của Thúy Kiều nơi đất khách quê người. Cảnh chứa đựng một nỗi buồn vô vọng. Nhìn xung quanh: một cơn gió cuốn trên mặt duềnh với tiếng sóng “ầm ầm”, “kêu” quanh ghế ngồi. Nghệ thuật nhân hóa sóng “kêu” chứ không phải sóng vỗ bờ, xô bờ, ... Đó là tiếng gào thét điên khùng của sóng gió biển khơi đang thình lình nổi bão tố phong ba, nhưng cũng chính là tiếng thét gào nổi loạn và tuyệt vọng trong mặc cảm cô đơn, nàng Kiều trong mắt bão, trước phong ba. Phần nào, Kiều đã linh cảm thấy số phận long đong, phiêu dạt “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” mà nàng sắp phải trải qua. Điệp ngữ liên hoàn “buồn trông” được điệp lại bốn lần ở đầu các câu lục, nhằm nhấn mạnh nỗi buồn nhiều vẻ của Thúy Kiều. Bốn cảnh vật là bốn nỗi buồn khác nhau của nàng. Nỗi buồn bủa vây tứ phía không cho nàng lối thoát: nhìn ra xa nơi cửa bể; nhìn lên trên nơi ngọn n ước mới sa; nhìn xuống dưới nơi nội cỏ dầu dầu; nhìn xung quanh với ầm ầm tiếng sóng kêu. Nguyễn Du đã theo sát từng bước chân của Kiều. Ông đã nhìn cảnh vật bằng chính cái nhìn của Kiều. Phủ lên cảnh vật bằng chính tâm trạng của Kiều. Chính vì vậy, ông đã được mệnh danh là nghệ sĩ bậc thầy về miêu tả thiên nhiên và tâm lí nhân vật. Ông đã dành cho nhân vật của mình sự cảm thông sâu sắc. Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật phong phú, sinh động. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì vẽ một bức tranh thủy mặc, nhiều khi chỉ một ánh hoàng hôn, một ánh trăng, một thảm cỏ, một bông hoa, một dòng nước chảy...cũng thành nhạc, thành thơ. Sự hòa phối màu sắc và cách 10
- sắp xếp cảnh vật gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc hòa chung vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã thổi vào thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh thiên nhiên của ông mà không bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu. Chỉ riêng lĩnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ để Truyện Kiều xứng đáng là một tác phẩm văn chương hay nhất trong kho tàng văn học nước nhà. Học giả Đào Duy Anh nhận xét về “Truyện Kiều”: “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng Truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lí cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kì diệu để làm rung động hồn ta”. * Bi ện pháp 3 : Tìm và so sánh v ới những đoạn văn, đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên trong văn họt, từ đó nắm được đặc điểm nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du. ? Em hãy tìm và so sánh nét đặc sắc nghệ thuật của thơ tả cảnh trong "Truyện Kiều" với các đoạn thơ tả cảnh hiện đại mà em biết? Tả cảnh thiên nhiên: Ví dụ: "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời" ( Hàn Mặc Tử) "Mùa xuân là cả một mùa xanh Giời ở trên, cao lá ở cành Lúa ở đồng xa và lúa ở Đồng nàng. Và lúa ở đồng anh". ( Nguyễn Bính) Ta cảm nhận đượcmùa xuân trong thơ ca hiện đại tràn ngập sắc xanh trẻ trung, khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Với nghệ thuật điệp từ ngữ, liên tưởng, ta tưởng như lớp lớp sóng cỏ dợn trong làn gió xuân mơn mởn, ngút ngát đến tận chân trời. Không những thế, thơ hiện đậi bao giờ cũng thấp thoáng hình ảnh con người, làm cho bức tranh xuân càng thêm tươi mới, giàu sức sống. 11
- Cũng là miêu tả cảnh thiên nhiên, nhưng Nguyễn Du đã đưa ta về với vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, trong trẻo, tươi sáng của mùa xuânđất nước cách đây đã hai thế kỉ với nghệ thuật gợi tả giàu chất tạo hình, và nghệ thuật điểm nhãn, chấm phá đặc sắc. Tả cảnh ngụ tình: Ví dụ: "Mùa xuân của tôi mùa xuân của Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội là mùa xuân có mưa riêu riêu, gói lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có câu hát hê tình của cô thôn nữ đẹp như thơ mộng..." ( Mùa xuân của tôi Vũ Bằng) Tả mùa xuân, nhưng là mùa xuân trong nỗi nhớ của một người xa quê hương, nhớ về ngững ngày xuân xứ Bắc, với những nét đặc trưng rất riêng, qua đó thể hiện nỗi niềm rất nhớ, rất yêu của một tình yêu quê hương dằm thắm tha thiết. Ở mỗi thời đại, cách miêu tả có sự khác nhau, do sự chi phối của nhiều yếu tố trong đó có quan niệm thẩm mĩ thời đại, nhưng dù thế nào thì ta cũng thấy thấp thoáng đâu đó trong mỗi câu thơ, mỗi dòng văn, mỗi trang viết là tấm lòng của tác giả gửi gắm. Với Nguyễn Du, mỗi cảnh là một tâm trạng con người. Tâm trạng đó, tấm lòng đó không chỉ của nhân vật mà còn là tấm lòng nhân đạo của nhà thơ. II.Về nghệ thuật miêu tả người Nhìn chung, Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật của mình theo ph ương pháp truyền thống: chia nhân vật thành hai tuyến chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện được miêu tả theo lối lý tưởng hóa, bằng ph ương pháp ước lệ tượng trưng. Còn nhân vật phản diện lại được khắc họa theo lối tả thực. Mỗi người đều đạt đến sự điển hình hóa cao độ. Vì thế nhiều nhân vật trong tác phẩm “Truyện Kiều” đã bước ra từ trong trang sách để sống với cuộc đời thực, trở thành chuẩn mực để ng ười ta đánh giá con người. Dưới đây, tôi sẽ đề cập đến một số nghệ thuật miêu tả nhân vật theo hai tuyến như trên. *Biện pháp 1: Xác định đoạn thơ miêu tả nhân vật trong "Truyện Kiều" 12
- a. Miêu tả nhân vật chính diện Tả Thúy Vân: “ Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.” Tả Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.” b. Miêu tả nhân vật phản diện Tả Mã Giám Sinh: "Quá niên trạc ngọa tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao Trước thầy sau tớ lao xao... Ghế trên ngồi tót sỗ sàng..." Tả Tú Bà: "Thoắt trông nhờn nhợt màu da Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao" *Biện pháp 2: Tìm hiểu như thế nào là bút pháp ước lệ tượng trưng, bút pháp tả thực Ước lệ tượng trưng: Là dùng các chuẩn mực có sẵn, có tính qui phạm, chữ nghĩa khuôn mẫu, dùng những hình ảnh thiên nhiên để miêu tả ngoại hình nhân vật. Những hình ảnh thiên nhiên này thường tượng trưng cho sự thanh cao, quý phái. Thông thường, người xưa lấy tứ quí về vật: LongLyQuiPhư ợng. Về cây: Tùng CúcTrúcMai. Về người: Ngư TiềuCanhMục. Nói đến mùa xuân thì không quên hoa đào, hoa mai, chim én. Nói đến mùa thu thì phải có sương sa, lá ngô đồng rụng. Tả chàng trai là phải có mày râu. Tả cô gái thì nghĩ ngay đến cỏ bồ và cây liễu. Tả tráng sĩ thì dưới nguyệt mài gươm...Đối với Nguyễn Du, ông vừa tuân thủ vừa vượt qua tính khuôn mẫu có sẵn, vận dụng sáng tạo hệ thống hình ảnh thiên nhiên vào tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong các đoạn trích học ở THCS bút pháp ước lệ tượng trưng được Nguyễn Du vận dụng miêu tả nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân (Chị em Thúy Kiều) Bút pháp tả thực: Là nghệ thuật tả thực những hình ảnh, chi tiết cụ thể làm nổi bật đặc điểm của nhân vật. Nghệ thuật này được sử dụng cho những nhân vật phản diện, đó là những nét vẽ chân thực, sinh động, có 13
- tính cá thể, tạo nên những diện mạo đặc sắc: Mã Giám Sinh, Tú Bà.. là những nhân vật tiêu biểu. *Biện pháp 3: Xác định nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi tả nhân vật chính diện và nghệ thuật tả thực khi miêu tả nhân vật phản diện: ? Nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh, chi tiết nào khi miêu tả nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều? Tả Mã Giám Sinh, tả Tú Bà qua những chi tiết cụ thể nào? Về nhân vật chính diện: + Tả Thúy Vân: khuôn trăng, nét ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết. + Tả Thúy Kiều: làn thu thủy, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn. Về nhân vật phản diện: + Mã Giám Sinh: ngoại tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao... + Tú Bà: nhờn nhợt màu da, cao lớn, đẫy đà... *Biện pháp 4: Phân tích hiệu quả nghệ thuật của ngòi bút miêu tả nhân vật của Nguyễn Du Tả nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ tượng trưng : Không chỉ tả chân dung xinh đẹp của nhân vật mà còn phát đi tín hiệu dự báo tương lai, số phận con người. Tả Thúy Vân: về đâu. Trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều Nguyễn Du đã vận dụng triệt để bút pháp này để khắc họa vẻ đẹp toàn thiện, toàn mĩ trong cốt cách và trong phẩm cách của hai chị em. Chân dung Thúy Vân là một vẻ đẹp hài hòa, cân đối: “ Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.” Thúy Vân có một vẻ đẹp trang trọng “khác vời”, một vẻ đẹp quý phái, tướng của một mệnh phụ phu nhân. Khuôn mặt nàng “khuôn trăng” 14
- đầy đặn tươi sáng như trăng rằm. Lông mày của nàng “nở nang”, thanh tú như “mày ngài”. Miệng nàng cười tươi xinh như hoa, một nụ cười duyên dáng. Miêu tả nụ cười này chúng ta cũng đã bắt gặp trong ca dao: “Miệng cười như thể hoa ngâu”, đó là một nét duyên thầm của người phụ nữ. Lời nói của nàng trong trẻo như tiếng ngọc “ngọc thốt”, lời nói có giá trị, đúng mực, vừa lòng người nghe. Thật khó có thể thay từ “thốt” bằng một từ nào khác. Cử chỉ đoan trang, dịu dàng, hiền thục. Tác giả đã sử dụng từ ngữ đặc tả để miêu tả mái tóc của nàng “nước” tóc chứ không phải là “màu” tóc. Từ “nước” chỉ mái tóc suôn, mềm, óng ả, mượt mà, chảy dài. “Mây” đã mềm nhưng vẫn phải “thua” “nước” tóc của Thúy Vân. “Tuyết” đã trắng, mịn màng nhưng vẫn phải“nhường” màu da của nàng. Tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân rất chi tiết cụ thể từ: khuôn mặt, lông mày, miệng cười, nước tóc, màu da. Với hàng loạt các ẩn dụ t ươi sáng: trăng, hoa, ngọc, mây, nước để chỉ người con gái đẹp. Chỉ bằng hai từ thua và nhường cho thấy Thúy Vân không chỉ có một vẻ đẹp tươi tắn trẻ trung mà còn kiều diễm, phúc hậu, đoan trang, dự báo trước cuộc đời của Thúy Vân suôn sẻ, hạnh phúc đang mỉm cư ời dang tay chào đón nàng. Miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều VớI Thúy Kiều tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chấm phá theo kiểu “điểm nhãn”, cốt nổi bật cái thần vẻ đẹp của nàng, vẻ đẹp đó tập trung vào đôi mắt: “Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.” “Thu thủy” (nước hồ mùa thu) tả vẻ đẹp đôi mắt của Thúy Kiều trong sáng, thăm thẳm, mơ màng, huyền diệu, dợn sóng như nước mùa thu có sức cuốn hút mạnh mẽ. Đôi mắt của nàng thể hiện sự tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nhưng sâu thẳm bên trong đôi mắt ấy, ta vẫn thấy ẩn chứa trong đó một nỗi buồn mênh mang. “Xuân sơn” (dáng núi mùa xuân) đôi lông mày của nàng thanh tú trên gương mặt trẻ trung tràn đầy sức sống, càng thêm cái hài hòa kiều diễm của một trang tuyệt sắc giai nhân. Thúy Kiều đẹp hơn cả những gì thiên 15
- nhiên ban tặng khiến cho “hoa” phải “ghen” vì “thua” vẻ đằm thắm, xinh tươi của nàng;“liễu” phải “hờn” vì kém vẻ duyên dáng, tràn đầy sức sống của nàng. Thúy Kiều hiện lên là một cô gái có dung nhan rực rỡ, có hồn. Có những vẻ đẹp vô hồn chỉ có nhan sắc, còn riêng Thúy Kiều sắc đẹp của nàng càng làm đẹp thêm cho tâm hồn, trí tuệ. Chính vì vẻ đẹp ấy làm cho Thúy Kiều có sức quyến rũ lạ kỳ. Trời xanh đã ban cho nàng vẻ đẹp cả về tài và sắc thì trời xanh sẽ lại vùi dập nàng, bởi vì trời kia: “đâu có thiên vị người nào, chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai”. Một lần nữa cho ta thấy tài miêu tả của Nguyễn Du trong việc sử dụng bút pháp ước lệ t ượng trưng, chỉ là miêu tả chân dung nhưng lại dự báo được cả số phận nhân vật. Tác giả đã dùng những hình tượng thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt, trong trắng, rực rỡ, vững bền nh ư: tuyết mai, trăng hoa, mây tuyết, thu thủyxuân sơn, hoaliễu... thể hiện bút pháp ứơc lệ tượng trưng để cực tả tuyệt đối hóa, lí tưởng hóa nhan sắc, cốt cách của hai chị em Thúy Kiều. Nói tóm lại, cũng là bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng ở mỗi nhân vật lại có những nét khác biệt trong tính cách: Thúy Vân đoan trang, phúc hậu; Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà. Ở những nhân vật chính diện này, Nguyễn Du đều dành cho họ những tình cảm trân trọng, quý mến, ông dùng những từ ngữ đẹp đẽ nhất để ca ngợi họ. Đây chính là giá trị nhân văn trong Truyện Kiều. Miêu tả nhân vật phản diện bằng bút pháp tả thực: “ Tả Mã Giám Sinh: Con người họ Mã là nhân vật phản diện xuất hiện trên chặng đư ờng “Tai biến” của Thúy Kiều. Mã Giám Sinh tìm đến nhà Kiều với t ư cách ng ười giàu đi hỏi vợ thiếp. Đó là một sự việc bình thường trong xã hội xưa kia. Tuy nhiên, quá trình biến diễn cuộc mua bán là một quá trình bộc lộ logic tính cách của nhân vật hạ lưu và khả ố này. Nguyễn Du không có lời lẽ trực tiếp bình luận đánh giá về nhân vật Mã Giám Sinh nhưng bằng ngôn ngữ nghệ thuật trực diện Nguyễn Du để nhân vật dần dần bộc lộ bản chất con buôn qua quá trình mua bán. Mã Giám Sinh thuộc loại lái buôn đặc biệt nhất và dã man tàn bạo nhất, bởi loại người này buôn bán 16
- thể xác phụ nữ để “Đem về tiếp khách kiếm lời mà ăn.”dạt mây trôi” đợc Nguyễn Du vận dụng rất khéo léo, sáng tạo làm tănTrước hết, là việc tìm hiểu về lai lịch của kẻ mang danh đi hỏi vợ. Thông qua ngôn ngữ nói khi hắn đến làm lễ vấn danh, hắn được giới thiệu là người “viễn khách” (khách ở xa). Lúc ra mắt thì hắn lại trả lời: “Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”, Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Về lai lịch của Mã Giám Sinh thì chúng ta chỉ biết hắn họ Mã, còn “giám sinh” là học sinh trường Quốc Tử Giám hay là một chức quan trong triều đình xưa. Cách trả lời về tên của hắn mập mờ không rõ ràng, chúng ta thấy được sự mờ ám trong đó. Hắn ở “Lâm Tri” mà lại nói ở “Lâm Thanh” cũng gần. Không đàng hoàng trong cách trả lời, chúng ta còn thấy hắn là một kẻ lừa dối. Không chỉ có thế, lời ăn tiếng nói của hắn xấc xược, hỗn hào, cộc lốc, kém văn hóa. Đó không phải là con người tao nhã đi hỏi vợ. Ngòi bút hiện thực còn được tác giả sử dụng khi miêu tả ngoại hình, diện mạo của tên họ Mã: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Nguyễn Du đã sử dụng từ Hán Vịêt “ngoại tứ tuần” mang sắc thái trang trọng để hạ bậc tên con buôn này ở hai câu dưới. Trang phục của hắn cố làm ra vẻ phong lưu lịch sự, nhưng bên trong đó đã phảng phất tính giả tạo có phần trai lơ, đàng điếm. Tác giả chú trọng miêu tả phục sức bề ngoài của tên họ Mã già mà cố tô cho thành trẻ, là con buôn nhưng lại mượn vẻ phong lưu của một công tử hào hoa đi hỏi vợ. Những từ “ nhẵn nhụi, bảnh bao” đi kèm với nhau trong một câu thơ tạo ra sự đối xứng, cân đối giữa hai vế hé lộ hàm ý mỉa mai, chế giễu của người kể chuyện. Còn trong “Kim Vân Kiều truyện” Thanh Tâm Tài Nhân chỉ giới thiệu qua nhưng là một lời miêu tả khá ưu đãi với Mã Giám Sinh; “Mụ Hàm nói xong đi ra, hồi lâu đưa mấy người đến, trong bọn có một người đẹp đẽ, bước tới chào và ngắm nghía Thúy Kiều mãi”. 17
- Khi miêu tả nhân vật Tú Bà, cái hình dáng quá khổ "đẫy đà" và màu da "nhờn nhợt" đã tố cáo cái nghề buôn thịt bán người, kinh doanh trên thân xác phụ nữ khiến ta kinh tởm. Không những thế, mụ còn ác độc, nanh nọc, đanh dá, đay nghiến"Phải làm cho biết phép tao" và sấn sổ đánh Kiều làm cho ta kinh hãi. Nhà thơ Xuân Diệu đã không kìm được mà thốt lên rằng: " Trời đát ơi! Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt của mụ văng ra mãi đến ngàn năm!" ề Trái ngược với những nhân vật chính diện được gợi tả bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, lí tưởng hóa, Mã Giám Sinh nói riêng và những nhân vật phản diện trong Truyện Kiều nói chung được Nguyễn Du tả thực, trực diện với những chi tiết chọn lọc có tính tương phản cao. Bởi vì với bản chất xấu xa, bỉ ổi chúng không xứng đáng được đem ra đối chiếu, so sánh với những vẻ đẹp cao quí, thuần khiết của thiên nhiên. Hơn nữa chúng là loại người mà Nguyễn Du sinh thời rất căm ghét, khinh bỉ. Nhìn chung, các nhân vật phản diện trong truyện chỉ hiện lên bằng lối phác họa nhưng nhân vật nào cũng thật sinh động, cụ thể và bộc lộ rõ nhất bản chất. *Biện pháp 5: Tìm và so sánh với những đoạn trích tả người trong văn học hiện đại mà em biết, từ đó chỉ ra nét đặc sắc trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Đoạn văn 1: Tả nhân vật chính diện. Đây là đoạn văn tả nhân vật Nguyệt trong tác phẩm "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn Minh Châu. " Vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ... Cô ta mặc áo xanh chít hông vừa khít, mái tóc dày tết thành hai bím dài. Chiếc làn và chiếc nón trắng lóa khoác ở cánh tay một cách nhẹ nhàng..." ? Em có nhận xét gì về cách tả người trong đoạn văn trên? Cách miêu tả ấy có gì khác so với cách miêu tả người qua ngòi bút Nguyễn Du? Tả cô gái bằng cáhc mieu tả trực tiếp, cụ thể, kết hợp nghệ thuạt so sánh giúp người đọc hình dung về một vẻ đẹp tươi mát, trong sáng, tinh 18
- khiết, vẻ đáng mến, đáng quý của một cô thanh niên xung phong trên tuyến đương Trường Sơn huyền thoại. Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, còn cách tả người trong văn chương hiện đại sử dụng phép so sánh, liên tưởng, miêu tả cụ thể những chi tiết, đặc điểm của nhân vật không theo khuôn mẫu như văn học cổ. Đoạn văn 2: Tả nhân vật phản diện: Tả nhân vật quan huyện Hinh trong tác phẩm "Đồng hào có ma" của Nguyễn Công Hoan. "Năm nay ông đã ngoại tứ tuần. Ông vẫn lấy cái tuổi của ông để lên mặt tiền bối, khinh những ông huyện trẻ khác nếu tụi này chỉ dám coi ông là bậc ngang hàng. Ông liền khoe thằng cả đã hai nhăm, rồi ông cặp ngón trỏ và ngón cái với nhau vê vê trên mép, trên mép ông, ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu. Ông để râu cho khác hẳn với tụi huyện trẻ nhãi, nguyên cái da mặt ông nhỏ, mà có lẽ vì ông béo quá nên lỗ chân lông căng ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu không có chỗ nào lách ra ngoài được. Đến nỗi năm bốn mươi tuổi mà mặt cứ nhẵn thín như thường... Và bây giờ thì nó hình cái dấu chua nghĩa". ? Em có nhận xét gì về chân dung nhân vật huyện Hinh qua đoạn văn trên? Cũng bằng bút pháp tả thực, vài nét chấm phá, nàh văn đã đặc tả khuôn mặt nhân vật, người đọc có thể hình dung ra một tên quan tham lam, hách dịch, thíh khoe mẽ và quyền uy, cái vẻ mặt của một tên quan tham lam đáng ghét. *Biện pháp 6: Yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du qua một đoạn thơ cụ thể. Ví dụ: Vẻ đẹp của bức tranh xuân trong bốn câu thơ đầu đoạn trích " Cảnh ngày xuân" qua ngòi bút Nguyễn Du? Tôi cho học sinh làm bài trong khoảng 30 phút và thu được kết quả khá tốt. Tôi xin trích một bài làm của học sinh như sau: " Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hìmh ảnh cánh én chao liệng trên bầu trời tràn ngập ánh xuân tươi tắn, 19
- trong sáng. Đồng thời, nhà thơ cũng ngỏ ý nuối tiếc ngày xuân trôi qua nhanh quá như "con én đưa thoi", chín mươi ngày xuân mà nay "đã ngoài sáu mươi". Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ: "Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Đây chỉ là chân dung của cảnh ngày xuân, chỉ giản đơn có cỏ xanh và hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không gian mùa xuân khoáng đạt. Ở đây, Nguyễn Du đã học tập hai câu thơ cổ Trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa". Nhưng khi dưa vào bài thơ của mình, Nguyễn Du đã rất sáng tạo. Câu thơ cổ dùng hình ảnh "cỏ thơm" ( phương thảo), thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng "cỏ xanh" thiên về màu sắc. đó là màu xanh nhạt pha với vàng chanh tươi tắn, hợp với màu lam trong sáng của nền trời buổi chiều xuân làm thành gam nền cho bức tranh, trên đó điểm xuyết những đốm trắng hoa lê. Bức tranh dung hòa những sắc độ lạnh mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa xuân. Chữ "trắng" đảo lên trước tạo sự bất ngờ, sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết như kết tinh những tinh hoa trời đất. Chữ "điểm" gợi bàn tay người họa sĩ vẽ nên thơ nên họa, bàn tay tạo hóa tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm cho bức tranhtrở nên có hồn, sống động. Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình, ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành công trong bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi. Qua đó ta thấy tâm hồn con người tươi vui, phấn chấnqua cía nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn hồn nhiên, nhạy cảm, tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên. ( Bài làm của học sinh) Qua việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh, tôi đã hướng dẫn các em phát hiện và tiếp thu kiến thức về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du qua một số đaon trích "Truyện Kiều". Trong khuôn khổ một đề tài nhỏ, tôi chỉ xin đưa ra một vài biện pháp khi khai thác nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du ở khía cạnh nghệ thuật tả cảnh và tả người như trên.Ngoài ra, tài năng của Nguyễn Du còn được thể hiện khi miêu tả nhân vật qua cử chỉ, hành 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 384 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Hướng dẫn học sinh lớp 12 sử dụng, khai thác kiến thức, rèn luyện các kĩ năng Địa lí từ atlat địa lí Việt Nam
19 p | 222 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Khai thác tiềm năng của trí tuệ nhân tạo trong chuyển đổi số giáo dục
23 p | 24 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác điều kiện phản ứng và hiện tượng phản ứng hóa học để tạo hứng thú học chương Halogen
12 p | 126 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác Autograph hỗ trợ dạy học nội dung đạo hàm và ứng dụng của đạo hàm
33 p | 103 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác hiệu quả hệ thống câu hỏi trong dạy học phân môn Tập đọc lớp 4 nhằm phát triển năng lực học sinh
41 p | 107 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Khai thác phần mềm Geometer’s Sketchpad trong giảng dạy Hình học THCS
42 p | 89 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Khai thác và phát triển từ một bài toán đơn giản để bồi dưỡng toán 8
12 p | 42 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non Kim Sơn
29 p | 34 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Khai thác và sáng tạo các bài toán mới từ khái niệm và bài tập cơ bản
20 p | 118 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn học sinh khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 11
28 p | 65 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác các ứng dụng từ một bài toán lớp 8
14 p | 52 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp dạy học, khai thác chất nhạc trong thơ cho học sinh Trung học cơ sở
12 p | 8 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong trường mẫu giáo
7 p | 34 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hướng dẫn khai thác số liệu thống kê ở chương trình Địa lí 12
82 p | 25 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát triển tư duy của học sinh qua khai thác bài toán hình học cơ bản trong sách giáo khoa môn Toán lớp 9
27 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Khai thác ý nghĩa của một số loại cây trong nhà trường gắn với nội dung chương trình môn học và hoạt động giáo dục trường tiểu học
47 p | 11 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Khai thác và xây dựng các bài tập hình học không gian có tính hệ thống để phát triển tư duy sáng tạo, tính tích cực và năng lực giải bài tập cho học sinh lớp 11 và học sinh lớp 12 ôn thi đại học
28 p | 56 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn